Việc Kính Nhớ Người Qua Đời Có Trước Hay Có Sau
Việc Kính Nhớ Các Thánh?
(catechesis.net) October 31, 2019
Kính
thưa quý vị,
Phụng
vụ mừng lễ Các Thánh vào ngày đầu tháng 11, và ngày hôm sau, tưởng nhớ các
người qua đời. Xét theo nguồn gốc lịch sử, lễ kính nào ra đời trước: việc kính
nhớ các người qua đời có trước, hay lễ các thánh có trước? Linh
mục Phan Tấn Thành trả lời.
Để trả
lời câu hỏi này, chúng ta phải phân biệt nhiều vấn đề. Việc kính nhớ các linh
hồn qua đời là một chuyện, còn việc dành ra một ngày trong năm để tưởng nhớ tất
cả các linh hồn là chuyện khác. Một cách tương tự như vậy, kính nhớ các thánh
là một chuyện, còn dành ra một ngày để kính nhớ tất cả các thánh là một chuyện
khác. Chúng ta sẽ cố gắng đi từng bước một: chúng ta hãy khởi hành với thực tại
ngày nay, rồi chúng ta sẽ đi lùi ngược lại dòng lịch sử.
Ngày
nay lễ tưởng nhớ các người qua đời diễn ra vào ngày hôm sau lễ các thánh. Từ
khi nào lịch phụng vụ ấn định việc cử hành hai ngày lễ đó?
Việc
dành ngày 2 tháng 11 để tưởng nhớ tất cả các người qua đời bắt đầu từ năm 998, do sáng kiến
của thánh Ôđilon, viện phụ đan viện Cluny dòng Biển Đức. Trong ý định của ngài,
sau khi đã dành ngày 1/11 để kính tất cả các thánh, nghĩa là những tín hữu đang
hưởng hạnh phúc bên Chúa, thì chúng ta nên dành ngày kế tiếp (2/11) để tưởng
nhớ và cầu nguyện cho những tín hữu còn phải chịu đau khổ trong nơi luyện tội.
Một câu hỏi đương nhiên được đặt ra là: từ khi nào có lễ kính tất cả các thánh?
Câu hỏi này khá dài dòng, bởi vì lễ kính chung tất cả các thánh có sau lễ kính
riêng từng vị thánh. Và nguồn gốc của việc kính các thánh bắt đầu từ việc tưởng
nhớ người qua đời. Đến đây, thứ tự thời gian bị đảo ngược.
Tại sao
việc tôn kính người qua đời lại có trước việc tôn kính các thánh? Nếu chưa làm
thánh thì đâu được phép tôn kính?
Chúng
ta cần phân biệt nhiều cấp độ tôn kính: tôn kính tổ tiên thì khác với tôn kính
Thiên Chúa. Khi tôn kính các bậc tổ tiên, chúng ta không có ý đặt các ngài
ngang hàng với Thiên Chúa. Tuy nhiên ở đây, chúng ta không đi sâu vào vấn đề
thần học mà chỉ dừng lại ở khía cạnh lịch sử. Vào các thế kỷ đầu tiên, các Kitô
hữu, và cụ thể là tại Rôma, cũng giữ những phong tục an táng và tưởng nhớ các
thân nhân qua đời. Vào dịp ấy, người Rôma tụ họp nhau và tổ chức bữa tiệc,
không chỉ để tưởng nhớ người quá cố mà còn muốn mời người quá cố tham dự. Người
Kitô giáo chấp nhận tập tục này, nhưng dần dần, họ thay bữa tiệc bằng việc dâng
Thánh lễ. Chúng ta sẽ bàn đến các tập tục quanh lễ an táng sau; ở đây, chúng ta
chỉ muốn theo dõi sự tiến triển của việc tôn kính các thánh. Khởi đầu là các vị
tử đạo. Đó là những tín hữu đã chết vì đức tin, chết vì lòng yêu mến Chúa
Giêsu. Cái chết của những người này khác với những cái chết khác, do đó lễ an
táng cũng khác. Thi hài của các vị tử đạo được tổ chức long trọng, và ngày qua
đời của họ được cử hành như là “sinh nhật” (dies
natalis): họ được sinh vào cuộc sống mới, cuộc sống vĩnh cửu. Vào
dịp giáp năm ngày sinh nhật, các tín hữu tổ chức việc tưởng nhớ bên mộ, không
phải để khóc than, nhưng để ca ngợi Thiên Chúa. Thay vì cầu nguyện cho họ, các
tín hữu xin họ hãy cầu nguyện cho mình. Đó là khởi điểm của việc tôn kính các
thánh, và chính xác hơn nữa, việc tôn kính các thánh tử đạo. Mãi đến thế kỷ IV,
việc tôn kính các thánh cũng được mở rộng ra đến các vị giám mục, đan sĩ, trinh
nữ. Không nói ai cũng biết, vào những thế kỷ đầu tiên, việc tôn kính này mang
tính địa phương, nghĩa là mỗi giáo phận chỉ kính những vị thánh của địa phương
mình, nghĩa là những người mà mình quen biết. Dần dần, qua những cuộc tiếp xúc
giữa các giám mục hoặc nhờ những cuộc hành hương, người ta mới thông tin cho nhau
các vị thánh của mình.
Từ lúc
nào có lễ kính chung tất cả các thánh?
Các sử
gia đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau, bởi vì nó bắt nguồn từ nhiều tập tục địa
phương, rồi sau đó mới được phổ biến trong toàn thể Hội thánh. Những tài liệu
sử học sớm nhất cho thấy rằng ngay từ thế kỷ IV, các giáo hội bên Đông phương
đã mừng lễ tất cả các thánh tử đạo, tuy vào những ngày khác nhau. Giáo hội ở
Antiokia mừng vào Chúa nhật sau lễ Ngũ tuần, và tục lệ này vẫn còn duy trì cho
đến nay; ra như người ta muốn ca ngợi những tín hữu đã được kết hợp với mầu
nhiệm Vượt qua bằng cái chết của mình. Bên Tây phương, lễ mừng tất cả các thánh
xuất hiện muộn hơn, và có lẽ bắt nguồn từ lễ cung hiến điện Pantheon ở Rôma.
Trước đây, người Rôma cất một đền thờ kính vạn thần, với hai chủ đích chính.
Một đàng, họ muốn tôn kính tất cả các vị thần, vì sợ rằng nếu có thần nào không
được thờ thì sẽ gây oai tác quái cho nhân dân. Đàng khác, họ muốn đem các thần
của các dân đã bị chiếm đóng về thủ đô, để xoa dịu lòng căm phẫn thù hận, khi
biết rằng thần của mình được tôn kính ngay tại thủ đô của Đế quốc. Sau khi Đế
quốc Rôma trở lại Kitô giáo, đức thánh cha Bonifacio IV đã cung hiến đền thờ
này cho Đức Mẹ Maria và các thánh tử đạo, ngày 13/5/609 (hoặc 610). Về sau, lễ
này được Đức thánh cha Gregorio III (731-741) dời sang ngày 1/11, kỷ niệm ngày
cung hiến một nhà nguyện trong đền thờ thánh Phêrô để kính nhớ “tất cả các
thánh tông đồ, tử đạo, tuyên tín, và các người công chính trên khắp thế giới”.
Từ năm 835, lễ này được tuyên bố là lễ nghỉ dân sự.
Lễ các
thánh có trùng với lễ Halloween không?
Câu hỏi
cũng có thể đặt ngược lại: lễ Halloween có trùng với lễ các thánh không? Các sử
gia đang tranh cãi. Nếu xét theo từ ngữ, thì Halloween có nghĩa là áp lễ các thánh
(ghép bởi All Hallows nghĩa
là các thánh, và eve có
nghĩa là bữa trước). Xét theo nguồn gốc, thì người ta đoán rằng vào ngày 1/11,
dân tộc ở miền Bắc Âu có một lễ tân niên, gọi là Samhain. Hôm đó người ta tin
rằng các vong hồn sẽ trở về hội ngộ với người sống; cần phải tổ chức lễ hội để
đón rước. Về sau này, Giáo hội muốn thay thế lễ ấy bằng lễ các thánh. Không
hiểu sự thật như thế nào, nhưng chúng ta thấy rằng trên thực tế, không ít ngày
lễ của Kitô giáo được đặt ra để thay thế những lễ của ngoại giáo, điển hình là
lễ Chúa Giáng sinh thay thế lễ kính thần mặt trời ở Rôma, và lễ các thánh kỷ
niệm việc biến đổi đền vạn thần thành lễ kính Đức Mẹ và các thánh tử đạo.
Chúng
ta đã theo dõi sự tiến triển của việc tôn kính các thánh khởi đi từ các lễ nghi
tôn kính người chết ở Rôma. Còn đối với những người không phải là thánh thì
sao?
Như vừa
nói, trải qua lịch sử, Giáo hội lấy lại nhiều phong tục địa phương, và đồng
thời loại bỏ những yếu tố mang tính cách mê tín. Điều này thấy rõ nơi lễ nghi
an táng và tôn kính người chết, mà Giáo hội tiếp nhận từ phong tục Rôma. Trước
khi đi vào vấn đề, ta đừng nên quên rằng người thời xưa bên Âu cũng như bên Á,
không chỉ coi viện tang ma như là một hành vi xã hội, nhưng nhất là một hành vi
tín ngưỡng, mang tính cách thánh thiêng, vì đụng chạm đến thế giới thần linh. Luật
Rôma bảo vệ các nghĩa trang như là đất thánh, khu vực bất khả xâm phạm; chắc
hẳn ý tưởng này được chấp nhận dễ dàng vào trong luật Giáo hội. Việc tôn kính
dành cho người chết bao hàm nhiều hành động: từ khi tẩm liệm cho đến khi an
táng, cũng như những nghi thức theo sau nữa. Chúng ta bắt đầu bằng việc tẩm
liệm. Thân xác được tắm rửa và xức thuốc thơm. Giáo hội tiếp nhận tập tục này
dễ dàng, vì ý thức rằng thân xác người Kitô hữu đã được thánh hóa nhờ bí tích
Thánh Tẩy và bí tích Thánh thể, đã trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần, cho nên
đáng được tôn trọng. Không lạ gì mà phụng vụ đã xông hương thi hài trước khi
đặt vào hòm. Sau khi đã được tắm rửa và xức dầu thơm, thi hài được khoác áo với
vải quý giá, nhất là thi hài của các vị tử đạo. Tuy nhiên, vì có những sự lạm
dụng xảy ra, chẳng hạn như dùng lụa là gấm vóc để phô trương, cho nên các giáo
phụ đã lên tiếng cảnh cáo thói xa hoa ấy. Những nghi thức vừa rồi diễn ra trước
sự chứng kiến của cộng đoàn. Cộng đoàn cầu nguyện, hát thánh vịnh, công bố Lời
Chúa. Bên cạnh quan tài, người ta thắp đèn dầu, và những ngọn đèn này sẽ hộ
tống quan tài ra tới huyệt. Người Rôma còn đặt trên miệng người chết một đồng
tiền, để trả cho thần Caronte khi lên thuyền đi vào âm phủ. Các Kitô hữu đã
thay thế tục lệ này bằng việc đặt Mình Thánh Chúa trên miệng người chết như của
ăn đàng, trước khi liệm vào hòm. Mặc dù nhiều giáo phụ phản đối tục lệ này,
nhưng nhiều nơi vẫn duy trì trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất, và mãi đến năm
1200, mới bị bãi bỏ hoàn toàn. Thay vì đặt Mình Thánh Chúa trên miệng, người ta
đặt thánh giá trên tay của người quá cố (hoặc tràng chuỗi Mân côi). Chặng kế
tiếp là việc đưa đám. Thời xưa, các tín hữu đưa đám ban đêm, vì thế họ thắp
đuốc đốt đèn để soi đường. Về sau này, dù khi đưa đám vào ban ngày, người ta cũng
thắp đèn, với một ý nghĩa tượng trưng: người tín hữu là đèn sáng, bởi vì họ là
chứng nhân cho Đức Kitô, ánh sáng của thế gian. Một nét khác biệt của đám tang
người Kitô hữu với đám tang người ngoại là niềm hân hoan. Dân ngoại thuê những
bà đến khóc trong đám tang, còn người Kitô hữu thì hát Alleluia. Sang thời
Trung cổ, bầu khí vui tươi dần dần biến đi, nhường chỗ cho sợ hãi tang tóc, bởi
vì người ta hình dung Đức Kitô như là vị thẩm phán đáng sợ.
Thời
xưa, các tín hữu đưa quan tài thẳng ra mộ, chứ không vào nhà thờ hay sao?
Trong
những thế kỷ đầu tiên, Kitô giáo chưa được phép xây nhà thờ. Tuy vậy, lễ an
táng đã sớm được gắn liền với Thánh lễ, hiểu là tại tư gia hoặc tại nghĩa
trang. Người Rôma quen tổ chức các bữa tiệc trên mộ người quá cố; các Ki-tô hữu
đã sớm thánh hóa tục lệ này và thay thế bằng việc dâng Thánh lễ, hiểu là trên
ngôi mộ. Thánh lễ được cử hành không chỉ vào lúc an táng mà còn vào các dịp
giỗ. Người Rôma tổ chức tiệc giỗ vào ngày thứ 9 và 40 sau khi qua đời. Các
Ki-tô hữu cử hành Thánh lễ vào các ngày kỷ niệm 3, 7, 30 ngày: 3 ngày để tưởng
nhớ cuộc Chúa Giêsu phục sinh sau ba ngày được an táng trong mộ; 7 ngày được
thánh Augustino giải thích như là tưởng nhớ tuần lễ tạo dựng, Thiên Chúa nghỉ
ngơi vào ngày thứ bảy; 30 ngày nhắc đến thời gian dân Israel để tang cho ông
Môsê (Ds 20,30; Đnl 34,8). Sau cùng, thiết tưởng nên nêu bật một đặc trưng của
người Kitô hữu là tên gọi nơi chôn cất kẻ qua đời. Người Rôma gọi nơi đó
là necropolis,
thành phố của người chết; các Ki-tô hữu gọi là coemeterium, có nghĩa là nơi an giấc, hiểu
ngầm là chờ đợi sẽ được đánh thức, nghĩa là sống lại.