Phong thánh, tuyên thánh
, 27/08/2010
Ngày 30/06/1987, bằng
văn thư số 196.245, Đức TGM Eduardo Martinez Somalo, khi đó là Tổng Thư Ký Ban
Thường Vụ của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh (tương đương Tổng Trưởng Nội Vụ)
chính thức thông báo cho ba cáo thỉnh viên Việt, Pháp và Tây Ban Nha là ngày phong thánh cho các chân phúc tuẫn
đạo tại Việt Nam đã được ĐTC Gioan Phaolô II xác định là ngày 19/06/1988. Đây
là một tin vui vô cùng trọng đại cho Giáo Hội tại Việt
1. Nghĩa của những chữ
canon, canonizare, canonization.
Phong thánh hay việc phong thánh
dịch từ tiếng La tinh là canonizare và canonization, hai thuật từ này
xuất phát từ chữ canon.
1.1. Canon (dt. Latin:
quy luật, quy tắc xử sự, bảng tóm tắt; do tiếng Hy Lạp là kanon: gậy, thước
đo). Chữ này có nhiều nghĩa:
a. Trong lãnh vực Công
Giáo:
(1) Luật dòng; sách
luật dòng: Một bản luật hay quy tắc được thẩm quyền Giáo Hội ban hành với sự
chấp thuận của Đức Gíáo Tông.
(2) Câu định nghĩa
ngắn về một tín điều nào đó, có kèm theo án tuyệt thông, được các công đồng
chung đưa ra làm quy tắc.
(3) Bộ Giáo Luật;
điều, điều luật (trong bộ luật).
(4) Kinh Bộ, Quy Điển
Thánh Kinh: Danh mục các sách mà Giáo Hội nhìn nhận là đã được linh hứng góp
thành bộ Thánh Kinh.
(5) Danh bộ các thánh:
Danh sách các thánh được Giáo Hội công nhận.
(6) Lễ Quy Roma: Phần
cốt yếu trong thánh lễ Misa từ sau kinh Thánh Thánh Thánh đến Kinh Lạy Cha, nay
còn gọi là Kinh Nguyện Thánh Thể I.
(7) Kinh sĩ: thành
phần của một tập thể giáo sĩ làm việc ở một nhà thờ chính tòa hay một nhà thờ
lớn khác có những nhiệm vụ đặc biệt như hát kinh thần vụ chung với nhau; tu sĩ
một số dòng tu: Augustinian canon:
kinh sĩ dòng thánh Augustinô.
(8) Ca tiếp liên giờ
Kinh Sáng (Giáo Hội Đông Phương)
Trong mấy thập niên
vừa qua, thuật từ canon với ý nghĩa là "điển phạm" (phép tắc làm
khuôn khổ để theo) được dùng khá phổ biến trong ba lãnh vực chính:
b. Trong lãnh vực tôn
giáo nói chung:
Chỉ toàn bộ những cuốn
sách được xem là thánh thư, nơi chứa đựng những chân lý tuyệt đối do Đấng Tối
Cao mặc khải của một tôn giáo nào đó, từ Thánh Kinh của Kitô Giáo đến Kinh
Koran của Hồi Giáo... Tam tạng thánh điển (Tipitaka) của Phật Giáo cũng gọi
là Pali Canon.
c. Trong lãnh vực văn
hoá:
Là toàn bộ những tác
phẩm được xem là đạt đến đỉnh cao của triết học và văn học: từ những tác phẩm
của Plato, Aristotle, Euripides, Lutarch,... thời cổ đại Hy Lạp đến Tứ Thư và
Ngũ Kinh thời cổ đại Trung Hoa, từ những kiệt tác của Chaucer, Cervantes,
Shakespeare, Goethe, Joyce, Proust,... ở Tây phương đến những tác phẩm bất hủ
trong thể phú đời Hán, thể thơ đời Đường, thể từ đời Tống và thể tiểu thuyết
đời Minh và Thanh ở Trung Quốc. Ví dụ: Điển phạm Shakespear(Shakespearian canon):
Danh mục các tác phẩm (gồm 37 vở kịch) được công nhận là đúng của Shakespear.
d. Trong lãnh vực giáo
dục:
Là danh sách những tác
phẩm được đưa vào chương trình giảng dạy như là những thành tựu tiêu biểu nhất
cho từng thể loại hoặc từng thời kỳ, những kho tàng của kiến thức và là những
khuôn mẫu để người ta học tập cũng như mô phỏng.
Điểm chung của khái
niệm điển phạm trong cả ba lãnh vực
này là: tính chất toàn bích và tính chất thẩm quyền. Một điển phạm là một tác
phẩm xứng đáng để được bảo tồn hơn những tác phẩm khác, hơn nữa, nó còn được
xem như mẫu mực của cái đẹp, và hơn cả thế nữa, nó trở thành một tiêu chuẩn để
đánh giá mọi cái đẹp khác như cái ý nghĩa tiềm ẩn trong từ nguyên của nó: một
cái thước đo. Như vậy, tự bản thân nó, bất cứ một điển phạm nào cũng đều hàm
chứa một quy phạm (norm) nhất định.
e. Ngoài ra, canon còn
được sử dụng trong nhiều lãnh vực khác với nhiều nghĩa như:
(Quân sự) (1) Pháo,
súng đại bác; (2) Nòng (súng): Canon
d’un révolver (nòng súng lục), Canon d’un seringue (ống, ống tiêm);
(Kỹ thuật) Cái móc
chuông;
(Ngành in) Tên gọi
riêng của cỡ chữ bằng 48 pt. (sở dĩ gọi như vậy là vì đó là cỡ chữ lớn nhất
trong ngành in xưa kia thường dùng để in Lễ Quy (Canon) hay các sách dùng trong
nhà thờ);
(Khoa đo lường) Canông
(đơn vị đong rượu bằng 1/8 lít);
(Động vật học) Còng,
cẳng (chân ngựa, trâu bò);
(Địa chất, địa lý) Hẻm
vực;
(Sử học) Trang sức che
đầu gối;
(Âm nhạc) (1) Canông,
luân khúc, hát đuổi: Việc lặp lại liên tiếp từng nốt nhạc của một giai điệu bởi
một bè khác, bắt đầu sau bè đầu (một khoảng thời gian nào đó); (2) Bài ca được
một hay nhiều giọng thay phiên nhau hát lại một giai điệu, và nhờ đó tạo ra sự
hòa điệu; (3) Tên gọi tắt của Canon in D (Luân khúc cung Rê trưởng) của nhà
soạn nhạc Johann Pachelbel;
(Thông tục) Chai rượu;
cốc rượu;
(Nghệ thuật) Tiêu
chuẩn, chuẩn mực, điển phạm: Các quy tắc, nguyên lý hay tiêu chuẩn được chấp
nhận như tiên đề, có tính ràng buộc phổ quát trong một lãnh vực nghệ thuật hay
học thuật: neoclassical canon (điển phạm tân cổ điển).
1.2. Canonizare: (đt.)
(1) Liệt kê (một quyển sách) vào Quy Điển Thánh Kinh (2) Liệt kê vào quy điển,
danh mục có tính quy phạm; (3) Tuyên thánh: Tuyên bố (một vị chân phúc) là
thánh, ghi danh vào Danh Bộ Các Thánh và ấn định việc tôn kính trong toàn thể
Hội Thánh; (4) Đối xử như bậc thần thánh; vinh quang.
1.3. Canonization:
(dt.)
(1) Việc tuyên thánh:
là việc ĐGH tuyên bố và truyền cho các tín hữu tôn kính một vị chân phúc nào đó
như một vị thánh. (Với việc tuyên chân phúc [1], các tín hữu được phép tôn kính
vị chân phúc đó ở một số nơi hay trong một số cộng đoàn nào đó, nhưng với việc
tuyên thánh, thì các tín hữu được phép tôn kính vị thánh ở mọi nơi trong toàn
thể Hội Thánh). Quyết định tuyên thánh chỉ được công bố sau khi Bộ Đặc Trách Án
Vụ Tuyên Thánh (Congregatio de Causis Sanctorum, quen gọi là Bộ Phong Thánh)
chấp nhận chứng cứ của hai phép lạ - đã xảy ra sau khi tuyên chân phúc - qua
việc khần cầu với vị chân phúc hoặc ba phép lạ trong trường hợp vị chân phúc
không theo tiến trình điều tra thông thường. Vị hiển thánh được tôn kính đầy đủ
trên bàn thờ, mặc dù có thể không được mở rộng trong phụng vụ Thánh Lễ và trong
Kinh Nhật Tụng của toàn thể Hội Thánh.
(2) Điển phạm hóa: là
việc xem một số tác giả hoặc tác phẩm nào đó như những khuôn vàng thước ngọc
của văn học.
2. Nghĩa của những chữ
phong, thánh, tuyên.
2.1. Phong: Có những
Hán này: 封, 風, (风), 鋒, (锋), 峰, 峯, 豊, (丰), 楓, (枫), 蜂, 蠭, 烽, 犎, 瘋, (疯), 酆, 葑, 渢, (沨), 灃, (沣), 碸, (砜). Trường hợp ở đây là
chữ封 (phong), nghĩa là dt.
(1) Bờ cõi: Chức quan giữ việc coi ngoài bờ cõi nước gọi là phong nhân; (2) Mồ
mả; (3) Dùng như mạo từ: lá, bức: Nhất phong thư (một bức thư); (4) Họ Phong;
(5) Túi đựng thư: Tín phong (bìa thư); đt. (6) Ban cho, vua cho các bầy tôi đất
tự trị lấy hay tước hiệu gọi là phong; (7) Đắp: Phong phần (đắp mả); (8) Dán
lại: phong khẩu; (9) Giàu có: Tố phong (vốn giàu); (10) Ngăn cấm: Cố bộ tự
phong (không biết giảng cầu cái hay mới mà cứ ngăn cấm mình trong lối cũ); (11)
Đóng, phong bế: niêm phong; tt. (12) To lớn.
Nghĩa Nôm: (1) Bọc:
Phong gói quà; (2) Vật được bọc: Phong bánh khảo.
2.2. Thánh: Có hai chữ
Hán: 聖, 清 [2] : Chúng ta dùng chữ聖này. Chữ này gồm phần dưới là chữ nhâm (壬), nguyên gốc của chữ nhâm (壬) là chữ nhân (人); phần trên là chữ
nhĩ (耳) và chữ khẩu (口); hàm ý: thánh là người thông sáng: thính tai, lợi khẩu. Trong cổ văn
"thánh" và "thính" (聽) là cùng một chữ. Chữ thánh (聖) có những nghĩa này: dt. (1) Đối với người đời thường, chỉ những người
đạo đức như thánh nhân; (2) Những người tài giỏi tột bực về một việc nào đó
cũng gọi là thánh, như Lý Bạch giỏi uống rượu, người ta gọi ông là tửu thánh;
(3) Tên cũng gọi là thánh; (4) Họ Thánh; (5) Thuộc về thần: thánh mẫu, thánh
đãn; đt. (1) Làm cho trở thành thánh; (2) Tinh thông: Đỗ Phủ thánh ư thi (Ông
Đỗ Phủ giỏi làm thơ); tt. (1) Thông minh; (2) Tài giỏi; (3) Thuộc về thánh; (4)
Tôn xưng những gì thuộc về Đức Khổng Tử; (5) Tôn xưng những gì thuộc về vua:
Thánh chỉ; (6) Thuộc về Đấng tối cao.
Chữ thánh đã được hoá
Nôm, nên người ta nói Thánh Kinh hay Kinh Thánh cũng được [3]. Thánh (chữ Nôm)
cũng có nghĩa là âm thanh dễ nghe: thánh thót.
2.3. Tuyên: Có nhiều
chữ Hán: 宣, 亘, 瑄, 脧, 鐫, (镌), 揎, 楦, 楥. Ở đây là chữ宣 (tuyên), nghĩa là:
dt. (1) Họ Tuyên; (2) Nhà to: Tuyên thất (căn nhà to), vì thế nên tường vách
xây tới sáu tấc cũng gọi là tuyên, thông với chữ瑄; đt. (3) Rao cho mọi
người nghe: Tuyên bố; (4) Báo cáo cho mọi người cùng biết: Tuyên ngôn; (5) Ban
bố: Tuyên chiếu (ban bố chiếu chỉ ra); (6) Thông suốt: Tuyên triết duy nhân
(Duy người ấy thông suốt mà khôn); (7) Bảo rõ: Tuyên thị (bảo rõ); (8) Hết sức:
Tuyên lao, tuyên lực (cố hết sức); (9) Hết: Cuối tờ bồi nói rằng bất tuyên
(chẳng hết), nghĩa là không thể tỏ hết khúc nhôi được; (10) Gạn cho cạn: tuyên
tiết hồng thuỷ (xả cạn nước lụt).
3. Nghĩa của thuật từ
phong thánh và tuyên thánh.
3.1. Phong thánh:
Trung Quốc có một cuốn tiểu thuyết rất danh tiếng gọi là Phong Thần Bảng hay
Phong Thần Diễn Nghĩa, do ông Trần Trọng Lâm (hay Hứa Trọng Lâm) viết vào thời
triều Minh, bao gồm một trăm hồi. Bối cảnh lịch sử là Chu Vũ Vương (1066-771
trước Công nguyên) đánh giết vua Trụ nhà Thương. Câu truyện kết thúc bằng việc
Khương Tử Nha được Nguyên Thủy Thiên Tôn trao quyền phân phong các thần, còn
Chu Vũ Vương cũng được quyền tấn phong các chư hầu. Các quan trong triều
3.2. Tuyên thánh:
Trong Lễ Nghi Tuyên Thánh (Canonization ceremony), Đức Giáo Tông thường sử dụng
công thức:
"Để tôn vinh
Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh và Duy Nhất, để phát huy Đức Tin Công Giáo và củng
cố Đời Sống Kitô Hữu, với quyền năng của Đức Giêsu Kitô Chúa, chúng ta, của hai
Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô và của riêng Tôi; sau khi đã suy nghĩ chín chắn,
cũng như đã nhiều lần cầu xin ơn trợ giúp của Thiên Chúa, đã tham khảo ý kiến
của nhiều chư huynh Hồng Y, Thượng Phụ, Tổng Giám Mục và Giám Mục khả kính; Tôi
quyết định và tuyên bố chân phúc T. là thánh và ghi danh ngài vào Danh Bộ Các
Thánh. Tôi cũng thiết lập việc tôn kính ngài trong toàn thể Hội Thánh hàng năm
vào ngày... tháng.... Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen”.[4]
Chúng ta đã hiểu
canonize nghĩa là liệt kê, ghi tên một người quá cố vào Danh Bộ Các Thánh, sau
khi điều tra cuộc sống, hạnh tích của người ấy, Đức Giáo Tông tuyên bố người đó
là đối tượng tôn kính của Hội Thánh, ghi danh vào Danh Bộ Các Thánh. Đức Giáo
Tông chỉ tuyên bố, còn việc vị thánh đó được hưởng hạnh phúc cùng Thiên Chúa từ
lúc nào thì không ai biết.
4. Ai là thánh?
Có nhiều cách hiểu về
các vị thánh. Một số nhân vật lịch sử Việt
Các giáo phái quan
niệm về vị thánh không giống nhau. Hiện giờ chỉ có Công Giáo, Chính Thống Giáo,
Anh Giáo và một ít giáo phái Tin Lành có thánh nhân.
Trong Giáo Hội sơ
khai, tôn kính các thánh là để kỷ niệm các vị tuẫn đạo và noi theo gương lành
của các ngài. Năm 787 Công Đồng Nicêa II mới có việc kính tưởng các thánh. Việc
tuyên thánh đầu tiên trong Giáo Hội xảy ra dưới triều Đức Giáo Tông Gioan XV.
Trong công đồng chung ngày 11/06/993, hạnh tích và nhiều phép lạ của ĐGM Ulric
(mất năm 973) đã được công bố và tất cả nghị phụ có mặt đều đồng thanh xác
nhận, do đó Đức Giáo Tông đã công bố ĐGM Ulric là thánh và truyền cho toàn thể
Giáo Hội tôn kính. Đây là cuộc tuyên thánh chính thức đầu tiên trong Giáo Hội
Công Giáo. Sau một thời gian dài nghiên cứu, bản văn "Việc tôn tuyên chân
phúc và hiển thánh" do ĐHY Lambertini biên soạn, sau ngài lên ngôi giáo
tông lấy niên hiệu là Bênêđitô XIV (1734-1738) được chính thức áp dụng đến ngày
nay.
5. Kết luận.
Chúng ta thấy được
việc nhìn nhận là thánh có nhiều chuyển biến, nhưng thực tế là con người công
nhận một người nào đó là thánh dựa vào cuộc sống của họ và để người khác theo
gương sống của họ. Người Công Giáo còn xin họ cầu bầu giúp. Cho nên qua cuộc
điều tra, Đức Giáo Tông chỉ tuyên bố một người Công Giáo gương mẫu đã qua đời
là đối tượng tôn kính của Hội Thánh mà thôi, chứ không thể phong ban cho người
đó được lên thiên đàng, cho nên Đức Giáo Tông chỉ tuyên bố, tức là tuyên thánh
thôi.
Ghi chú:
[1] Beatification.
[2] Xem “Bài Giảng Chúa Nhật” của Tổng Giáo
Phận Saign, số 05/2006.
[3] Về vấn đề này chúng tôi phải viết một bài
riêng.
[4] Ad honorem Sanctae et Individuae
Trinitatis, ad exaltationem Fidei Catholicae et Christianae Religionis
augmentum, auctoritate Domini Nostri Iesu Christi, Beatorum Apostolorum Petri
et Pauli ac Nostra; matura deliberatione praehabita et divina ope saepius
implorata, ac de Venerabilium Fratrum Nostrorum Sanctae Romanae Ecclesiae
Cardinalium, Patriarcharum, Archiepiscoporum et Episcoporum in Urbe existentium
consilio; Beatum N. Sanctum esse decernimus et definimus ac Sanctorum Catalogo
adscribimus, statuentes ab Ecclesia Universali illius memoriam quolibet anno
die eius natali, nempe ... pia devotione recoli debere. In nomine Patris, et
Filii, et Spiritus Sancti. Amen".