Tin – tín
Qua Tự sắc “Porta Fidei”, Đức Giáo Tông đã tuyên
bố mở Năm Đức Tin từ ngày 11-10-2012 đến 24-11-2013, nhân dịp kỷ niệm khai mạc
Công đồng Vatican II được 50 năm và công bố sách Giáo lý Công giáo được 20 năm.
Đức Giáo Tông muốn chúng ta đào sâu Đức Tin trong Năm Đức Tin. Vậy tin là gì?
1. Nghĩa của chữ tin
Tin là tiếng Nôm, có bốn chữ: 𠒷, 信, , . Trong từ Đức Tin là chữ 信, giống chữ tín của
tiếng Hán. Chữ 信 thuộc loại hội ý, có
bộ nhân 亻(người) và chữ ngôn 言 (lời nói), hàm ý lời nói à việc biểu
lộ của tiếng lòng, phải thành kình không dối, để nói lên ý niệm
chân thành hậu trọng của mình, có nghĩa : (đt.) (1) Chấp nhận vì thế giá kẻ
phát biểu: Dễ tin (nhẹ dạ); Khó tin (câu nói khó chấp nhận). (2) Báo tin: Công
việc thế nào tin cho tôi hay. (dt.) (3) Chuyện được kể lại: Tin tức gần xa.
(tt) (4) Đức tính thành thật, khiến người ta có thể trông cậy.
2. So sánh với chữ Hán: Tín
Chữ tin trong Nôm cùng một chữ tín trong Hán,
nhưng tín trong chữ Hán có ý nghĩa phong phú hơn, nghĩa chính của “tín” là “thành”,
chân thành. 信 (tín) là chữ hội ý, gồm bộ nhân イvà chữ ngôn 言. Ý nguyên thủy là
chân tâm thành ý, chuyên tâm không thay đổi. Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận
nói: “Trực ngôn viết ngôn, luận nan viết ngữ” (Trong lòng có gì, trực tiếp nói
ra là ngôn, mà lời phải lý luận biện hộ vặn hỏi thì gọi là ngữ). Nên Pháp
Ngôn Nghĩa Sơ - Vấn Thần nói: “Ngôn, tâm thanh dã” (Lời là tiếng nói của con
tim). Tín có nghĩa là: dt. (1) Không sai lời hẹn hay là biết tin cậy lẫn nhau
và giữ lòng tin cậy của kẻ khác đối với mình. Một trong năm đức tốt (ngũ
thường) của con người theo luân lý phương Đông: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín: chữ
tín, thành tín, thất tín, trung tín; nhân vô tín bất lập. (2) Bằng chứng: ấn
tín. (3) Thư từ: tín kiện. (4) Tin tức, tăm hơi: thư tín.(5) Tiêu tức: Phong
tín (tin gió), sương tín (tin sương, nghĩa bóng là tin tức ở ngoài đưa đến).
(6) Người đưa thơ: tín sứ. (7) Ngòi nổ: tín quản. (8) Họ Tín. (9) Tên loại độc:
thạch tín (Arsenic). đt. (10) Tuyên xưng lòng tin: tín ngưỡng. (11) Tin người
nói: Thủ tín vu dân (gây lòng tin tưởng với dân). (12) Quân nhân ngủ trọ đến
hai lần: tín túc. (13) Hiểu biết: tín kỳ niên tuế (biết tuổi anh ấy). (14) Nghe
theo: thâm tín bất nghi (hoàn toàn nghe theo, không nghi ngờ). Trt. (15) Thuận
miệng: tín khẩu khai hà (thuận miệng nói đại). (16) Quả thật: thủ ngữ tín nhiên
(lời này quả thật). (Pht.) (17) Để mặt, tuỳ ý, tới đâu cũng được: Tín bộ (tán
bộ). (tt.) (18) Rõ ràng, xác thực.
3. Quan niệm chữ “tín” của Nho giáo và chữ “tin”trong
Công giáo
3.1. “Tín” trong Nho giáo
Tín là làm việc và tiếp xúc với người khác đều
thật thà không gian dối, là thái độ lời nói và hành sự nhất quán, là một trong “Ngũ
Thường” của Nho giáo”.Thuyết Văn” [1] nói: “Tín, thành dã”
(tín nghĩa là thành thật). Khổng Tử coi “Tín” là thể hiện quan trọng của “nhân”
(仁, nhân ái), là đức hạnh phải có của kẻ hiền. Những ai thực hành
điều mình nói, thì sẽ giành được tín nhiệm của kẻ khác. Nhà cầm quyền giữ chữ “tín”,
bá tánh cũng sẽ đối xử với họ cách chân tình. Khổng Tử nói: ”Dữ bằng hữu giao, ngôn nhi hữu tín”. [2] (Giao
lưu với bạn bè, phải giữ lấy chữ tín). Ngài còn nói: ”Nhân nhi vô tín,
bất tri kỳ dã”. [3] (Con người không giữ chữ tín thì
không thể sống trên đời). Luận ngữ, Tử Lộ nói: ”Thượng hiếu tín, tắc
dân mạc cảm bất dụng tình”. (Cấp trên thích thành thật, thì dân không
dám không đáp trả bằng chân tình). Nho giáo coi “tín” là nền tảng quan trọng
của việc xây dựng và điều hành đất nước. Đối với nhà Nho, “thành tín” là cơ sở
tiền đề của “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, là điều kiện tối thiểu
cho con người xử thế. Nho giáo chỉ chú trọng về nhân bản, cách giao tiếp giữa
người với người, hầu như không nói đến niềm tin hay tín ngưỡng.
3.2. “Tin” trong Công giáo
Khi nói đến tin, Công giáo không chỉ hiểu theo
quan hệ bình thường giữa người với người, mà chú trọng đến quan hệ giữa Thiên
Chúa và con người. Mà con người xác tín có một Thiên Chúa, người Công giáo gọi
là tín đức (Đức Tin), đó là một ân huệ Chúa ban, triết học gọi là hành động
siêu nhiên, tin vào Thiên Chúa và mọi điều Thiên Chúa truyền dạy. Trong buổi tiếp
kiến ngày 24-10-2012 tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo Tông Bênêđictô XVI
nói: ”Đức Tin là ân huệ của Thiên Chúa, cũng là hành động tự do của con
người”. Ngài còn nói: ”Tin vào Thiên Chúa không nghịch với tự
do của con người, cũng không nghịch với lý trí của con người. Tin vào Thiên
Chúa, ngược lại, sẽ nâng cao tự do và lý trí của con người...để chúng ta tận
hưởng thân phận của nhân tính”. Giáo lý nói: ”Để có được Đức
Tin nầy, cần có ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và có sự trợ giúp bên trong
của Chúa Thánh Thần, Đấng thúc đẩy và qui hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở
mắt tinh thần và ban cho “mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin theo
chân lý”. (GLHTCG, số 153).
Vậy, Đức Tin là việc con người quy hướng về Thiên
Chúa trong lý trí và ý chí, tự do chấp nhận toàn bộ chân lý do Thiên Chúa mặc
khải. Như Abram ”tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công
chính” (St 15,6). Hay Đức Mẹ Maira ”thật có phúc, vì đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói”. Tin hay lòng tin, là nền tảng của
Đức Tin, là cội nguồn của đức cậy và đức mến. Thánh Phaolô đã nói: ”Người
công chính nhờ Đức Tin sẽ được sống”. (Rm 1,17). Để được Đức Tin chân
thật phải làm gì? Thánh Phaolô nói: ”Chúng ta mới không chú tâm đến
những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình?” (2 Cr 4,18).
Gặp bất cứ việc gì chúng ta chỉ dựa vào Thiên Chúa, chứ không phải bất cứ sự gì
trên đời. Chúng ta càng dựa vào Thiên Chúa, sức mạnh của Đức Tin càng thể hiện
rõ. Đồng thời luôn phải thể hiện Đức Tin trong cuộc sống, Thánh Giacôbê nói: ”Đức
Tin không có hành động thì quả là Đức Tin chết”. (Gc 2,17). Đức Tin
chân thật là mang lấy Chúa Kitô: ”Anh em chẳng nhận thấy là có Đức
Giêsu Kitô ở trong anh em sao?” (Gc 13,5).
4. Kết luận
Văn hoá Việt
-------------------
[1] Tức “Thuyết Văn
Giải Tự’ của Hứa Thận thời Đông Hán (năm 22-220).
[2] Luận Ngữ, Nhi Học.
[3] Luận Ngữ, Vi Chính.
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ