Tôi – con
Trong cuộc hội nghị về vấn đề xã hội,
người tham dự có cả lương giáo và cán bộ nhà nước, một vị giám mục lên phát
biểu và tự xưng là “con” với cử toạ. Lần khác, một vị linh mục trẻ đến dâng lễ
tại xứ tôi, trong thánh lễ có cả trẻ nhỏ và người lớn, khi giảng, cha cũng tự
xưng là “con” với cộng đoàn.
Nghe cách tự xưng như vậy, làm tôi suy nghĩ và
thắc mắc. Vậy, khi nói chuyện với công chúng hay giảng trước cộng đoàn, những
vị có chức thánh phải tự xưng thế nào.
1. Việc xưng hô trong một số nền văn hoá
1.1. Cách xưng hô của người Trung Quốc
Văn hoá Trung Hoa có 5.000 năm lịch sử, người ta
gọi Trung Quốc là “Văn minh cổ quốc, lễ nghi chi bang” (Nước có văn minh lâu
đời và lễ nghi). Cổ nhân thường nói: “Vi nhân tử, tiên học lễ” (Đạo làm con,
trước tiên phải học lễ). Trong văn hoá Trung Quốc cổ đại, “lễ” và “nghi” là hai
quan niệm khác nhau. “Lễ” là quan niệm về chế độ, quy tắc và ý thức xã hội;
“Nghi” là hình thức thể hiện cụ thể căn cứ vào quy định và nội dung của lễ, để
hình thành một nghi thức có hệ thống và hoàn chỉnh. Cách xưng hô của người Hoa
phản ánh tông pháp (hệ thống gia tộc), tập tục, giai cấp, địa vị và danh vọng.
Hệ thống xưng hô của người lớn, kẻ nhỏ, cấp trên, thuộc hạ đều khác biệt, ai
cũng theo hệ thống đó chứ không thể xưng hô khác đi. Cách xưng hô cũng thể hiện
tinh thần khiêm tốn và tôn trọng người khác: “xưng khiêm, hô tôn”, phải biết
“tôn lão, kính hiền” (tôn trọng người lớn tuổi, kính trọng người có tài).
Trước năm 1919, những người Trung Quốc du học
bên Tây, như: Hồ Thích, Trần Độc Tú, Lỗ Tấn, Tiền Huyền Đồng, phát động Phong
trào Văn hoá, chủ trương “phản truyền thống, phản Nho giáo, phản cổ văn”. Ngày
4-5-1919, phong trào Tân Văn hoá được phát động, loại bỏ tất cả tập tục cũ.
Ngày 18-8-1966, Mao Trạch Đông phát động cuộc Cách mạng Văn hoá, chủ trương
loại trừ tất cả “tử tưởng cũ, văn hoá cũ, phong tục cũ, tập quán cũ”, đốt bài
vị tổ tiên, sách cổ, phá từ đường tông miếu, triệt để phá hoại văn hoá Trung
Hoa.
Bây giờ, người Hoa mất hết cách xưng hô tốt đẹp
xưa, toàn theo phương Tây. Thậm chí cũng không có tôn xưng Thiên Chúa như người
Việt mà gọi thẳng tên Chúa, thay vì gọi Chúa Giêsu hay Đức Kitô, người Hoa
thường gọi thẳng Giêsu hay Kitô mà thôi.
1.2. Cách xưng hô của người Việt
Người Việt chịu ảnh hưởng Trung Quốc nhiều,
nhưng may mắn không xảy ra cách mạng văn hoá, nên còn giữ lại được cách xưng hô
theo truyền thống tốt đẹp. Tiếng Việt cũng rất phong phú về từ xưng hô. Vì quá
phong phú, đối với người nước ngoài học tiếng Việt lại trở thành khó khăn, bởi
phải hiểu rõ về tôn ti trật tự. Cách xưng hô tiếng Việt chủ yếu là gia đình hoá
xã hội, tức là lấy quan hệ gia tộc làm gốc. Nên đòi hỏi chúng ta phải biết vận
dụng một cách hợp lý về quan hệ giữa hai bên đối thoại.
Ở phạm vi gia đình hay gia tộc có cách xưng hô
riêng, ngoài xã hội thì có cách xưng hô khác biệt. Trong xã hội Việt
a. Xưng hô ngoài xã hội phải tuân thủ nguyên tắc
“xưng khiêm, hô tôn”.
b.
Tuổi tác là tiêu chí quan trọng nhất.
c.
Quyền lực xã hội cần được đề cao.
d.
Gia đình hoá xã hội để thân mật hoá.
e.
Xưng hô trong gia đình khác biệt với xưng hô ngoài xã hội.
Trong
khuôn khổ bài này, chúng tôi chỉ muốn nhìn lại một vài trường hợp trong cách
xưng hô của người giáo dân và các vị có chức thánh, cách riêng về tiếng tôi và
con.
2.
Nghĩa của chữ tôi và con
2.1.
Nghĩa của “tôi”
2.1.1. Chữ Hán, tôi: 淬, 焠 (đt.) Trui rèn, Dùng nước lạnh và lửa luyện kim
loại ra cứng
2.1.1. “Tôi” là tiếng Nôm, có nhiều chữ Nôm với nhiều
nghĩa, khác nghĩa cũng viết khác: 碎 (đdt.) (1) Khiêm từ, người đang nói tự xưng
mình. (dt.) (2) Nghĩa giữa vua và quần thần: Vua tôi. (3) Người thấp kém: Tôi
tớ; Tôi đòi; Bầy tôi. 焠 (đt.) (4) Pha đá vôi đã nung vào nước: Tôi vôi.
(5) Nhúng lẹ sắt nóng vào nước lạnh để sắt thêm cứng: Tôi dao. (6) Rèn luyện
tính tình: Tôi luyện ý chí. 晬 (dt.) (7) Con nít lên một tuổi: Mừng tuổi tôi. 𤏣 (đt.) (8) Tôi thép. (dt.) (9) Tôi đòi, phận tôi.
2.2. Nghĩa của “con”
Con cũng là tiếng Nôm, có hai chữ Nôm: 昆, 𡥵 (dt.) (1) Trẻ do cha mẹ sinh thành: Con cái. (2)
Vật còn nhỏ: Chó con; Gà con. (3) Tiếng gọi đàn bà với ý khinh bỉ: Con kia đã
bán cho ta. (4) Thuỷ triều dâng cao: Con nước; Trông vời con nước mênh mông.
(5) Tên Đức Hoá Công: Mặc xem Con Tạo xoay vần ra sao. (tt.) (6) Nhỏ: cỏn con.
(7) Quán từ thường hay gặp; nhất là để gọi đàn bà trẻ: Con nhỏ; Con ở; Con sen;
Con chó; Rồi còn nói con ngươi ở Con mắt; Con cờ; Con số; Con sông; Con dao;
Con đường;... tuy không thuộc danh từ mang ý nghĩa có sự sống.
3. Cách xưng hô của giáo dân
Theo văn hoá Việt Nam, trong gia đình, tuỳ mối
liên hệ huyết thống với người nghe mà người nói phải sử dụng một trong những
cách xưng hô khác nhau: Xưng cháu, con, em, anh, chị, ba, má, chú, bác, cậu,
mợ,... với ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, con, cháu... Khi đứng trước số đông
trong nhà, muốn nói với người (có vai vế) nhỏ, thì phải xin phép những người
(có vai vế) lớn trước, rồi mới xưng hô theo như liên hệ với người (có vai vế)
nhỏ. Còn ngược lại (muốn nói với người lớn) thì không cần phải xin phép (người
nhỏ). Còn muốn nói chung với cả nhà, thì phải xưng như xưng với người lớn nhất
trong nhà. Ví dụ: “Thưa ba má, các anh chị và các con... Hôm nay, con muốn cả
nhà chúng ta.”...
Ngoài xã hội, khi phát biểu công khai trước một
tập thể rộng rãi, người nói thường xưng là tôi hoặc chúng tôi. Nhưng với một
tập thể có tính hạn hẹp hơn, người ta có khuynh hướng “gia đình hoá xã hội để
thân mật hoá”. Ví dụ: Một học sinh phát biểu trước ban giám hiệu, các thầy cô
và các bạn đồng môn: “Kính thưa ban giám hiệu, kính thưa quý thầy cô, thưa các
bạn... Em xin thay mặt cho.”...
Trong nhà Đạo cũng vậy, khi nói với các linh mục
và toàn thể cộng đoàn, người giáo dân có thể xưng tôi hay con: “Kính thưa quý
cha, thưa anh chị em,... Con xin đại diện.”... Khi muốn nói riêng với cộng
đoàn, thì có thể xưng tôi (hay con, nếu người nói là thiếu nhi).
4. Cách xưng hô của giáo sĩ
4.1. Đối với các giáo sĩ, khi cử hành phụng vụ bí
tích, với tư cách là giám mục, linh mục hay phó tế, họ không lên tiếng với tư
cách cá nhân mình, mà là với tư cách của Chúa Kitô và nhân danh Hội Thánh (in
nomine ecclesiae), họ phải triệt để thi hành đúng theo luật chữ đỏ (rubric) đã
quy định để hợp nhất (unity) và hợp thông (communion) trọn vẹn với Giáo Hội khi
cử hành phụng vụ thánh, nên không thể tự xưng là con được, cho dù tiếng Việt
theo truyền thông “xưng khiêm hô tôn”, nhưng trong trường hợp này không những
không phải là “khiêm”, mà còn không tự nhiên nữa.
Một linh mục trẻ hỏi tôi, lúc ngồi toà giải tội,
không nhìn thấy người xưng tội, không biết tuổi tác, không biết nam hay nữ, khi
khuyên họ thì phải xưng hô thế nào. Tôi trả lời, xưng tôi và gọi người đó là
con, vì trong toà giải tội cũng như khi cử hành các bí tích, linh mục hành
động nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi) để hoàn tất mầu nhiệm thương xót
qua việc ban ơn tha thứ, trong tư cách Anh cả của gia đình nhân loại (Rm 8,29),
Thượng tế đầy lân tuất tín trung và trắc ẩn (Dt 2,17), Mục tử lắng lo tìm con
chiên lạc (Lc 15,4-6), Lương y chữa bệnh an ủi (Lc 5,31), Thầy dạy chân lý và
chỉ đường (Mt 22,16), Quan toà xét xử theo sự thật chứ không theo dáng vẻ bên
ngoài (Ga 8,16); linh mục được đồng hoá với chính Đức Kitô để có thể
nói rằng: “Cha tha tội cho con nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa
Thánh Thần”; “Này là Mình Thầy…; Này là Máu Thầy…”.
4.2. Tuy nhiên, khi giảng dạy hay ngỏ lời công khai
với cộng đồng dân Chúa có sự hiện diện của các giáo sĩ ngang hàng hay cao cấp
hơn, để tỏ lòng kính trọng chức thánh nơi các giáo sĩ, ngài có thể xưng “con”
khi nói riêng với các vị này[2]. Và xưng hô “tôi - quý vị” với mọi
người lương giáo, “tôi - anh chị em hay ông bà anh chị em.”.. với cộng đoàn
giáo dân, hoặc “cha - các con” với giới trẻ hay thiếu nhi khi giảng dạy họ.
Các linh mục coi giáo dân là anh chị em trong
Chúa Kitô và luôn hành xử như vậy khi giảng dạy cũng như khi tiếp xúc với giáo
dân, dù linh mục ý thức rõ vai trò “người cha thiêng liêng” của mình qua việc
thi hành thừa tác vụ tư tế trong Giáo Hội.
Thực tế, có một số linh mục lớn tuổi đã tự xưng
“cha” khi nói chuyện với những người trẻ đáng tuổi con cháu mình, còn đại đa số
các linh mục đều dùng chữ “tôi” hay “chúng tôi” khi nói chuyện với giáo dân dù
được người đối diện gọi mình là cha. Cũng có nhiều linh mục trẻ đã xưng “con”
hoặc “cháu” khi nói chuyện với những người lớn tuổi hơn mình. Điều này chứng tỏ
linh mục không tự mãn khi được gọi là cha, và hơn thế nữa, còn chứng tỏ mình
biết cư xử phù hợp với tinh thần văn hoá ViệtNam.
Một linh mục trẻ khác, trên toà giảng thản nhiên
xưng hô “cha-con” trước cộng đoàn không ít vị cao niên già lão, không lưu ý đến
thái độ phản ứng của giáo dân sau thánh lễ, thật đáng buồn!
4.3. Còn khi tiếp xúc riêng, phải hết sức cẩn thận,
phải lưu ý tuổi và phái tính của người đối thoại. Xưng hô thế nào vừa thân
thiện, lịch sự, vừa tránh sự đàm tiếu hoặc phiền trách của giáo dân. Ví dụ:
Linh mục 28 tuổi mà xưng với cụ già 80 là “tôi-anh” thì không lịch sự chút nào.
Nhất là gặp cô gái trẻ đẹp mà xưng “anh- em” thì lại càng nguy hiểm.
4.4. Ở chỗ riêng tư thân mật (giữa các thân nhân
trong gia đình linh tông, huyết tộc hay thầy trò, bạn bè, đồng môn...) các giáo
sĩ có thể xưng hô như khi còn ở trong gia đình hay nhà trường; hoặc xưng “tôi”
như một người đã trưởng thành thì cũng không có vấn đề gì.
Có trường hợp một vị giám mục - Đức cố Giám mục
Micae Nguyễn Khắc Ngữ - xưng “mày-tao” với linh mục, chủng sinh một cách chân
tình và bình dị, vì ngài coi những người cộng tác với mình, con cái trong gia
đình giáo phận mình như bạn bè thân thiết mà vẫn không làm mất đi lòng kính
trọng của những người xung quanh ngài. Quả là trường hợp “vi phạm chuẩn mực”
độc đáo khiến chúng ta nhớ lại lời Chúa Giêsu: “Thầy không gọi các con là người
tôi tớ, nhưng gọi các con là bạn hữu thân tình, vì các con đã biết chia sẻ công
việc của Thầy”.
5. Thiên chức linh mục: Alter Christus?
Có người đã thắc mắc: Nếu Chúa Giêsu xuống thế
làm người Việt
Khi nói về thiên chức linh mục, giáo lý
cũng như thần học thường quá nhấn mạnh đến khía cạnh Kitô học mà
lại lãng quên khía cạnh Thánh Linh học của bí tích này. Cha Yves
Congar cho rằng: Chức linh mục
tự thân không phải là một “quyền lực” (pouvoir), nhưng trên hết đó là một “đặc
sủng” (charisma) của Chúa Thánh Thần, được ban tặng để phục vụ lợi ích cộng
đoàn Giáo Hội[3]. “Theo
Tân Ước, chức vụ này là quyền bính khiêm tốn và huynh đệ để phục vụ, nhưng chỉ
vì một sự lạm dụng và vì quá trình lịch sử có thể giải thích được, có thể thông
cảm và có thể chuyển hồi, quyền bính này đã mặc những chiếc áo “vương đế” hay
được sử dụng những dạng thức “phong kiến” và theo những y phục của vua chúa”[4].
Thật vậy, nếu quá nhấn mạnh chức linh mục như một quyền bính thì có nguy cơ dẫn
linh mục tới thái độ “giáo sĩ trị, gia trưởng hay cha chú” trong Giáo Hội.
Cần phải nhìn chức linh mục là một ơn đoàn sủng
của Chúa Thánh Thần để dẫn tới thái độ khiêm tốn và phục vụ theo tinh thần của
Chúa Kitô: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân. Giữa
anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì làm người phục
vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con
Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng
mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,25-28).
Kết luận
Tuy cách xưng hô trong tiếng Việt có truyền
thông “xưng khiêm, hô tôn”, nhưng phải biết vận dụng một cách hợp tình, đúng
nơi, đúng lúc, nếu không, chẳng những không tỏ ra khiêm nhường, mà còn gây ra
bối rối không cần thiết.
------------------
[1] Từ Xưng hô trong Dịch thuật, Trường Đại học
Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng.
[2] Xem bài phát biểu của Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ
trong ngày chuyển giao sứ vụ trên
http://giaophanphucuong.org/giao-phan/duc-giam-muc/tam-tinh-cua-duc-cha-phero-trong-ngay-chuyen-giao-su-vu.html
[3] Cf. Yves Congar, OP : “Titres et honneur dans
l’Église” trong cuốn Pour un Église servant et pauvre, Cerf, Paris 1973.
[4] I-P. Jossua, Yves Congar
profile di una teologia, Queriniana, Brescia 1970, 132.
Để hiển thị chữ Hán Nôm
Máy tính không hiển thị văn bản chữ Hán Nôm (chỉ hiển thị các dấu hình
chữ nhật) là do máy tính chưa có đủ font để đọc được chữ Hán Nôm. Có rất nhiều
cách cài đặt để máy tính hiển thị chữ Hán Nôm. Xin chỉ dẫn một cách đơn giản,
chỉ mất vài phút: Cài đặt font chữ ARIAL
UNICODE MS.
Bạn có thể cài đặt font chữ này bằng cách tải font chữ tại đây.
Sau khi file được
tải xong, giải nén file.
Copy Arial
Unicode MS.ttf (đã được giải
nén) dán vào thư mục C:\WINDOWS\Fonts
Vậy là xong!
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
(Conggiao.info
- 4/27/2013)