CÁI NHÌN CỦA GIÁO HỘI VỀ NGƯỜI ĐỒNG TÍNH VÀ “HÔN NHÂN” ĐỒNG GIỚI
(giaolyductin.org 23/09/13, 8:00 pm)
Vài sự kiện dẫn nhập
Hiện nay, cho đến tháng
Năm 2013, đã có mười bốn nước trên thế giới có hôn nhân đồng tính được luật
pháp nhìn nhận là: Argentina, Bỉ, Brazil, Canada, Đan Mạch, Pháp, Iceland, Hòa
Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Nam Phi, Thụy Điển, Uruguay. Pháp là nước
thứ mười bốn ngày 23. 4 vừa qua đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính và cho phép
các cặp đồng tính nhận con nuôi. Riêng ở Mỹ, hiện nay hôn nhân đồng tính được
hợp pháp hóa tại 12 tiểu bang và quận Columbia (trong đó có Connecticut,
Delaware, Iowa, Maine, Maryland, Massachusetts, Minnesota (1/8/2013), New
Hampshire, New York, Rhode Island (1/8/2013), Vermont and Washington). Ba mươi
sáu tiểu bang đã có lệnh cấm hôn nhân đồng tính. Chính phủ liên bang không công
nhận vấn đề hôn nhân đồng tính này.
Ngày 26. 5. 2013 hơn 1
triệu người Pháp xuống đường ở thủ đô
Tại Hà Nội, ngày 17.
05. 2013 vừa qua các bạn trẻ cộng đồng LGBT (Les, Gay, Bisexual, Transgender)
làm một đám cưới tập thể (dĩ nhiên là giả) 10 đôi uyên ương đồng giới, nhằm
chào mừng ngày quốc tế chống kỳ thị người đồng tính (IDAHO), đã gây sự chú ý
đặc biệt trong công luận Việt Nam.
Uỷ Ban Nhân Dân TP Hà
Nội cho rằng thực tế hiện nay hiểu biết của xã hội Việt
Còn người Công giáo có
cái nhìn thế nào về những người đồng tính này, có quan điểm nào về sự kết hôn
đồng giới có thể được luật hóa trong tương lai?
1. Có thể định nghĩa
đồng tính như thế nào?
Truyền thống thường mô
tả đồng tính luyến ái (homosexuality) hay sự hấp dẫn đồng giới (same-sex
attraction – SSA) như là một sự thu hút dai dẳng và nổi trội, về mặt tình dục hay sinh lí, từ phía những người cùng giới với
mình. Chữ “dai dẳng” có ý muốn nói có lẽ đương sự ít cảm thấy thích thú hơn về
tình dục đối với người khác phái.
Một định nghĩa truyền
thống khác do tiến sĩ Gerard van den Aardweg : “Chúng tôi dùng chữ đồng tính ở
đây để chỉ những ước muốn tình dục hướng tới những người cùng phái, đồng thời
giảm đi sự thích thú tình dục đối với những người khác phái”[1].
2. Nguồn gốc
Từ một quan điểm khác,
tiến sĩ Elizabeth Moberly cho rằng xu hướng đồng tính “không phụ thuộc vào sự
thiếu cân bằng hoóc-môn có tính di truyền hoặc do các tiến trình tiếp thu bất
bình thường, nhưng do từ những khó khăn trong mối quan hệ cha mẹ-con, nhất là
trong những năm tháng của thời thơ ấu”[2].
Trong khi nhìn nhận
tính phức tạp của hiện tượng đồng tính luyến ái, Moberly lưu ý một nguyên lí cơ
bản, đó là: người nam hay người nữ đồng tính đã phải chịu một sự thiếu thốn nào
đó trong mối quan hệ với người cha hay người mẹ cùng giới với mình, và có một
xung năng tương ứng nhằm cải thiện sự thiếu thốn ấy nhờ mối quan hệ đồng giới
hay đồng tính. Có thể tình trạng này là hậu quả của một chấn thương nào đó thời
thơ ấu, đã hủy diệt sự quyến luyến đối với người cha hay mẹ đồng giới, để lại
nơi đứa bé nhu cầu quyến luyến đồng giới không được thỏa nguyện. Điều này không
hàm nghĩa người cha/mẹ đồng giới với em chủ tâm bỏ bê hay đối xử với em tàn tệ.
Moberly có ý muốn nói
đồng tính (homosexuality) nói chung là một tình trạng lưỡng nan về đồng giới,
nghĩa là, trước hết đó là một vấn đề vềcăn cước giới tính (gender-identity) hơn
là vấn đề về tình dục-sinh dục[3]. Vì đứa bé kìm nén hay
trấn áp giới tính của mình, nên xung năng đối trọng để khôi phục lại sự quyến
luyến được củng cố mạnh thêm. Hậu quả của sự rời bỏ có tính phòng vệ đó là tình
trạng lưỡng nan đồng giới[4]. Quan điểm truyền thống về đồng tính tập chú
vào ước muốn tình dục-sinh dục đối với một người đồng phái, trong khi định
nghĩa của Moberly thì liên hệ đến sự lưỡng nan về căn cước giới tính của một
người. Tình trạng này tồn tại trước, hay độc lập đối với bất kì một hoạt động
tình dục nào. Điều quan trọng là, nhu cầu về căn cước giới tính của một người
có thể (và phải) được đáp ứng cách độc lập đối với bất kì một hoạt động tình
dục nào[5].
3. Quan điểm của Hội
thánh Công giáo về đồng tính
Trong Kinh thánh các
đoạn văn liên quan đều kết án các hành động đồng tính. Thư gửi các đức Giám mục thuộc Hội Thánh Công Giáo về việc Chăm sóc
Mục vụ cho những Người Đồng tính,do Bộ Giáo Lí Đức Tin ban hành năm 1986, đã
trích dẫn những đoạn Kinh thánh sau đây: Sáng thế19, 4-11 (liên hệ đến chuyện phá hủy thành Sơđôm và Gômôra vì đã
thực hành đồng tính), và Lêvi18, 22; 20, 13 (lên án
chuyện ăn nằm giữa hai người đồng giới là điều ghê tởm), Rôma 1, 18-32 (lên án những hành vi đồng tính giữa người nam với nhau,
và giữa người nữ với nhau)[6]. Trong bối cảnh mới
Kitô giáo phải đối đầu với xã hội ngoại giáo thời bấy giờ, thánh Phaolô dùng
kiểu sống đồng tính như một ví dụ cho tình trạng mù tối đang bao trùm trên nhân
loại : xem 1Côrinthô 6, 9-10 (trong đó thánh Phaolô dạy rằng những kẻ làm những hành
động đồng tính sẽ không được vào Nước Thiên Chúa) và 1 Timôthê 1, 9-10 (lặp lại những lời cảnh cáo trong 1 Côrinthô). TrongRôma 1, 26, những thực hành
đồng tính giữa nữ với nữ cũng bị lên án cách riêng.
Quan điểm dứt khoát của
Hội thánh về đồng tính luyến ái được tuyên bố trong sách Giáo Lí Hội Thánh Công Giáo.
Dựa trên Kinh thánh,
vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng, truyền thống Hội thánh luôn tuyên
bố: “Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là vô trật tự”. Chúng nghịch
với luật tự nhiên. Chúng loại bỏ khỏi hành vi tính dục tặng phẩm sự sống. Chúng
cũng không xuất phát từ nhu cầu bổ túc cho nhau thực sự về tình cảm và tính
dục. Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào. [7]
Thật ra, lập luận chống
hoạt động đồng tính luyến ái “xuất phát trực tiếp từ giáo huấn của mạc khải về
hôn nhân, cụ thể dạy rằng hai mục đích của hành động tính dục con người là sự hợp nhấtthường xuyên trong tình yêu giữa người chồng và người vợ và sinh sản con cái – hai mục đích này gắn liền với nhau không thể tách biệt.
Vì hoạt động đồng tính luyến ái không thể thực hiện mục đích này cũng như mục
đích kia, nên chắc chắn tự chính bản chất của nó là vô luân”[8]. Từ đó ta đi tới kết luận “không thể sánh ví đồng hàng giữa hôn
nhân của hai người khác giới và thực hành tính dục ngoài hôn nhân, bao gồm
trong đó cả những phối giao đồng tính”[9].
4. Bản chất của hôn
nhân
Trong Kinh Thánh, hai
chương đầu của sách Sáng thế có bao hàm những đoạn văn nền tảng về hôn nhân. Sáng thế 1,27-28 thuộc trình thuật sáng tạo thứ nhất tuyên bố «Thiên Chúa
sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình
ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc
lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho
đầy mặt đất, và thống trị mặt đất”». Trong trình thuật sáng tạo thứ hai, Sáng thế 2,23-24, Thiên Chúa giới thiệu Eva và Ađam cho nhau, và Ađam hô lên
«‘Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là
đàn bà, vì đã được rút tự đàn ông ra’. Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn
bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt». Nên lưu ý hai bản văn này
đã mô tả hai thân xác hiệp thông với nhau như thế nào cũng như từ đó một đứa
con được sinh ra (xem Sáng thế 4,1 nói về sự sinh hạ
Cain).
Trong Tân ước, Đức
Giêsu tái xác nhận lề luật đã được tuyên bố trong sáng Sáng thế. Phúc âm thánh
Mathêu 19,3-7 ghi lại câu chuyện những người Pharisêu đến hỏi Đức Giêsu người
ta có được phép li dị vợ mình vì bất kì lí do gì hay không. Đức Giêsu trả lời:
«Các ông không đọc thấy điều này sao: ‘Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con
người có nam có nữ’, và Ngài đã phán: ‘Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó
với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt’ ? Như vậy, họ không còn là
hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài
người không được phân li».
Đoạn Thư Êphêsô chương
5 là một đoạn văn tuyệt vời trong đó người làm chồng được ví như Đức Kitô và
người làm vợ như là Hội Thánh. Khi thánh Phaolô muốn diễn tả tình yêu của Đức
Kitô dành cho Hội Thánh, ngài nhờ đến tình yêu nam-nữ giữa vợ chồng: «Người làm
chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình
vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hóa Hội Thánh... Cũng thế, chồng phải yêu vợ
như yêu chính thân thể mình» (Ep 5,25; 5,28). Thế rồi
thánh Phaolô trích dẫn Sáng thế 2,24: «Chính vì thế,
người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình» (Ep 5,31). Thế đó, luật của Sáng thế về sự kết hôn dị tính (giữa một
nam và một nữ) và vĩnh hôn, được khẳng định lại.
5. Đối thoại với các
nền văn hóa hiện nay
Không phải ai cũng tin
vào mạc khải của Kitô giáo. Trong thực tế để đối thoại với những người không
tin với các nền văn hóa hiện nay, người tín hữu Công giáo có thể dùng những lập
luận rút ra từ luật luân lí tự nhiên. Luật luân lí tự nhiên là một luật trong phạm
vi của con người bắt đầu có hiệu lực khi một đứa trẻ tới tuổi khôn. Đó là tiếng
lương tâm giúp ta phân biệt phải hay trái. Đó là việc làm của một lí trí ngay
thẳng. Thánh Phaolô nhắc tới luật tự nhiên này trong đoạn Thư Rôma 2,14-15 khi ngài nói rằng dân ngoại là những người không biết luật
Môsê, nhưng họ có luật này được ghi khắc trong lòng họ.
Theo luật tự nhiên,
phần đa số con người, nam cũng như nữ, có chịu sự thu hút về thể lí tự nhiên từ
phía người khác giới, và sự thu hút đó có ý nghĩa để đưa tới một sự kết hợp
thân mật vĩnh viễn giữa một người nam và một người nữ trong hôn nhân hướng tới
việc sinh con cái. Chúng ta gọi điều này là tính bổ túc cho nhau giữa hai giới nam và nữ. Với tiên đề này chúng
ta xem xét lập luận của triết gia Michael Pakaluk. Ông chống các hành động đồng
tính luyến ái và lập luận từ ý nghĩa của hành vi giao hợp vợ chồng, “vốn là một
tình trạng đặc thù khác với các hoạt động nhân linh khác. . . . Chúng ta nói
tính dục là đặc thù bởi vì nó là một dấu hiệu của sự kết hợp hai thân xác, và
điều đó có ý nghĩa là một sự kết hợp hai nhân vị. Như thế, quả là đúng nếu ta
nói khi một người đàn ông và một người đàn bà dấn mình vào tình dục, thì sự
giao hợp hai thân xác họ (bodies) có nghĩa là sự hợp nhất hai bản vị của họ
(selves)”[10]. Pakaluk còn nói thêm “sự giao hợp tình dục có một ý nghĩa độc lập
nào đó của lựa chọn của ta; nó có nghĩa là một sự kết hợp bản vị. Vì thế, chúng
ta không thể thay đổi ý nghĩa khách quan của sự giao hợp tình dục.
“Hơn nữa, vì giao hợp
tình dục giữa một người nam và một người nữ mang tính chất hướng đến sinh sản,
hành vi hướng đến việc sản sinh ra con cái, bản thân chúng vốn là sự kết hợp
các đặc trưng của vợ và chồng, và như thế càng làm gia tăng sự hiệp nhất vợ
chồng. Như chúng ta biết, giao hoan đồng tính thì không có được những sức mạnh
đó”.
Có thể triển khai các
lập luận khác. Không thể có một sự hiệp thông thân xác đích thực trong giao
hoan đồng tính. Cách đây ít năm một người mẹ, là thành viên của nhóm hướng dẫn
một cuộc gặp gỡ tĩnh tâm cho các cặp đính ước (Engagement Encounter), đến gặp
riêng một vị linh mục đồng hành với Phong trào Courage, hỏi về hành vi đồng tính: “Họ làm ‘chuyện ấy’ như thế nào, hở cha?”
Vị linh mục mô tả cách thức họ làm ‘chuyện ấy’, và bà ta cười phá lên và nói:
“mấy cái bộ phận làm sao mà tra khớp vừa khít được!”
6. Mục vụ cho những
người có sự thu hút đồng giới (SSA)
Cha John F. Harvey, O.
S. F. S. , kể từ những năm giữa thập niên 1980, đã tham vấn cho các bạn trẻ
đồng tính trong khi dùng đến những kết quả của Moberly giúp họ nhận ra rằng họ có thể làm cái gì đó về tình trạng thu hút đồng giới này của họ. Khi một
bạn trẻ bắt đầu hiểu ra rằng không ai chủ ý chọn cho mình loại cảm giác thu hút
này và rằng anh (hay cô ta) có thể học để khống chế quyền lực của nó, anh (cô
ta) thường muốn làm việc với cả nhà tham vấn tâm linh và nhà tâm lí trị liệu,
để giúp mình giải quyết vấn đề. Bạn trẻ ấy sẽ rất vui khi nghe, theo như
Moberly hiểu, rằng sự thu hút đồng giới không phải là một điều bệnh hoạn (xu
hướng bị thu hút đồng giới thì khác với hành vi và lối sống đồng tính có giao
hoan tình dục). Thật ra đó là xung năng để khôi phục lại những quyến luyến vốn
đã bị đổ vỡ với “một suối nguồn yêu thương, vốn là chính người cha hay người mẹ
cùng giới với bạn ấy” và như thế, đây “không phải là một vấn đề cho bằng là một
nỗ lực giải đáp vấn đề”[11]. Vấn đề bệnh hoạn hay không là ở chỗ đứa trẻ
bị tách li sớm khỏi người cha hay người mẹ cùng giới trong tình trạng đổ vỡ oán
trách, tuy nhiên người ta có thể sửa chữa sự thiếu hụt do quá khứ ấy bằng sự
vun đắp một tình bạn đồng giới thanh khiết[12]. Trong khi giúp đỡ
những người chịu sự thu hút đồng giới (SSA) sống đức khiết tịnh (là mục tiêu
chính yếu của Phong trào Courage [Can đảm]), cha John nhận thấy
quan điểm của Moberly rất hữu ích[13]. Theo đuổi đức khiết
tịnh là bước đầu tiên rời xa chứng thu hút đồng giới (SSA). Cá nhân người đồng
tính có thể không hoàn toàn phục hồi trở về tình trạng xu hướng dị tính tự
nhiên, nhưng người ấy đang đi trên con đường tâm linh đúng đắn. Nhờ ơn Chúa,
người ấy không những sẽ tránh được sa ngã phạm tội tình dục đồng giới mà còn
phát triển được một tâm hồn khiết tịnh. Trong tiến trình từ giai đoạn non nớt
sống thiên về cảm xúc đến giai đoạn trưởng thành hơn về tình cảm (tình cảm được
hướng theo một trật tự ngay chính) những bạn này phát triển từng ngày một nhân
đức gọi cho chính xác là khiết tịnh haytiết độ (continence). Người có nhân đức khiết tịnh, theo định nghĩa,
phải thường xuyên sống cảm xúc của mình hòa hợp với lí trí. Chừng nào người ấy
vẫn còn sống cái phản ứng tách li phòng vệ hoặc bị thu hút tình dục chủ yếu bởi
những người đồng giới, thì vẫn còn một lỗ hổng lớn trong tương quan giữa lí trí
và tình cảm.
Thái độ và cái nhìn
của người Kitô hữu về anh chị em có sự thu hút đồng giới
Nhiều vị mục tử và các
nhà thần học mục vụ chuyên về lãnh vực này tránh dùng những nhãn hiệu như “gay”
(đồng tính nam) và “lesbian” (đồng tính nữ) hay “bisexual” (song tính) xuất
phát từ tầm nhìn nhân học đúng đắn của Kitô giáo vốn coi trọng nhân vị, hình
ảnh của Thiên Chúa. Đối với họ, mộtcon người hay một cá vị thì khác
hẳn một xu hướng tình dục. Một cá nhân là một ngôi vị, là một thọ tạo được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và
giống Thiên Chúa, có trí hiểu và ý chí tự do, được tiền định để sống đời vĩnh
cửu, và khi được rửa tội, lại là một người anh em hay chị em của Đức Kitô. Khi
nói về người anh em hay chị em ấy như là kẻ “đồng tính” là ta đã giảm thiểu con
người ấy (vốn là một nhân vị) thành chỉ như là một xu hướng tình dục. Một con
người thì khác xa hơn nhiều do mầu nhiệm ngã vị tính của người ấy.
Những từ ngữ như “gay”
hay “lesbian” thậm chí còn giảm trừ hơn nữa tính phức tạp kì diệu của mầu nhiệm
ngôi vị. Gọi những người anh em / chị em ấy là “gay” hay là “lesbian” tức là xem xu hướng tình dục của họ như là
điểm quan trọng nhất của căn tính con người họ. Sinh ra làm người
theo cách như thế ấy hay không, đối với những cá nhân đó, không là vấn đề. Họ
tuyên bố rằng: “Đó là cái cách thức mà tôi sống và sẽ luôn như thế. Tôi phải
kết bạn với những người giống như tôi và để rồi sau cùng sẽ tìm thấy được một
đối tác (bạn tình) lí tưởng mà tôi có thể kết giao trong một ‘quan hệ đơn nhất’
để ổn định cuộc sống. Tôi sẽ ra sức để kiến tạo nên một xã hội trong đó những
người kết giao đồng tính có cùng quyền lợi như những người kết hôn dị tính”.
Cả ba hình thức xác
định bản vị kiểu như thế (đồng tính luyến ái, gay, và lesbian) đều không thể mô
tả một người hiện hữu như là một nhân vị. Không chỉ là một vấn đề lí thuyết,
bạn nhìn chính mình như một nhân vị như thế nào liên quan chặt chẽ với cái nhìn
về bản thân bạn và thiết lập những mục tiêu cá nhân của bạn cho tương lai thế
nào. Hình ảnh về bản thân bạn như thế nào tác động rất lớn trên hành vi cuộc
sống bạn.
Gọi người ấy là người có xu hướng bị “thu hút bởi người đồng giới” (“same-sex attraction”) (đối lại
với cách gọi họ là “gay” hoặc “lesbian”) đặt trọng tâm trên tính duy nhất của ngôi vị
hơn là trên một xu hướng (tendency) vốn ở thấp bên dưới lí trí và có thể thay
đổi khi người ấy trưởng thành hơn. Trong ngôn ngữ của thời đại, người ta lại
nói đến “hướng định” đồng tính (homosexual “orientation”). Thật không may,
trong số nhiều người có xu hướng chịu “sự thu hút đồng giới”, từ ngữ trên mang
một hàm nghĩa ấy là một xu hướng tất định, không thay
đổi được. Nhưng đó không phải là trường hợp của nhiều cá nhân, cách riêng của
những em tuổi teen nghĩ mình là người đồng tính, nhưng chỉ sau ít năm lại đi yêu một
người khác phái!
Nỗi khó khăn của việc
‘dán nhãn’ cho một ai đó, là: làm như thế là đã giới hạn người ấy vào một số
tùy chọn và tầm nhìn giới hạn nhất định rồi. Bộ Giáo Lí Đức Tin phát hành văn
kiện Về Chăm Sóc Mục Vụ cho Những Người Đồng Tính, nói rất rõ điểm này:
«Ngày nay Hội Thánh đề nghị một cảnh vực hết sức cần thiết cho việc chăm sóc
mục vụ con người, khi từ khước xem họ như là ‘người đồng tính’ (homosexual) hay
như là ‘người dị tính’ (heterosexual), và luôn nhấn mạnh rằng mỗi người đều có
một căn tính nền tảng. Họ là thụ tạo của Chúa, và nhờ ơn Chúa họ còn là con cái
Chúa và được hưởng gia nghiệp đời đời»[14].
Vì thế, tình cảnh của
một người có xu hướng đồng tính không lấy mất của người ấy phẩm giá thụ tạo
được Chúa ban cho, cũng không làm thay đổi sự kiện một người đã rửa tội là anh
em hay chị em của Đức Kitô với hi vọng được sống đời vĩnh cửu. Trên bình diện
nhân bản, theo quan điểm của tiến sĩ Joseph Nicolosi, tác giả của Healing Homosexuality (Chữa lành Đồng tính), người ta nên nhìn bản
thân mình như là một người vốn tự nhiên có xu hướng dị tính với vấn đề đồng
tính[15].
Kết
Thiên Chúa không tạo
dựng con người đồng tính; Ngài để cho con người chịu nỗi niềm riêng này là có
những lí do bí nhiệm riêng của Ngài. Đừng ai để mình bị cám dỗ đi đến mức tự
ghét bản thân, than thân trách phận, và oán trách Thiên Chúa vì một tin tưởng
sai lầm rằng Ngài đã dựng nên mình đồng tính. Khinh bỉ bản thân mình vì mình là
người có xu hướng chịu sự thu hút đồng giới (SSA) thật ra là một hình thái của
chứng “sợ người đồng tính” (homophobia) và thậm chí thù ghét
chính bản thân mình cách phi lí.
Ngày nay vẫn có nhiều
người sợ một cách phi lí những người mang tiếng là đồng tính luyến ái bởi vì
tình cảnh của những người ấy bị hiểu lẫn lộn với tình trạng của những người lạm
dụng tình dục trẻ em (pedophilia), hoặc xem họ gắn liền
với AIDS, hoặc cho là những người ấy đã tự chọn cách sống như thế. Thế nhưng,
Hội thánh dạy chúng ta nên có một chương trình chăm sóc mục vụ đặc biệt cho
những anh chị em có sự thu hút đồng giới, đồng thời đối xử với họ bằng thái độ
yêu thương và kính trọng: «Phẩm giá của mỗi người phải luôn được kính trọng
bằng lời nói, hành động, và bằng luật pháp»[16].
Lữ Y Nguyễn
THƯ MỤC
1. Bộ Giáo Lí Đức Tin, Thư gửi các đức Giám mục thuộc Hội Thánh Công Giáo về việc Chăm sóc
Mục vụ cho những Người Đồng tính (1986)
2.
Moberly, E. R. , Homosexuality: A New Christian
Ethic (Cambridge, England:
James Clark, 1983)
3.
Moberly,E. R. , Psychogenesis: The Early
Development of Gender Identity (London: Routledge and Kegan Paul, 1983)
4.
Harvey, J. F. , O. S. F. S. , The Homosexual Person (San Francisco:
Ignatius Press, 1987)
5.
6.
7.
Aardweg,G. van den, On the Origins and Treatment of
Homosexuality (New York: Praeger, 1986)
8.
Nicolosi, J. , Ph. D. , Healing Homosexuality (Northvale, NJ: Jason
Aronson, 1997)
[1] G. van den Aardweg, On the Origins and Treatment of Homosexuality (New York: Praeger,
1986), p. 1.
[2]E. R. Moberly, Homosexuality: A New Christian Ethic (Cambridge, England:
James Clark, 1983), p. 2.
[3] J. F. Harvey, O. S. F. S. , The Homosexual Person (San Francisco: Ignatius Press, 1987), p. 28.
[4] E. R. Moberly, Homosexuality: A New Christian Ethic, được trích lại trong
[5] Harvey, The Homosexual Person, p. 28.
[6]Bô Giáo Lí Đưc Tin, (Thư gửi các đức Giám mục thuộc Hội Thánh Công Giáo) Về việc Chăm
sóc Mục vụ cho những Người Đồng tính (1986), ss. 6-8; cũng
nên tham khảo Persona Humana, s. 8.
[7] Sách GLHTCG, 2357.
[8] J. F. Harvey, O. S. F. S. , The Truth about Homosexuality (San Francisco:
Ignatius Press, 1996),p. 304.
[9] Ibid. , p. 127.
[10]Ibid. , p. 133.
[11] E. R. Moberly, Psychogenesis: The Early Development of Gender Identity (London: Routledge and
Kegan Paul, 1983), p. x.
[12] Moberly, Homosexuality, pp. 28-29.
[13] Để biết chi tiết hơn lí thuyết của Moberly xin
tham khảo chương ba của
[14]Bô Giáo Lí Đưc Tin, Về Chăm Sóc Mục Vụ cho Những Người Đồng Tính (1986), 16.
[15]J. Nicolosi, Ph. D. , Healing Homosexuality (Northvale, NJ: Jason Aronson, 1997).
[16] Về Chăm Sóc Mục Vụ cho Những Người Đồng Tính
(CSMVĐT), 10.