Emeritus?
Sau khi Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI từ nhiệm, hàng loạt các danh từ liên quan đến Toà Thánh ít dùng
đã xuất hiện trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng mỗi nơi có cách
dùng khác nhau, nhất là cách xưng hô đối với vị giáo tông đã từ nhiệm.
Hiện nay nhiều bản tin
tiếng Việt vẫn gọi ngài “Giáo hoàng danh dự”, dịch từ danh hiệu “Pope
Emeritus”. Tuy nhiên, cũng có người dịch là cựu hay nguyên giáo hoàng. Có người
hỏi tôi Emeritus là gì? Dịch là danh dự hay cựu hay nguyên cách nào chính xác
hơn?
1. Nghĩa của emeritus
1.1. Trong tiếng Anh, emeritus (tt.) có nguồn gốc từ danh từ Latin emeritus. Emeritus bởi tiếp đầu ngữ ex (ra khỏi) + merere (phục vụ, đáng khen), nghĩa
đen là “đã hoàn thành công việc, chức vụ trước đây”, trong tiếng Việt hiểu là
“cựu” hay “nguyên”.
Ban đầu emeritus dùng để chỉ “người lính kỳ cựu đã hoàn tất thời gian phục vụ trong
quân ngũ của mình”. Về sau nó có thêm ý nghĩa “đáng kính trọng, xuất sắc”
(trước thế kỷ 14,); và về sau nó có nghĩa “địa vị hay tư cách xứng đáng thưởng
hay phạt” hay “một phần thưởng, phúc lợi”. Danh từ meritus, ở đối cách
(accusative case) là meritum, có nghĩa là “công trạng, chức vụ, lòng tốt, từ
thiện, phần thưởng, xứng đáng, quan trọng” (tiếng Anh là merit). Trong thế kỷ
18, các đại học ở Châu Âu đã bắt đầu sử dụng thuật từ emeritus để tôn vinh các giáo sư đã nghỉ hưu. Thuật từ này cũng được sử dụng
trong tiếng Anh của người Mỹ, để chỉ các vị giáo sư về hưu lần đầu tiên vào năm
1794.
Hiện nay, emeritus là một danh hiệu danh dự để tuyên dương sự cống hiến của
một nhà lãnh đạo tôn giáo, một giáo sư, hay một nhà bác học đã nghỉ hưu, là
cách để thể hiện sự tôn trọng và lòng biết ơn đối với người được trao danh hiệu
đó. Một vị emeritus dù không còn quyền lực chính thức theo chức vụ trước đây của mình,
nhưng ông vẫn có thể tham gia vào các lễ nghi hay sự kiện chính thức. Ngoài ra,
vị emeritus có thể duy trì mối quan hệ chuyên môn đã phát triển trong thời gian
ông còn tại vị.
1.2 Tuy nhiên, khi emeritus đi chung với một từ chỉ chức vụ,
chẳng hạn Professor Emeritus, nếu dịch sang tiếng
Việt là “giáo sư danh dự” thì có thể gây nhầm lẫn với danh hiệu Honorary
Professor.
Cần phân biệt giữa danh
hiệu Emeritus và Honorary mà trong tiếng Việt chúng ta đã quen dịch là danh dự.
“Giáo sư emeritus” (professor emeritus) là một giáo sư thực thụ, thường đã làm việc
toàn thời gian, nhưng hiện tại đã nghỉ hưu, không còn giảng dạy hay tiến hành
nhiều nghiên cứu nữa; và tuy nghỉ hưu, ông vẫn có thể được mời định kỳ để
thuyết trình, giảng dạy, tham khảo ý kiến hay được trao một giải thưởng nào đó.
Còn “giáo sư danh dự” (honorary professor) hay “tiến sĩ danh dự” (honorary
doctorate) là danh hiệu (học vị) cao quý dành cho người có đóng góp ngoại hạng
trong lĩnh vực chuyên môn; hoặc có đóng góp quan trọng cho trường hay xã hội.
Một vị giáo sư hay tiến sĩ danh dự không hẳn thuộc giới hàn lâm và cũng không
nhất thiết đã từng giảng dạy tại các đại học. Danh hiệu (học vị, văn bằng) tiến
sĩ danh dự đôi khi được trao cho một nhạc sĩ, một chính trị gia hay một anh
hùng thể thao, nhưng với danh hiệu honorary (danh dự) đó, không có nghĩa là họ
là một “giáo sư emeritus”.
1.3 Emeritus trong tiếng Hoa thì gọi
là “vinh hưu”, cách gọi này cũng có cái hay vì cho thấy vừa về hưu, vừa có danh
dự. Vì tiếng Việt hiện không có chữ nào sát nghĩa hơn với chữ emeritus, nên theo thiển ý của chúng tôi trong trường hợp này (chức vụ + emeritus), chúng ta nên dùng chữ cựu hay nguyên để dịch chữ emeritus hơn là chữ danh dự (mặc dù emeritus có nghĩa kính trọng và
vinh dự hơn chữ former (cũ, cựu, nguyên).
1.4 Bộ Giáo Luật bản dịch tiếng Việt của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã
sử dụng hai chữ “danh dự” và “nguyên” để dịch từ emeritus[1]. Tuy nhiên, duy nhất ở Điều 185, emeritus được dịch là “danh dự”[2] (dùng như danh từ độc lập), còn trong các trường hợp dùng như tĩnh
từ bổ nghĩa danh từ (ở Điều 402, 443§2, 707 và 1242) thì từ này được dịch là “nguyên”[3].
Theo Giáo Luật, “Các
giám mục giáo phận khi đã trọn 75 tuổi được yêu cầu đệ đơn từ nhiệm lên Đức
Thánh Cha, và ngài sẽ định liệu...” (Điều 401§1). “Đôi khi vị giám mục được yêu
cầu từ nhiệm trước tuổi vì sức khỏe hay lý do nghiêm trọng nào khác khiến ngài
không đủ khả năng chu toàn giáo vụ của mình” (Điều 401§2).
Trước năm 1971, khi vị
giám mục không còn giữ nhiệm vụ cai quản giáo phận, các ngài thường được trao
danh hiệu hiệu toà[4], ví dụ: Năm 1968, Đức cha Antôn Nguyễn Văn Thiện từ nhiệm,
ngài không còn giữ tước hiệu “Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long”, nhưng nhận tước
hiệu “Giám Mục hiệu toà Hispellum” cho đến khi qua đời (13/05/2012) thì nhận
tước hiệu “Nguyên Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long”; Đức Tổng Giám Mục Phêrô Ngô
Đình Thục cũng vậy: Sau khi từ nhiệm năm 1968, ngài cũng mất tước hiệu “TGM của
TGP Huế” và nhận tước hiệu “TGM hiệu tòa Bulla Regia” cho đến khi qua đời
(1984), thì nhận tước hiệu "Nguyên TGM TGP Huế"[5].
Giáo Luật hiện nay nói
rõ: “Khi đơn từ nhiệm được chấp thuận, giám mục sẽ giữ tước hiệu ‘nguyên giám
mục’ của giáo phận mình” (Điều 402, xem thêm Điều 443§2, 707 và 1242). Như vậy,
khác với trường hợp được bổ nhiệm hay cho nghỉ hưu của các vị đứng đầu các
thánh bộ ở Giáo triều Roma; các vị thượng phụ, tổng giám mục, giám mục chính
toà và kể cả giám mục phụ tá khi về hưu, ngài được trao tước hiệu danh dự emeritus, toà của ngài sẽ không chuyển cho người khác, tước hiệu trước đây
của ngài sẽ được gán thêm thuật từ “emeritus” vào trước, và ngài sẽ
được gọi là nguyên thượng phụ, nguyên Tổng Giám Mục hay nguyên Giám Mục của toà
trước đó của ngài. Ví dụ: Đức cha David Cremin, Giám mục phụ tá TGP Sydney
(1973) là Giám mục hiệu toà Cunga Féichin, khi nghỉ hưu năm 2005 ngài nhận tước
hiệu “Nguyên giám mục TGP Sydney”; Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ hiện nay là
“Nguyên giám mục GP Phú Cường”, Đức thượng phụ Ignace Pierre VIII (Grégoire)
Abdel-Ahad, hiện nay là “Nguyên thượng phụ Antiochia” (Lebanon)... Có thể có
nhiều vị Nguyên TGM của cùng một tòa. Niên Giám Toà Thánh năm 2008 cho thấy Tổng
Giáo Phận Đài Bắc có đến 3 vị Nguyên TGM còn sống. Tuy nhiên, không có nguyên
TGM hiệu toà. Một TGM hiệu toà sẽ vẫn giữ nguyên tước hiệu cho đến lúc qua đời
hay chuyển sang một toà khác.
Bên Anh Giáo, khi về
hưu, các vị Tổng Giám Mục sẽ thay đổi tước hiệu. Ngoại trừ một số vị, chẳng hạn
Đức TGM Michael Ramsey của GP. Canterbury và TGM Desmond Tutu của GP Captown
(Nam Phi) khi nghỉ hưu vẫn tiếp tục giữ lại tước hiệu TGM, trong khi các vị TGM
khác thì chuyển thành tước hiệu Giám mục.
2. Nghĩa của danh dự, cựu và nguyên
Danh dự: - Danh (名) có nhiều nghĩa, ở đây nghĩa là có
tiếng tốt, dùng để khen những người tài giỏi. -Dự (譽) cũng có nghĩa: tiếng tốt, khen cái hay của người. Thuật từ danh dự thì có hai nghĩa: (1) (dt.) Việc được coi trọng
của dư luận xã hội, dựa trên giá trị tinh thần, đạo đức tốt đẹp, người có danh
thơm, tiếng tốt: Danh dự con người. (2) (tt.) Tỏ rõ sự kính trọng của xã hội, của tập thể:Chủ tịch danh dự (trên danh nghĩa, không đảm nhiệm công việc thực tế).
Cựu (舊): (tt.) (1) Cũ, lâu năm; (2)
Từ dùng trước danh từ chỉ chức vụ, với nghĩa trước kia từng là; chỉ người đã
từng giữ một chức vụ hay làm phận sự nào đó: Cựu thủ tướng Nhật Bản.
Nguyên (原): (tt.) (1) Đầu tiên, thứ
nhất, gốc, cái vốn có từ ban đầu; (2) Từ dùng trước danh từ chỉ chức vụ, với
nghĩa trước kia là: Nguyên chủ tịch hạ viện.
3. Khi nào dùng nguyên, khi nào dùng cựu?
Vì không phân biệt sự
khác nhau giữa hai từ cựu và nguyên, nên báo chí miền Nam trước năm 1975 dùng
toàn chữ cựu, sau năm 1975, báo chí dùng toàn chữ nguyên. Dần dần hiện nay
nhiều người xem như hai từ trên là đồng nghĩa. Theo chúng tôi: Cựu: (=đã cũ)
nhấn mạnh yếu tố “không còn tại vị”, dùng mô tả hoạt động của nhân vật sau khi
đã rời chức vụ. Nguyên (=vốn là) nhấn mạnh tính chất “đã từng” giữ chức vụ nào
đó, dùng mô tả hoạt động của nhân vật trước đây khi đang đương chức.
Để phân biệt rõ hơn về
cách sử dụng hai từ cựu và nguyên, chúng ta thử thuật chuyện (quá khứ) về Đức
TGM Ngô Quang Kiệt với hai thời điểm:
(1) “Ngày 20/9/2008,
trong cuộc họp với Uỷ Ban Nhân Dân TP. Hà Nội, Nguyên TGM Giuse Ngô Quang Kiệt đã nói: Tự do tôn giáo
là quyền, không phải là cái ân huệ ‘xin-cho’”. Bây giờ khi Đức Tổng đã rời chức
vụ, thuật lại chuyện của ngài về thời điểm đó, chúng ta dùng từ “nguyên”, để
chỉ rõ vốn khi đương nhiệm,
ngài đã nói thế. Ta không thể nói: “Cựu TGM Giuse đã nói: “Tự do tôn giáo là
quyền...”, vì cụm từ “Cựu TGM...” mô tả hoạt động của ngài sau khi rời chức vụ.
(2) “Ngày 29/1/2013, Cựu TGM Giuse Ngô Quang Kiệt đã ký tên vào bản Kiến
nghị sửa đổi Hiến pháp 1992. Kể từ ngày nghỉ hưu, đây là lần đầu tiên ngài lên
tiếng trước cộng đồng về những vấn đề hệ trọng của đất nước”. Ta không thể nói
“Nguyên TGM Giuse đã ký tên...”, vì hành động ký tên của ngài xảy ra sau khi ngài đã
nghỉ hưu, cụm từ “Nguyên Tổng Giám Mục” mô tả hoạt động của Đức Tổng trong
quá khứ khi vẫn còn đương chức.
4. Kết
Tóm lại, trong Giáo Hội
thuật từ emeritus đã quen được dịch là nguyên (hay cựu), không ai gọi Archbishop
Emeritus Ngô Quang Kiệt là ĐTGM Danh Dự Ngô Quang Kiệt bao giờ. Nên thiết nghĩ
“Pope Emeritus” nên dịch là nguyên giáo tông hay cựu giáo tông, chứ không nên
dịch là giáo tông danh dự.
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ (giaolyductin.net03/09/13, 4:12 pm)
[1] HĐGMVN, BỘ GIÁO LUẬT 1983, nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2007, trang 806.
[2] Điều 185: “Tước hiệu ‘danh dự’ có thể được tặng cho người đã chấm
dứt giáo vụ do quá hạn tuổi hoặc do sự từ nhiệm đã được chấp nhận”.
[3] Điều 402: “Khi đơn từ nhiệm được chấp thuận, giám mục sẽ giữ tước
hiệu ‘nguyên giám mục’ của giáo phận mình”.
[4] http://www.catholic-hierarchy.org/help.html.
[5] http://www.catholic-hierarchy.org/bishop/bngvta.html.