Từ vựng Công Giáo: Cô hồn - Linh hồn mồ côi
CN, 21/04/2013 - 10:36
Tháng Bảy âm lịch, người bên lương thường cúng
cô hồn. Giáo dân hay xin lễ cho các linh hồn mồ côi. Vậy hai khái niệm cô hồn
và linh hồn mô côi có liên quan gì với nhau không?
1. Khái niệm cô hồn.
- Cô, có nhiều chữ Hán 孤, 姑, 沽, 泒, 鴣 (鸪), 箍, 罛, 蛄, 觙, 辜, 酤, 菇, 咕, 菰, 苽, 觚, 軲. Trong từ cô hồn là chữ 孤, nghĩa
là: (dt.) (1)
Cha chết sớm, hay không có cha. (2) (cũ) Quan cô (tên chức quan, nằm khoảng
giữa chức tam công và lục khanh, gồm thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo); (3) Xưa
người diễn vai quan lại trong vỡ kịch. (4) Họ Cô. (đdt.)
(5) vua chúa tự xưng: Xưng cô đạo quả. (đt.)
(6) Phụ bạc: Cô ân (phụ ơn). (tt.) (8) Đơn độc: Cô
sơn (núi trọi), cô thụ (cây trọi). (Pht.)(9)
Lẻ loi: Cô lập vô trợ (trơ trọi một mình không ai giúp). (10) Học
thức dốt nát hẹp hòi: Cô lậu, (11) Tính tình ngang bướng: Cô
tịch(không thể hoà hợp với ai cả). (12) Một mình: Nhất ý cô
hành (làm theo ý riêng).
- Hồn, có những chữ Hán sau: 魂, 渾 (浑), 餛 (馄), 琿 (珲), trong
từ cô hồn là chữ 魂, nghĩa là (dt.) (1) Phần thiêng
liêng của con người: Linh hồn. (2) Tinh thần của sự vật: Quốc
hồn (Phần thiêng liêng của quốc gia). (3) Tình cảm của con người khi quá
xúc động: Tiêu hồn (mất hồn)...
a. Nghĩa thuật từ cô hồn (孤魂): Hồn người chết lẻ loi, không ai
cúng vái.
Quan niệm về cô hồn.
- Theo Phật Giáo: Ngày Rằm tháng Bảy (Âm lịch) được gọi
là ngày “Báo hiếu cha mẹ” tức lễ Vu Lan và cũng là ngày “Xá tội vong nhân” tức
lễ cúng cô hồn. Trong dân gian, nhiều người vẫn nghĩ hai lễ này chỉ là
một, nhưng thực ra đây là hai lễ khác nhau được cử hành trong cùng một ngày.
Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu
thảo của ông Mục Liên: Phật Tổ dạy ông Mục Liên vào giữa tháng Bảy bày trăm món
ngũ quả thiết đãi chư tăng thập phương để chung sức cứu mẹ ra khỏi địa ngục đau
khổ. Còn tục cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan
Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là
quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Theo “Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni
Kinh”: Một đêm kia, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ
thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng
ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như
nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói
nói: “Ngày mai ông phải thí cho bọn chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì
tôi mà cúng dường tam bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh
về cõi trên”. A Nan đem chuyện thưa với Ðức Phật, Phật bèn đặt cho bài chú gọi
là “Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni”, đem tụng trong lễ cúng để được thêm
phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng Diệm Khẩu, tức là cúng để bố
thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra
và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật
vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái.
- Theo Đạo Giáo: Rằm tháng Bảy gọi là Tết Trung Nguyên.
Tết Trung Nguyên bắt đầu từ thời Bắc Nguỵ (năm 386-534), còn gọi là Tết Quỷ.
Đạo Giáo có Tam Quan, tức là Thiên Quan, Địa Quan và Thuỷ Quan, ngày sinh của
Tam Quan là Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Bảy và Rằm tháng Mười, ba ngày này gọi
là tam nguyên. Rằm tháng Bảy là Trung Nguyên, Địa Quan đến xá tội các giới.
Theo truyền thuyết, ngày Rằm tháng Bảy cửa Địa Ngục mở ra, quỷ hồn đều được thả
ra. Hồn có chủ thì về nhà, cô hồn thì đi khắp nơi tìm thức ăn, nên
trong tháng Bảy người ta cúng cô hồn, để họ không làm hại người ta.
- Theo tập tục: Việc cúng cô hồn đã
có từ đời nhà Đường bên Trung Quốc khi ngài Huyền Trang trở về sau chuyến Tây
Du, lập đàn cúng tế cầu siêu cho tứ sanh[i] đang luân hồi trong lục đạo.
Đến đời nhà Tống (960 - 1279), Nho Giáo, Phật Giáo và Lão Giáo liên kết với
nhau. Ngày Xá Tội vong nhân của Phật Giáo, Tết Trung Nguyên của Đạo Giáo và
việc thờ kính tổ tiên của Nho Giáo đã kết hợp hoạt động, hình thành tập tục
cúng cô hồn tại vùng Đông Á.
Như nhiều dân tộc Đông Á, người Việt Nam cũng
cho rằng những người chết vì chiến tranh, đánh nhau, bệnh dịch, tàn sát, chết
oan, tội lỗi, thiên tai, tai nạn xe cộ..., những người chết như vậy thì “đại
miếu bất thu, tiểu miếu bất lưu” (Miếu lớn không nhận, miếu nhỏ không cho ở),
hồn không được cúng dưỡng, phải đoạ đày trong địa ngục hay phải lang thang khắp
nơi, có khi phá phách, làm hại người sống. Những linh hồn đó được gọi
là cô hồn, tức là hồn người chết lẻ loi, không ai cúng vái. Để cõi âm
và cõi dương đều được bình an, từ xa xưa người Việt cũng đã có tập tục
cúng cô hồn vào tháng Bảy âm lịch, để họ sớm được thoát khỏi Địa
Ngục, mà nhân gian cũng không bị cô hồn phá rối.
b. Nhận xét.
Như vậy, cúng cô hồn là một tập tục
thể hiện lòng trắc ẩn, “nhân đạo”: nhằm cứu giúp những linh hồn khốn khổ, nhưng
đồng thời cũng có thể là một hình thức “hối lộ”: để khỏi bị các oan hồn quấy
phá, hoặc “vụ lợi”: để được họ “giúp đỡ”.
Trong khái niệm cô hồn còn bao gồm
một khái niệm khác là oan hồn. Oan hồn là gì? - Oan hồn là hồn người chết oan.
Nhưng thế nào là chết oan? - Những người bị ám sát, bị bức tử, bị giết khi chưa
kịp sinh ra (thai nhi), chết “bất đắc kỳ tử”... được coi là chết oan ức (theo
nghĩa chữ: oan là trái lẽ công bằng). Do quan niệm ở đời có “sinh, lão, bệnh,
tử”. Có sinh thì ắt có tử, chết vì già hay do bệnh tật thì là lẽ thông thường,
còn những người chết không theo ‘lẽ thông thường’ này thì người ta gọi là chết
oan, và oan hồn thường không thể “siêu thoát” hay “đầu thai” được vì nuối tiếc
cuộc sống dang dở của mình. Vì thế, việc cúng cô hồn cũng bao gồm
việc cúng tế các oan hồn.
2. Khái niệm linh hồn mồ côi.
a. Nghĩa chữ mồ và côi:
- Mồ, là tiếng Nôm, vì cách viết chữ chưa thống nhất[ii], trong
từ mồ côi, mồ có thể viết ba cách: (1) 戊 (Hán Việt
đọc là mậu, chỉ can thứ năm trong thập can) cách viết này được dùng nhiều hơn;
(2) 慕[iii] (Hán Việt đọc là mộ, nghĩa là: nghĩ tới, nhớ tới; yêu mến, ham
thích); và (3) 炐 (cũng đọc là phừng, gồm bộ hỏa (火) ghép với
chữ phong (丰): nhiều, đầy đủ). Mồ nghĩa là mất
cha, hoặc mẹ, hoặc cả hai.
- Côi, cũng là tiếng Nôm, có bốn cách
viết: (1) 孤, (Hán Việt đọc là cô, nghĩa là:
một mình, trơ trọi, lẻ loi, cô đơn, không có cha hay cha chết[iv];
(2) (kết hợp bởi hai chữ cô (孤) và ngôi (嵬) nghĩa là: cao ngất); (3) kết hợp bởi
hai chữ thị (示) nghĩa là: bảo cho biết, cho hay, biểu hiện,
tỏ rõ; và quỷ (鬼) nghĩa là: tinh ma, xảo trá, đáng ghét; người
chết cũng gọi là quỷ); (4) (kết hợp bởi hai chữ cô (孤) và khôi
(魁) nghĩa là: to lớn, cao lớn; người đứng đầu, kẻ đầu sỏ).
Côi nghĩa là mất cha mẹ: Mẹ goá
con côi.
b. Nghĩa thuật từ mồ côi: (1) Người không còn cha hay
mẹ, hay không còn cả cha lẫn mẹ. Khi mất cha gọi là mồ côi cha,
mất mẹ gọi là mồ côi mẹ: “Mồ côi cha, ăn cơm với cá, Mồ côi
mẹ, lót lá mà nằm” (Ca dao). (2) Côi cút, đơn độc, thiếu sự hỗ
trợ (về tinh thần hay vật chất) của những người khác trong một hoàn cảnh nào
đó: “Đàn ông đi biển có đôi, Đàn bà đi biển mồ côi một mình” (Nói
về sự khó nhọc mà người đàn bà phải chịu trong khi sinh nở).
c. Nghĩa của thuật ngữ "linh hồn
mồ côi": Theo tôi hiểu, “linh hồn mồ côi” là cụm từ được Giáo Hội Công Giáo
dùng như một thuật từ để gọi chung linh hồn của những người đang ở trong Luyện
Ngục mà khi còn sống trên đời đã phải đơn độc trong cuộc lữ hành đức tin,
hoặc trong hiện tại không mấy ai nhớ cầu nguyện cách riêng
cho họ nữa. Nói vắn tắt là: những linh hồn đang thiếu
sự giúp đỡ của những người thân thuộc
đang sống.
d. Quan niệm về linh hồn mồ côi: Trong bài Lễ Các
Đẳng[v], tôi đã có phân tích ý nghĩa của thuật từ này: Khi nói “linh hồn
mồ côi”, chúng ta nghĩ tới linh hồn của hạng người phải đơn độc trong cuộc
lữ hành đức tin khi còn ở trên đời. “Đơn độc”, “cô quả”, “mồ côi”.... hiểu theo
nghĩa đời thường là không có người thân thích, bạn bè, không có ai đồng hành để
được quan tâm, nâng đỡ đời sống đức tin. Họ có thể là những tín hữu cô nhi, quả
phụ hay kẻ cơ bần sống đơn chiếc. Họ cũng có thể là những tín hữu giàu sang,
con đàn cháu đống, bạn hữu tứ phương mà thực ra những người quen biết xung
quanh họ không ai có niềm tin Công Giáo như họ, để xin lễ hay cầu nguyện cho
họ. Họ cũng có thể là những tín hữu như bao tín hữu khác, khi qua đời cũng có
thân nhân, bạn hữu cầu nguyện cho họ... nhưng hiện tại những người đó cũng đã
qua đời và không còn mấy ai nhớ đến họ nữa, vì họ chết đã quá lâu. Và nay, những
linh hồn đó đang ở trong Luyện Ngục, đang cần đến lời cầu nguyện từ Giáo Hội
chiến đấu[vi]. Hay nói cách khác, người ta hiểu theo kiểu quan hệ của con người
trong đời sống trần thế là cô thân cô thế. Vì thế “linh hồn mồ côi” không
phải là linh hồn bị Giáo Hội bỏ rơi hay lãng quên, lại càng không
phải là linh hồn không được Chúa đoái trông chăm sóc, ít được Chúa yêu thương
hay bị Ngài lãng quên... Suy nghĩ như vậy là hoàn toàn sai lầm.
Có những vị phủ nhận
khái niệm linh hồn mồ côi trong đức tin
Công Giáo, họ cho rằng: “Nói linh hồn “mồ côi” là nói theo suy nghĩ
của con người mà thôi; và điều này không đúng với giáo lý và thực hành trong
phụng vụ thánh của Giáo Hội, vì Giáo Hội không hề phân biệt linh hồn nào là mồ
côi, linh hồn nào có thân nhân còn sống như người ta quen nghĩ mà chỉ cầu chung
cho tất cả các tín hữu đã ly trần ngay cả trong những thánh lễ có người xin cầu
riêng cho những linh hồn thân nhân của họ đã qua đời. Như vậy, không có vấn đề
“linh hồn mồ côi” trong niềm tin và thực hành của Giáo Hội.”[vii] Hoặc:
“Là linh hồn mồ côi khi không có ai cầu nguyện cho, bây giờ hàng ngày có người
cầu nguyện cho thì hẳn là hết tình trạng mồ côi. Chúng ta chấp thuận lối lý
luận sơ đẳng này chứ?... Giáo Hội không bao giờ quên cầu cho các linh hồn.
Không những cầu cho các linh hồn Kitô hữu mà còn nhớ đến các linh hồn chưa biết
Chúa, chưa tin Chúa đã sống lại. Cầu cho cả những ai không cùng niềm tin Kitô
giáo... Với tâm tình đó Giáo Hội không có linh hồn mồ côi”[viii].
Chúng tôi đồng ý: “Nói linh hồn mồ côi là
nói theo suy nghĩ của con người” nhưng không có gì “không đúng
với giáo lý và thực hành trong phụng vụ thánh của Giáo Hội”. Trong phụng
vụ, thánh lễ hay kinh nhật tụng, Giáo Hội không cầu nguyện cách riêng cho các
linh hồn mồ côi KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ KHÔNG CÓ CÁC LINH HỒN NÀY.
Tại sao chúng ta phải nhớ cầu nguyện cho ông
bà, cha mẹ, thân nhân, hay cho những người nào đó cách riêng? Hội Thánh đã
chẳng chính thức công nhận và khuyến khích việc cầu nguyện cho những linh hồn
riêng rẻ đó sao (nhất là qua việc xin lễ)? Vậy thì, việc cầu nguyện ấy phải
tăng thêm lợi ích cho các linh hồn riêng rẻ. Từ đó, suy ra: Những linh hồn
không có thân nhân, không được ai nhớ đến trong luyện hình phải là những linh
hồn ‘thua thiệt’, kém may mắn hơn. Vì thế, đức ái đòi buộc chúng ta phải chiếu
cố đến họ - cũng tương tự như đối với những người cô thân, cô thế trong xã hội
mà ta đang sống vậy. Nếu các linh hồn ấy không được ‘xếp loại’ để được chiếu cố
thì cũng chẳng cần xin lễ cầu nguyện cho ai cả - “Giáo Hội đã chẳng cầu nguyện
CHUNG trong Kinh Nguyện Thánh Thể rồi sao?” (!). Điều nầy vẫn không ra ngoài
tín điều “Các thánh thông công”.
Nếu hiểu linh hồn mồ côi theo
nghĩa hẹp là “vong linh mất cha hoặc mất mẹ hoặc mất cả cha lẫn mẹ” thì
thuật từ này không có ý nghĩa gì hết. Vì “linh hồn nào không có Chúa là
Cha và Mẹ Maria là mẹ” hoặc người đã ở bên kia thế giới (vong linh) thì thế nào
gọi là mất cha hay mẹ? Vậy phải hiểu theo nghĩa rộng, tức là “vong linh thiếu lời
cầu nguyện của người thân”, “thiếu” chứ không phải là “không có”,
“thiếu” theo nghĩa là “chưa đủ mức”, như thánh Phaolô đã nói: “Những gian
nan thử thách Ðức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân
cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1, 24).
Cha Mark (CMC), hiểu linh hồn
mồ côi theo nghĩa đó, đã viết: “Việc cầu nguyện cho các linh hồn
mồ côi vì là một điều rất nên có, một truyền thống tốt đẹp của
giáo dân Việt Nam rất đáng trân trọng, khuyến khích, vừa theo văn hóa, vừa theo
tình thương, vừa theo luật tự nhiên ‘Nay ta thương người, mai Chúa soi cho
người khác thương ta’”. Và ngài còn nhắc lại ý tưởng của cha Gioan
Trần Bình Trọng: “Các linh mục sau khi qua đời cũng rất dễ trở thành
những linh hồn mồ côi. Linh mục là người tế lễ hằng ngày để thờ phượng Chúa và
xin ơn tha tội cho người tội lỗi. Tuy nhiên thường không mấy ai nghĩ rằng linh
mục cũng cần lời cầu nguyện vì người ta cho rằng linh mục phải thánh thiện hơn
giáo dân. Rồi khi một linh mục nằm xuống vĩnh viễn thì thường ông bà cố thân
sinh cũng như các anh chị đã ra đi trước, không còn mấy ai để nhắc nhở cho các
cháu chắt cầu nguyện cho nữa. Như vậy phải chăng linh mục khi chết rồi,
có thể trở thành những linh hồn mồ côi chăng?”[ix].
Anh A muốn xin lễ cho cha mình là một tử sĩ,
đồng thời anh cũng muốn nhân dịp đó cầu nguyện chung cho các linh hồn “chiến sĩ
trận vong”, chúng ta có thể từ chối ý lễ này vì lý do: “Giáo Hội không bao giờ
quên cầu cho các linh hồn” hay “không có chỗ nào phân biệt linh hồn tử sĩ với
các linh hồn khác” hay không?
3. Một vài suy nghĩ
Tất cả giáo huấn của Chúa Giêsu, chủ yếu tập
trung nơi chính thân phận con người đang sống, để làm sao đạt được ơn cứu độ.
Các vấn đề khác, tuỳ mức độ cần thiết trong tương quan đến chủ đích ấy, được
mặc khải hay không và mặc khải ít hay nhiều.
Giáo lý về các linh hồn (hiểu như là các hữu
thể tồn tại từ con người sau khi đã chết) cho biết một số chân lý nào đó về số
phận các linh hồn, nhưng cũng không bao giờ giải thích tường tận được theo
logic mà con người đang dùng hôm nay. Thí dụ: Trong thế giới thiêng liêng có
thời gian hay không? Linh hồn là hữu thể thiêng liêng, vậy có thay đổi không?
Thời gian trong Luyện Ngục là gì? Cũng thế, nhiều giáo phái Kitô Giáo vẫn còn
tranh luận về vấn đề hiện hữu của Hỏa Ngục, vì đối chiếu với tính nhân từ yêu
thương vô hạn của Thiên Chúa... Việc các linh hồn mồ côi cũng
thế. Nếu vẫn muốn hiểu theo cái logic của conngười đang dùng, thì vẫn còn nhiều
điểm để tranh luận, chẳng hạn:
Chúa chẳng là Cha nhân từ đủ cho các linh hồn
hay sao lại để phải có những linh hồn mồ côi?
Trong thế giới do chính Thiên Chúa làm Vua,
lại còn có những phần tử thất thế, thua thiệt, côi cút, cần phải được con người
thế trần đặc biệt chiếu cố?
Trong nơi không còn tội lỗi, chỉ có tình
thương như Luyện Ngục, các linh hồn ‘giàu có’ có san sẻ với các linh hồn cô độc
không? vv...
Tuy nhiên, về mặt luận lý, không bàn đến tín
lý, thì cũng có thể đi từ ‘đầu kia’, nghĩa là các lập luận đã dẫn trên, để đến
kết luận là cần cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi. Điều này cũng
tương tự như lập luận giải thích các mầu nhiệm khác thôi. Hơn nữa, đặc tính của
Giáo Hội Công Giáo là thông công. Chính do đặc tính này mà mọi người được tha
tội, thánh hoá và cứu độ nhờ vào Đầu là Chúa Giêsu Kitô. Do đó, Chúa muốn mọi
chi thể phải luôn hợp thông với nhau bằng Đức Ái. Đối với các linh hồn, đức ái
trọn vẹn thể hiện qua việc hợp thông với những linh hồn mồ côi. Cũng
như trên trần thế, Đức Ái đặc biệt thể hiện qua những người ‘nghèo khó và bé
nhỏ’.
Tóm lại: Thiên Chúa, tự Chúa, không cần
chúng ta làm gì cả, để Chúa hiện hữu như chính Chúa, nghĩa là hiện
hữu trọn vẹn và hợp lý. Nhưng mọi việc mà chúng ta phải làm, thực ra cũng chỉ
là cho chính mình mà thôi. Nói thế, mới nghe có vẻ như nghịch với nguyên lý:
Mọi sự phải quy về trong Chúa Kitô. Nhưng thực tế là thế, Chúa không cần chúng
ta phải đọc mấy kinh dâng cho Chúa, để người được thêm vinh quang hay hài
lòng...; Chúa cũng không cần chúng ta bố thí cho người cùi chén cơm nguội hay
năm mười ngàn gì đó. Chúa có thể cho con người ấy thành một người hạnh phúc mọi
mặt dễ dàng. Nhưng nói cho cùng, những hành động ấy, Chúa muốn ta làm giống như
một người Cha khôn ngoan, tập cho con cái mình biết chia cái bánh cho anh chị em
của nó vậy.
Chúng ta chưa có thuật từ nào để gọi riêng cho
tập thể các linh hồn nạn nhân của một cuộc thiên tai, khủng bố hay dịch họa...
những linh hồn mà lương dân gọi là “oan hồn”, nhưng việc cầu nguyện cách riêng
cho những trường hợp như thế không có gì là không đúng với giáo lý và thực
hành trong phụng vụ thánh của Giáo Hội. Một thánh lễ cầu nguyện cho
“các linh hồn nạn nhân cuộc khủng bố ngày 11/9” chẳng hạn, là việc tốt
lành. Nhưng không thể nói đó là thánh lễ cầu nguyện cho “các oan hồn ngày 11/9”.
Vì khái niệm “oan hồn” - như đã nói trên, ngoài ý nghĩa “chết không theo ‘lẽ
thông thường’” còn hàm nghĩa: “không thể siêu thoát hay đầu thai”, “còn nuối
tiếc cuộc sống dang dở của mình”... là những ý niệm không phù hợp đức tin Công
Giáo.
“Qua nhiều chứng tá từ việc các linh hồn hiện
về xin cầu nguyện[x] ta có thể nghiệm ra rằng: Linh hồn
mồ côi chính là những linh hồn bị thân nhân quên lãng hoặc cũng được
thân nhân xin lễ cầu nguyện định kỳ hàng năm theo thói quen (cho yên tâm) chứ
không đặt tấm lòng vào thánh lễ hay các giờ kinh nguyện, để tha thiết nài xin
cho linh hồn đó. Vậy xin anh chị em hãy “bỏ ống lòng thương xót” cho những linh
hồn này hầu các ngài được về hưởng Nhan Thánh Chúa”[xi]
4. Kết Luận
Hai khái niệm cô hồn (linh
hồn người chết lẻ loi, không ai cúng vái) và linh hồn mồ côi (linh
hồn bị thân nhân quên lãng) đều gợi lên ý tưởng đơn độc, cô quả, khốn khổ, cần
sự giúp đỡ.
Nhưng để tránh sự lẫn lộn trong niềm tin về số
phận của người quá cố trong các tôn giáo khác, Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam
đã sử dụng cụm từ “linh hồn mồ côi”, với ý nghĩa mà chúng
tôi đã nêu ra ở trên, như một thuật từ riêng của Giáo Hội tại Việt Nam vậy.
----------------------------------------
[i] Tứ sanh là bốn cách sanh ra. Các loài động vật được chia thành 4
nhóm theo cách thức sanh ra: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh và hóa sanh.
[ii] Cách viết của chữ Nôm chưa thống nhất, nhưng theo ông Vũ Văn Kính, tác giả
Tự Điển Chữ Nôm tái bản năm 1992, có lời giới thiệu của ông Hồng Dân, Chủ
Tịch Hội Ngôn Ngữ Học Tp. HCM, thì cách cấu tạo chữ Nôm được xếp thành 7 loại
chính: 1. Chữ Hán, 2. Đọc nghĩa, 3. Hài thanh, 4. Hài thanh Nôm, 5. Hội ý, 6.
Giả tá, 7. Giả tá Nôm.
[iii] Hai chữ 戊 và 慕 đều
theo cách giả tá, tức là mượn chữ Hán.
[iv] [v] Xem Bài Giảng Chúa Nhật, số 11, năm 2010.
[vi] Công đồng Florence (1431) đã định tín: Có luyện ngục để thanh
luyện các linh hồn. Các linh hồn ra khỏi trần gian không còn có thể làm được
việc gì lành để cứu mình nên chỉ trông cậy vào những người còn sống lập công
cầu nguyện cho mình để rút ngắn thời gian thanh luyện. Vì thế mà Giáo Hội kêu
gọi tín hữu cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội.
[vii] Xem bài của Lm. PX. Ngô Tôn Huấn: CÓ LINH HỒN NÀO “MỒ CÔI” VÀ
“KHỐN NẠN” KHÔNG? (http://liengiaositusi.com/MucVu/LMNTH/004LMNTH-LHMoCoi.html)
[viii][ix] Xem bài của Lm. Mark, CMC: CÓ LINH HỒN MỒ CÔ I KHÔ NG??? (http://www.xuanha.net/gl-LUYENNGUC/Luyennguc-cuocthanhtaycuoicung/pt5-l
inhhonmocoi.htm).
[x] Xem bài của Lm. Mark, CMC (đã dẫn)
[xi] Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt: CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH HỒN MỒ
CÔI TRONG LUYỆN NGỤC (http://thanhcavietnam.org/forum/archive/index.php?t-16281.html).