Sứ vụ
Thánh Phêrô
Ngày 13-3-2013, trước
đám đông hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô đang nóng lòng chờ đón kết quả
cuộc bầu chọn giáo tông mới, Đức Hồng Y Jean-Louis Tauran, trưởng đẳng Hồng Y
Phó Tế tuyên bố: “Chúng ta đã có giáo tông”. Liền sau đó Toà Thánh ra thông cáo
cho biết ngày 19-3-2013 sẽ có thánh lễ khai mạc “Petrine Ministry” của vị Giám mục thành Rôma (Holy Mass for the
beginning of the Petrine Ministry of the Bishop of Rome). Từ thông cáo
này, truyền thông Việt ngữ lập tức đưa tin với nhiều cách dịch thuật từ Petrine
Ministry khác nhau như: “Sứ vụ Thánh
Phêrô”, “triều đại giáo hoàng”,
“nhậm chức giáo hoàng”, “đăng
quang giáo hoàng”….Vậy, nên hiểu và dịch Petrine Ministry thế nào?
1. Nghĩa của Petrine
Ministry
1.1. Petrine: (tt.)
Thuộc về Thánh Phêrô (Thủ lãnh nhóm 12 tông đồ của Chúa Giêsu; vị giám mục
thành Rôma; vị giáo tông đầu tiên).
1.2. Ministry: (dt.)
Sứ vụ, sứ mệnh, nhiệm vụ, trách nhiệm. Trong giáo hội, người đảm nhận một vai
trò hay thi hành một công việc quan trọng nào đó, được hiểu là “người được sai
đi”, “sứ giả” của Chúa Giêsu để làm công việc của chính Ngài. Do đó ministry
dịch là sứ vụ thì đúng hơn.
1.3. Petrine Ministry:
Sứ vụ Thánh Phêrô
Chúa Giêsu đã lập ra
“Sứ vụ Thánh Phêrô” để dẫn dắt và hợp nhất của hội thánh sơ khai, đồng thời bảo
đảm sự hợp nhất giáo hội của Ngài trong chân lý: “Con là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực
tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời: dưới đất,
con cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, con tháo
cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy." (Mt 16,
18-19).
Tại sao Chúa Giêsu đổi
tên của Simon thành Phêrô (tiếng Hy Lạp là “Petros”, tiếng Aramaic là “Kêpha”
nghĩa là “đá”)? Đổi tên có nghĩa là một sự thay đổi về vai trò, bản chất bên
trong và thân phận.
Khi Chúa Giêsu nói:
"Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây
Hội thánh của Thầy" (Mt 16,18), Chúa đã chỉ rõ Phêrô là nền
tảng lâu dài, hỗ trợ vững vàng cho Giáo Hội qua mọi thế hệ. Sứ vụ của Thánh
Phêrô là hướng dẫn đời sống của hội thánh. Chúng ta thấy vai trò của Sứ
vụ Thánh Phêrô thể
hiện rõ nét qua mô hình của hội thánh sơ khai được hình thành qua việc giảng
dạy, liên đới, bẻ bánh và cầu nguyện (x. Cv 2, 42).
Sau khi đổi tên cho
Thánh Phêrô, Chúa Giêsu nói thêm: “Thầy
sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời ...” Đối với dân
Từ Tân Ước, chúng ta
thấy được vai trò thủ lãnh của Thánh Phêrô:
- Chủ toạ cuộc họp bầu
người thay thế cho ông Giuda đã chết (x. Cv 1, 15-26).
- Sau biến cố Chúa
Thánh Thần hiện xuống, ngài giảng bài giảng đầu tiên (x. Cv 2, 14-41).
- Thi hành kỷ luật
trong Hội thánh (x. Cv 5 và 8).
- Thường xuyên phát
biểu nhân danh tông đồ đoàn. (x. Cv 3,15; 10,41).
Rõ ràng Thánh Phêrô làm
trọn những việc Chúa Giêsu đã giao: dẫn dắt và liên kết đoàn chiên; đóng vai
trò đứng đầu các tông đồ và là tâm điểm gắn kết cũng như hợp nhất cộng đoàn
Kitô hữu (x. Cv 15, 7-12). Khi Chúa Giêsu nói: "Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là
Kêpha" (Ga 1, 42), Kêpha nghĩa là đá. Nên chúng ta có thể nói Petrine
ministry diễn tả vai trò của Thánh Phêrô vừa là nền tảng vừa là thủ
lãnh của Giáo Hội, như vào ngày 29-06-2013 vừa qua, trong bài giảng lễ nhân dịp
mừng kính Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, Đức Giáo Tông Phanxicô nói: “Ba nhiệm vụ củasứ vụ Thánh Phêrô là củng cố anh em
trong đức tin, đức ái và tình hợp nhất”.
2. Nghĩa của Sứ vụ
Thánh Phêrô
2.1. Sứ
Chữ này đã được giải
nghĩa trong bài Thiên sứ[1] và bài Sứ vụ[2],
ở đây xin nói thêm: Sứ chỉ có một chữ Hán: 使, nhưng chữ này có hai
âm trong tiếng Việt tuỳ theo ngữ cảnh: đọc là “sứ” nếu là danh từ và “sử” nếu
là động từ. Sứ: dt. (1) Người vâng mệnh cấp trên đi làm một
việc gì: sứ thần, sứ
giả (người được sai đi)[3].
(2) Viên chức được phái đi làm việc ở nước ngoài: công
sứ, khâm sứ (vị
được vua hay chính phủ sai đi làm đại diện). (3) Vâng mệnh của chủ
nhân mà ứng phó với người ngoài. (4) Nhận làm một việc khó khăn nguy hiểm. (5)
Những vị thuốc để làm truyền tống điều độ cho phương thuốc: tá
sứ. Ngoài ra, chữ sứ 使là chữ Hán nhưng đã hoá
Nôm trong một số trường hợp, ví dụ khi nói: sứ trời hay đi sứ Trung Quốc; Sử:
(đt.) (1) Dùng: sử dụng.
(2) Sai khiến: sử nữ. (3) Có tác dụng: giá
chi bút hẫn hảo sử (這枝筆很好使 cây viết này dùng rất tốt). (4) Giúp tạo nên: sử
nhân cao hứng (làm cho người khác vui). (5) Nếu: giả sử.
Chữ sử 使này khác với chữ sử 史 (lịch sử) có nghĩa là ghi việc nước hay
sự việc đã qua.
2.2. Vụ
Có bảy chữ Hán, là 務(务), 霧(雾), 霚, 雺, 騖(骛), 鶩(鹜), 婺, trong trường hợp này là chữ 務, nghĩa là (dt.) (1) Việc làm: Gia
vụ, công vụ, sự vụ. (2) Sở thu thuế thời xưa. (3) Họ Vụ. (đt.) (4) Làm việc: Vụ
nông (làm nghề nông).
(5) Mưu cầu, chăm: Tham đa vụ đắc (chỉ cốt mưu cầu lấy cho nhiều). (pht.) (6) Cần thiết, tất dùng: Vụ
tất tiểu tâm (cần để
ý).
2.3. Sứ
vụ
Thuật từ này đã được
giải thích, nhưng xin nhắc lại[4]:
(dt.): Là thuật từ mới
do giới Công Giáo Việt
Trong bài viết vào
tháng 6 (2009)[8] chúng tôi đã giải nghĩa hai chữ “sứ
vụ” và đã mạo muội đưa ra một định nghĩa Công Giáo cho thuật từ này:
- Nghĩa thông thường: Theo mặt
chữ thì sứ vụ có
nghĩa là "việc được giao để ra đi thực hiện", đồng nghĩa với sứ
mệnh: "lệnh truyền quan trọng được giao để ra đi thực
hiện" như đã nói ở trên.
- Nghĩa Công Giáo:
- Nghĩa
hẹp: Việc truyền giảng Phúc Âm và thiết lập nhiều cộng đoàn giữa những
người chưa thuộc về Giáo Hội.
- Nghĩa
rộng: Ơn gọi nền tảng của Hội thánh để trở thành bí tích phổ quát của ơn
cứu chuộc.
3. Nhận xét
Cương vị giáo tông được
Đức Phanxicô diễn tả rất cụ thể và sinh động. Ngài chỉ xưng mình là “Giám mục
Rôma”; ở nhà trọ Thánh Matta, chứ không ở trong dinh tông toà sang trọng. Trong
thánh lễ Truyền Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh, ngài nói với các linh mục: “Linh mục không phải là người quản lý, không phải là
người trung gian, mà phải ở giữa đàn chiên”; rồi khi rửa chân cho
những phạm nhân trẻ, ngài nói: “Tôi tự
nguyện làm công việc này như Chúa Giêsu đã dạy tôi”.
Trong buổi tiếp kiến
các sứ thần và khâm sứ Toà Thánh sáng 21-6-2013, Đức Giáo Tông Phanxicô đặc
biệt nhắc nhở các vị hãy sống như những mục tử và quan tâm tuyển chọn các ứng
viên xứng đáng để được bổ nhiệm làm giám mục, ngài nói: “Yêu mến thanh bần, thanh bần nội tâm như một sự tự
do vì Chúa và thanh bần bên ngoài như sự đơn sơ và khổ hạnh; các ứng viên ấy
không được có tâm lý như những ‘ông hoàng’”. Giám mục không nên có tâm lý
như “ông hoàng”, nếu chúng ta vẫn gọi ngài là giáo hoàng, khác gì vả vào má
ngài?!
4. Kết luận
Giáo tông không phải là
một ông hoàng hay một vị vua. Vì vậy, nếu nói“khai mạc triều đại giáo hoàng”, “nhậm chức giáo hoàng”, “đăng quang giáo hoàng” là hoàn toàn
không phù hợp. Nên dịch là “khai mạc sứ
vụ Thánh Phêrô” thì
đúng hơn.
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ (giaolyductin.org 29/07/13,
11:04 am)
[1]Xem BÀI GIẢNG CHÚA
NHẬT, số 09/2006, tr. 104.
[2]Xem BÀI GIẢNG CHÚA
NHẬT, số 09/2010.
[3]Cuốn Giúp đọc Nôm và
Hán Việt của cha Antôn Trần Văn Kiệm giải nghĩa chữ sứ là "sai đi làm công
tác", khiến người ta ngộ nhận sứ là động từ, nhưng khi tác giả cho ví dụ
là sứ giả, rõ ràng vẫn là danh từ.
[4]Xem BÀI GIẢNG CHÚA
NHẬT, số 09/2010.
[5]Nhưng cũng có chỗ lại
dùng thuật từ "sứ vụ" để dịch chữ "ministère" (x. Cv 1,25),
"sứ vụ tông đồ" "apostoli facta" (x. 2 Cr 12,12).
[6]Hồng Phúc, CSsR, ĐIỂN
NGỮ ĐỨC TIN CÔNG GIÁO, 1996.
[7]Lm. Eugène Gouin, MEP,
DICTIONNAIRE VIETNAMIEN CHINOIS FRANÇAIS, D’Extrême Orient, Sài Gòn, 1957.
[8]Xem bài Thừa Tác Viên
trong BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT Số 06. 2009, tr. 104.