Những người lãnh nhận Bí tích xức dầu bệnh nhân cần có
những điều kiện nào?
(gpquinhon.org) Thứ ba - 30/07/2013 05:58
Điều 1004 §1 của Bộ Giáo luật quy định:
“Có thể ban bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho tín hữu đã biết sử dụng
trí khôn, khi họ bắt đầu ở trong tình trạng hiểm nghèo vì bệnh tật hay vì tuổi
già”.
1. LÀ NGƯỜI TÍN HỮU
1.1. Trường hợp người Kitô hữu Công giáo
Người muốn lãnh nhận bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân phải là người tín
hữu Công giáo, nghĩa là đã được rửa tội trong Giáo Hội Công giáo hay những
người đã được nhận vào Giáo Hội Công Giáo. Tuy nhiên, Giáo luật loại trừ hai
trường hợp sau đây không được lãnh nhận bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân:
- Những người bị vạ tuyệt thông (Điều 1331 §1, 20) và bị
vạ cấm chế (Điều 132).
- Những người cố chấp sống trong tội trọng công khai (Điều 1007).
Trong trường hợp này, cần phải có đầy đủ 3 yếu tố:
+ tội trọng chứ không phải là tội nhẹ,
+ tội trọng công khai có người biết
+ có tính cách cố chấp.
1.2. Trường hợp Kitô hữu không Công giáo
1.2.1. Kitô hữu thuộc các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và các
Giáo Hội khác được đồng hóa: Theo Điều 844 §3, các thừa tác viên Công giáo ban
cách hợp thức các bí tích Sám Hối, Thánh Thể và Xức Dầu Bệnh Nhân cho những
thành viên của các Giáo Hội Đông Phương không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội
Công giáo và những thành viên của các Giáo Hội khác đang ở trong cùng một tình
trạng như các Giáo Hội Đông Phương nói trên theo sự nhận định của Tông Toà, nếu
họ tự ý xin điều đó và nếu họ đã được chuẩn bị đầy đủ.
1.2.2. Các Kitô hữu khác không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội
Công giáo, trong trường hợp nguy tử hoặc do một nhu cầu quan trọng khác thúc
bách: Điều 844 §4 quy định: Trong trường hợp nguy tử hoặc nếu, theo sự nhận
định của Giám Mục giáo phận hay của Hội Đồng Giám Mục, có một nhu cầu quan
trọng khác thúc bách, các thừa tác viên Công giáo có thể ban cách hợp thức các
bí tích Sám Hối, Thánh Thể và Xức Dầu Bệnh Nhân cho cả những Kitô hữu khác
không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công giáo, khi họ không thể đến được với
một thừa tác viên của cộng đoàn mình và khi họ tự ý xin điều đó, miễn là họ
biểu lộ đức tin Công giáo về các bí tích ấy, và miễn là họ đã được chuẩn bị đầy
đủ. Đây là trường hợp áp dụng cho các Kitô hữu Anh Giáo hoặc Kitô hữu Tin Lành
(với điều kiện là bí tích Rửa Tội được Giáo Hội Công giáo nhìn nhận là hữu
hiệu).
2. BIẾT SỬ DỤNG TRÍ KHÔN
- Nghi Thức Xức Dầu Bệnh Nhân, năm 1972,
số 12, cho phép ban bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân “cho trẻ em đến thời kỳ biết sử
dụng trí khôn mà có thể được bí tích này yên ủi nâng đỡ”.
- Bí tích này có thể ban cho những bệnh nhân tuy dù đã bất tỉnh
hoặc mất trí, miễn là khi họ còn tỉnh, với tư cách là những người có đức tin,
có thể họ đã xin lãnh nhận (Nghi Thức Xức Dầu Bệnh Nhân, năm 1972, số 14; Điều 1006).
- Trong trường hợp hồ nghi bệnh nhân đã biết sử dụng trí khôn hay
chưa, thì vẫn được ban bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho họ (Điều 1005).
3. BẮT ĐẦU Ở TRONG TÌNH TRẠNG HIỂM NGHÈO VÌ BỆNH TẬT HAY VÌ TUỔI
GIÀ
- Ngay khi người bệnh hoặc người già bắt đầu bước vào giai đoạn
nguy hiểm thì lúc đó là thời điểm thích hợp để cho họ lãnh nhận bí tích Xức Dầu
Bệnh Nhân, đừng trì hoãn để đến giai đoạn cuối cùng.
- Nguyên nhân của tình trạng hiểm nghèo phải là do bệnh tật hay
tuổi già. Vì thế, một người ở trong tình trạng hiểm nghèo vì một nguyên nhân
khác thì không được lãnh nhận bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (ví dụ như một tử tội
trước khi bị hành quyết, một binh sĩ trước khi ra trận); những người này chỉ
cần lãnh nhận bí tích Sám Hối và Thánh Thể là đủ. Việc phán đoán thế nào là đau
yếu trầm trọng thì chỉ cần một sự phán đoán chín chắn và khôn ngoan là đủ, nếu
cần thiết thì bàn hỏi bác sĩ (Nghi Thức Xức Dầu Bệnh Nhân, năm 1972, số 8).
- Trước khi được giải phẫu, bệnh nhân có thể lãnh nhận bí tích này,
nếu căn bệnh nguy hiểm là nguyên nhân gây ra việc giải phẫu ấy (Nghi Thức Xức Dầu Bệnh
Nhân, năm 1972, số 10).
- Đối với người già cả khi sức lực đã yếu nhiều, dầu không có bệnh
nguy ngập, họ cũng có thể lãnh nhận bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (Nghi Thức Xức Dầu Bệnh
Nhân, năm 1972, số 11).
- Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân có thể được ban lại, nếu sau khi hồi
phục, bệnh nhân lại ngã bệnh nặng, hoặc nếu nguy cơ trở nên nghiêm trọng hơn
trong cùng một cơn bệnh kéo dài (Điều 1004 §2).
- Trong trường hợp hồ nghi bệnh có hiểm nghèo hay không, thì vẫn
được phép ban bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho họ (Điều 1005).
- Theo Giáo luật hiện hành, trong trường hợp hồ nghi bệnh nhân đã
chết hay chưa thì vẫn phải ban bí tích này, không cần đặt điều kiện (Điều
1005). Mặc dù Nghi Thức Xức Dầu Bệnh
Nhân, năm 1972, số 15 và số 135 có đề cập đến việc xức dầu với điều
kiện (“Nếu con còn sống…”), trong trường hợp hồ nghi không biết bệnh nhân còn
sống hay không, nhưng Sắc lệnh Promulgato Codice của Thánh Bộ về Bí Tích và Phượng Tự
ngày 12-09-1983 đã hủy bỏ hình thức xức dầu với điều kiện của Nghi Thức Xức Dầu Bệnh Nhân.
- Nếu bệnh nhân đã chết rồi thì thừa tác viên không được ban Bí
tích Xức Dầu Bệnh Nhân (Nghi Thức Xức Dầu Bệnh Nhân, năm 1972, số 15
Kết luận:
“Qua bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, Giáo Hội phó thác những tín hữu
bệnh tật hiểm nghèo cho Chúa chịu nạn và vinh quang để Người nâng đỡ và cứu
chữa họ” (Điều 998). Cho nên, “bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân không phải chỉ là bí
tích dành riêng cho những người hấp hối. Do đó, thời gian thuận tiện để nhận bí
tích này chắc chắn là lúc tín hữu bắt đầu nguy tử vì bệnh tật hay già yếu”
(Vatican II, Hiến chế Phụng Vụ Thánh,
số 73).
Vì thế, Giáo Hội khuyên nhủ: “Trong việc dạy giáo lý chung hay
trong gia đình, các tín hữu phải được huấn luyện thế nào để chính họ biết tự
động xin lãnh nhận bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân và khi thời gian thuận tiện vừa
tới để lãnh bí tích ấy, thì họ lãnh nhận với lòng tin tưởng và sốt sắng đầy đủ,
đừng theo thói quen xấu mà lần lữa không lãnh bí tích này. Còn tất cả những ai
săn sóc bệnh nhân phải được học hỏi kỹ lưỡng về bản tính bí tích này”. (Nghi Thức Xức Dầu Bệnh
Nhân, năm 1972, số 13).
Tác giả bài viết: Lm. Luy Huỳnh Phước Lâm
Nguồn tin: Gplongxuyen.com