HUẤN
THỊ SỐ 5 (03-2001)
của
Thánh Bộ Phụng Tự & Kỷ Luật Bí Tích nói ǵ
VỀ VẤN
ĐỀ PHIÊN DỊCH ?
LỜI
NÓI ĐẦU
Năm
bài trong tập sách nhỏ này là những bài đă
đăng rải rác trên mạng Vietcatholic từ mấy
tháng qua. Nay tôi tập trung
lại trong tập này và đề là Huấn
thị số 5 nói ǵ về vấn đề phiên dịch ? Sở dĩ như vậy v́ phiên
dịch, nhất là phiên dịch phụng vụ là vấn
đề hệ trọng đáng mọi người quan
tâm.
Tôi
được nghe nói Huấn thị này ra đời là v́
ở một số nơi, như
Hoa kỳ chẳng hạn, đang có vấn đề
lộn xộn về ngôn ngữ phụng vụ. Ở
đó người ta đ̣i khi dùng đại từ chỉ
Chúa, phải dùng cả hai giống vừa “He” vừa “She”.
Vấn đề cứ nhùng nhằng măi, khiến cho
bản dịch phụng vụ ở Mỹ đến bây
giờ xem ra vẫn chưa ngă ngũ. Nay Ṭa thánh muốn ra một tài liệu chính thức
để chấm dứt t́nh trạng đó. Ngoài ra,
cũng có thể là ngay ở Ư, bản dịch sách lễ
Rô-ma có những lời nguyện người Ư không dịch
sát hoàn toàn theo tiếng La-tinh mà thêm bớt hay xếp
đặt lại cho gọn gàng và hay hơn như
người ta nghĩ. Rồi cũng có thể như
ở Hà lan, người ta có đến hơn 20 bản
Kinh Tạ Ơn trong đó có một bản riêng để
đọc trong Mùa World Cup (theo sách Vers une liturgie sécularisée : Hướng về một
nền phụng vụ tục hóa, xuất bản cách
đây hơn 30 năm của tác giả Matura).
Nếu
b́nh tĩnh và không vội nổi nóng để phân tích và t́m
hiểu, chúng ta cũng có thể thấy một vài
điểm tích cực trong các hiện tượng trên,
đành rằng có nguy hiểm trệch xa chính lộ và gây
nên xáo trộn. Nhưng phải nh́n nhận rằng
những hành động đó có thể là khởi
điểm cho những t́m ṭi và nghiên cứu để
đi tới một nền phụng vụ linh hoạt
gần với đời sống, (tất nhiên dưới
sự kiểm soát và hướng dẫn của cơ quan
chức năng là Bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí
Tích).
Huấn
thị số 5 ra đời cũng không ngoài mục
đích đó. Huấn thị đă được ban hành từ năm 2001, nhưng
ở Việt nam ít ai biết đến, lại càng ít
người đọc nữa. Mấy năm qua, tôi
chỉ nghe nói loáng thoáng là từ nay dịch tiếng La-tinh
phải dịch thật sát, tiếng La-tinh trong bản
văn ở chỗ nào th́ phải để ở chỗ
đó, khi dịch sang tiếng bản quốc. V́ vậy,
gần đây tôi mới t́m đọc bản gốc.
Đọc rồi, tôi thấy nội dung không đến
nỗi quá khe khắt ngặt nghèo như thế, bằng
chứng là sau khi ra luật th́ ngay bên cạnh, vẫn có
những cụm từ như chừng
nào có thể, quantum fieri potest, hay
gặp từ La-tinh nào khó, có ư nghĩa quan trọng mà không
thể chuyển sang ngôn ngữ hiện hành trong thời
đại chúng ta, th́ có thể dùng những kiểu khác,
hoặc một từ hay
nhiều từ kết hợp, hay đặt ra một
từ mới v.v…
Quotiescumque vocabulum aliquot latinum significationem habet gravem, quam
difficile est in linguam aetate nostra vigentem reddere (veluti verba “munus”,
“famulus”…) in translatione adhiberi possunt variae rationes, sive eo quod
vocabulum uno verbo sive pluribus conjunctis redditur sive ut vocabulum novum
condatur… (LA 53)
Rồi
sửa hay dịch lại bản cũ cũng thế. Khi
nào thấy sai sót mới sửa, mà có hay hơn mới
sửa (in melius), c̣n ngoài ra chỉ nên điều chỉnh
hay bổ túc. Đó là điều các sách lễ bên Âu châu
như Pháp, Đức, Ư vẫn c̣n để như cũ,
chỉ thêm khi cần phải thêm, hay sửa chỗ nào
cần sửa thôi.
Trong
năm bài, có bài Dịch thế nào cho sát ?, là không lấy ra từ
Huấn thị mà chỉ là bài nhập đề cho
tập sách, v́ nội dung chính yếu của Huấn
thị nói về vấn đề phiên dịch. Về
vấn đề này, mỗi nguời hiểu theo một
lối và làm theo một cách. V́ vậy, nên dựa vào một
tiêu chuẩn do tác giả Nide nói, trong sách bàn về Lư
thuyết phiên dịch của ông. Đúng như ông nói :
điều cốt yếu trong vấn đề dịch là
dịch sát. Nhưng thế nào là sát và dịch như
thế nào mới sát. Bởi thế, mới có bài bên lề
này.
DỊCH THẾ NÀO CHO SÁT ?
Những năm gần
đây, sách dịch rất nhiều, có cuốn dịch hay,
có cuốn dịch dở. Hay hay dở là chuyện b́nh
thường, v́ điều ấy tùy thưộc ở tài
trí và khả năng cũng như quan điểm của
người dịch. Ở đây chỉ xin nói đến
quan điểm của người dịch. Quan
điểm đó là dịch sao cho sát. Nhưng dịch sát là
thế nào và dịch sao cho sát ?
Dịch sát là dịch
đúng như nguyên ngữ. Nguyên ngữ viết thế nào
th́ dịch ra như vậy. Đúng thế. Theo Nide,
người đă viết sách về lư thuyết phiên dịch
th́ dịch sát là đ̣i hỏi căn bản. Nhưng sát có
hai nghĩa và nhiều cách dịch khác nhau nhưng vẫn là
sát. Đó là dịch sát chữ và sát nghĩa. Có những
trường hợp dịch sát chữ không có vấn đề,
thí dụ tiếng nước ngoài là cái bàn th́ ḿnh dịch sang tiếng Việt cứ
dịch là cái bàn, sát chữ,
sát nghĩa như vậy. Nhưng cũng có những câu,
những chữ không dịch sát chữ được mà
phải sát nghĩa, thí dụ chữ ăn Tết, cái nồi ngồi trên cái cốc,
đồng hồ cửa sổ, xe mùa đông v.v…
Những chữ này đối với người Việt
Nam rất hay và có ư nghĩa, trong nguyên ngữ cứ nên
để vậy. Nhưng khi dịch sang tiếng
nước ngoài th́ phải dịch sát nghĩa chứ không
sát chữ được. Như vậy phải dịch
cái nồi ngồi trên cái cốc là cái phin pha cà phê,
đồng hồ cửa sổ là đồng hồ
chỉ ngày tháng, xe mùa đông là xe gắn máy lạnh, ăn
Tết là cử hành long trọng ngày đầu năm âm
lịch. Chúng ta không thể chê người dịch như
thế là nói ṿng vo, dịch không sát.
Mỗi ngôn ngữ có
một kiểu cách riêng để diễn tả mà
những người thuộc ngôn ngữ đó cho là
rất hay, rất thấm thía. Nhưng khi dịch sang
tiếng nước ngoài, những chữ, những
kiểu đó không thể nào diễn tả được
hết. Thí dụ người Pháp nói : cet homme-là respire la
santé. Chữ respirer rất hay, diễn tả được
nhiều lắm. Chắc hẳn người hiểu
biết th́ không dịch là con
người đó thở ra sức khoẻ, tuy dịch
như thế là sát chữ hoàn toàn. Nhưng cái sát đó
thật là ngây ngô. C̣n nếu có ai dịch : anh ta trông thật là khoẻ khoắn, th́
đừng chê là dịch không sát v́ không có chữ anh ta, khoẻ khoắn và
chữ trông trong câu tiếng
Pháp, nhưng nghĩa của câu đó là như vậy.
Dịch như thế là sát, nhưng sát nghĩa mà không sát
chữ. Cả hai đều là sát, nhưng có cái sát văn
vẻ, có cái sát vụng về.
Ngoài ra lại c̣n nhiều
lối dịch khác chữ mà không khác nghĩa. Thí dụ : nhà lănh đạo rất
được yêu mến của chúng ta. Người ta
có thể nói một kiểu khác mà nghĩa vẫn không thay
đổi, thí dụ : nhà lănh
đạo (mà) chúng ta hết ḷng yêu mến. V́ vẻ
đẹp của bản văn, nhất là khi bản
văn đó được soạn ra để
đọc công khai lớn tiếng cho nhiều người
nghe, th́ người dịch lại càng phải để ư
đến từ ngữ, âm điệu của câu văn
sao cho nhịp nhàng dễ nghe, dễ đọc và cảm
hóa được ḷng người.
GƯƠNG MẪU HỘI NHẬP
CỦA NGHI THỨC RÔ-MA
Câu mở đầu
Huấn thị số 5 cho thấy nghi thức Rô-ma là gương mẫu quí báu và dụng
cụ hữu hiệu cho việc hội nhập đích
thực : “Re quidem vera licet
affirmari ipsum Ritum romanum jam esse pretiosum exemplum et instrumentum verae
inculturationis.”
Sở dĩ như
vậy v́ nghi thức thời danh đó có khả năng
đáng kể đón nhận cho ḿnh các bản văn, các bài
hát, các cử điệu và nghi thức rút ra từ các
tập tục và nét thần kỳ của nhiều dân
tộc và Hội thánh địa phương Đông
cũng như Tây, để tạo thành một sự duy
nhất hài ḥa và xứng hợp vượt quá ranh giới
của bất cứ miền nào :
“Ritus enim insignis est notabili facultate
sibi assumendi textus, cantus, gestus et ritus a consuetudinibus atque ingenio
diversarum gentium et Ecclesiarum particularium sive Orientis sive Occidentis
deductos, ad aptam et convenientem unitatem, fines quarumvis regionum
excedentem, efficiendam.”
Đặc tính này thật
hiển nhiên trong các lời nguyện có khả năng
vượt lên trên giới hạn của những hoàn
cảnh riêng lẻ và phụ thuộc mà trở thành lời
nguyện của các Ki-tô hữu tại bất cứ
nơi nào hay thời nào : “Haec proprietas praesertim est conspicua
in ejus orationibus quae facultatem praebent primitivorum rerum adjunctorum
limites superandi, ita ut orationes evadant christianorum cujusvis loci atque
aetatis.”
Do đó, gương
mẫu hội nhập của nghi thức Rô-ma hệ
tại khả năng du nhập những nét tinh hoa trong
nền văn hóa của các dân tộc và các Hội thánh địa
phương chứ không phải đem các kinh nguyện
của ḿnh hội nhập vào nhiều nền văn hóa và
các tập tục địa phương như có
người hiểu : “V́ nghi lễ Rô-ma và đặc
biệt là các kinh nguyện đă được hội
nhập vào nhiều nền văn hóa và các tập tục
địa phương.”
Vậy khi chuẩn bị
dịch các sách phụng vụ, “phải hết sức ân
cần lo bảo vệ tính đồng bộ và lối
diễn tả đồng nhất này, không phải như để
bảo toàn một lâu đài lịch sử mà chính là
để biểu dương những thực tại
thần học và mối hiệp thông cũng như sự
hiệp nhất mang tính Hội thánh”.
“Công cuộc hội
nhập mà việc dịch sang các tiếng bản quốc
là một phần, không được coi là con
đường đưa tới những thể loại
mới hay những tổ hợp nghi thức, nhưng
ngược lại, phải nghĩ rằng bất cứ
những thích nghi nào được đưa vào để
đáp ứng các nhu cầu văn hóa và mục vụ
đều là thành phần của nghi thức Rô-ma và ḥa
hợp với nghi thức này.”
“Ritus romani identitas atque
expressio unitaria in praeparandis cunctis translationibus librum liturgicorum
summa diligentia sunt servandae, non quasi quiddam mnemosynum historicum, sed
ut manifestatio realitatum theologicarum, communionis unitatisque ecclesialis.
Opus inculturationis, cujus rei translatio in linguas populares est pars, ideo
ne habeatur quasi via ad nova genera inferendas, contra oportet reputatur quavis
accommodationes, inductas vel familias rituum ut nesessitatibus culturalibus
aut pastoralibus occuratur, partes esse Ritus romanus, eidemque inde harmonice
inserendas.”
Để làm công việc
này, số 42 trong Huấn
thị nêu rơ : “Người dịch phải suy cho kỹ
rằng Lời Chúa loan báo trong Phụng vụ không
đơn thuần là một tài liệu hoàn toàn lịch
sử. Quả thế, bản văn kinh thánh không chỉ
bàn về các nhân vật thời danh và những biến
cố Trong Cựu Ước và Tân Ước mà c̣n nhắc
cả đến các mầu nhiệm cứu độ và
các tín hữu trong thời đại chúng ta cũng như
đời sống của họ nữa.
Phải tuân giữ qui
luật trung thành với bản văn nguyên thủy,
nhưng khi có lời hay kiểu nói nào cho phép lựa
chọn giữa nhiều kiểu dịch có thể khả
thi, th́ phải ra sức chọn kiểu nào khả dĩ
làm cho người nghe nhận ra chính ḿnh và những
đường nét của đời ḿnh một cách
thật sống động, nơi các nhân vật và
biến cố được tŕnh bày trong các bản
văn.”
“Perpendat translator verbum
Dei, in Liturgia nuntiatum, non esse ut documentum quoddam mere historicum.
Textus enim biblicus non modo de praeclaris hominibus et eventis Veteris ac
Novi Testamenti agit, sed de mysteriis quoque salutis, et ad fideles nostrae
aetatis necnon ad eorum vitam repetit.
Servata semper norma fidelitatis
erga textum originalem, cum aliquod verbum vel locutio praebet inter plures
translationis rationes quae fieri possunt, conetur, ut optio illa secum ferat
auditorem seipsum ac lineamenta quaedam suae vitae in personis et eventibus in
textu propositis quam vivide agnoscere.”
Như thế, những
lời trên đây cho thấy rằng phải luôn luôn
giữ luật trung thành với nguyên bản, nhưng là
một sự trung thành ư thức. có chọn lựa, khi từ
ngữ trong bản văn cho phép.
Ngoài ra số 43 trong Huấn thị c̣n nói thêm
rằng mọi kiểu cách chuyển hiện các h́nh ảnh
và cử chỉ của các nhân vật thuộc thiên giới
sang h́nh ảnh nhân giới, hay diễn tả bằng những
danh xưng rơ ràng hay cụ thể, điều rất
thường hay xẩy ra trong ngôn ngữ kinh thánh, những
kiểu cách đó luôn giữ được đầy
đủ ư nghĩa, khi chúng được dịch sát
chữ, như trong ngữ vựng ấn bản Nova Vulgata,
các từ “đi”, “cánh tay”. “ngón tay”, “bộ mặt” của
Thiên Chúa, “xác thịt”, “sừng”, “miệng”, “mầm”,
“viếng thăm”. Những từ như thế, tốt
hơn, không nên diễn nghĩa hay giải thích bằng
những từ thông thường trừu tượng
hơn, hay mơ hồ. Đối với một số
ngữ vựng liên hệ như “linh hồn”, và “thần
trí” được chuyển dịch trong Nova Vulgata,
phải lưu ư đến các nguyên tắc ở trên,
được tŕnh bày trong các số 40-41. V́ vậy, phải
tránh dùng đại danh từ hay từ nào trừu
tượng hơn thay cho những chữ đó, trừ
một vài trường hợp thật là cần thiết.
Thật vậy, nên nhớ rằng có những kiểu nói
dịch sát bằng thường ngữ, được coi
là lạ lùng và v́ thế, khiến người nghe phải
t́m hiểu và tạo dịp cho việc giảng dạy
huấn giáo.”
“Omnes formae quae caelitum
imagines et gesta in humanam figuram fingunt vel denominationibus definitis seu
“concretis” exprimunt, quod saepissime in sermone biblico evenit, modo
nonnumquam vim suam servant, cum ad litteram vertuntur, velut in Novae Vulgatae
editionis vocabula “ambulare”, “brachium”, “digitus”, “manus”, “vultus” Dei,
“caro”, “cornu”, “os”, “semen”, “visitare”, quae vero potius est ne explanentur
aut interpretata reddantur per voces vulgares magis “abstractas” vel vagas. Ad
vocabula quaedam quod attinet, velut ea, quae “anima”, et “spiritus” in Nova
Vulgata transferuntur, cavendum est de principiis supra ad nn 40-41, expositis.
Ideo vitandum est ut pro iis pronomen personale aut verbum magis abstractum potius
habeatur, in hoc, aliquo in casu, stricte necessarium sit. Cogitetur enim
translationem ad litteram factam locutionum, quae mirae animadvertantur in
sermone vulgari, hanc ipsam ob rem audiendi exposcere inquisitionem atque
occasionem dare catechesis tradendae.”
Nghi thức Rô-ma là mẫu
mực cho mọi người tuân theo. Cái hay của mẫu
mực đó là đă đón nhận từ bên ngoài những
ǵ là tinh túy tốt đẹp để làm giầu cho ḿnh,
và tạo được cho ḿnh khả năng thống
nhất và đi tới phổ quát. Nghi thức đó
vẫn c̣n để cho người dịch một
khoảng trống không quá ư chật hẹp, đến
nỗi bóp chết moị sáng kiến và thích nghi cần
thiết, để bản dịch vừa trung thành với
ư lại vừa đẹp về từ.
SỬA ĐỔI VÀ DỊCH LẠI
Lâu lâu các sách phụng
vụ lại thay đổi, hoặc do nhu cầu của
thời đại, hoặc do những lễ mới
phải thêm vào, thí dụ từ sau 1965 đến nay đă
có ba lần thay đổi sách lễ, với những
ấn bản mẫu năm 1971, 1992 và 2002 cùng với
nhiều lễ mới và lời nguyện như lễ Các
Thánh Tử Đạo V.N. v.v…
Huấn thị số 5, đưa ra nguyên tắc sau đây dể
hướng dẫn thực thi công việc này : “Rơ ràng là
các bản dịch phụng vụ ở nhiều nơi
cần được thay đổi lại cho tốt
hơn, nhờ việc chỉnh sửa hay biên soạn
mới. Những chỗ quên sót hay lầm lẫn mà một
số bản dịch sang thường ngữ cho tới
nay mắc phải, đă thực sự ngăn cản
bước tiến cần thiết trong việc hội
nhập, đặc biệt liên hệ tới một
số ngôn ngữ ; do đó, khả năng đặt
nền móng cho việc canh tân đầy đủ hơn,
lành mạnh hơn và đích thực hơn của Hội
thánh bị ngăn trở.”. “Attamen perspectum est translationes textuum liturgicorum
variis in locis indigere mutatione in melius per emendationem vel per novam
redactionem. Omissiones, aut errores, quibus quaedam translationes in linguas
populares usque adhuc sunt affectae, impediverunt reapse debitam
inculturationis progressionem, maxime quod ad quasdam attinet linguas, unde
factum est ut Ecclesiae praecluderetur capacitas fundamenta jacendi plenioris,
sanioris veriorisque instaurationis.” (Liturgiam authenticam số 6)
Theo bản văn trên th́
cần thay đổi cho tốt hơn. Sự tốt
hơn này (nghĩa là đúng hơn, hay hơn và đẹp
hơn) có thể được coi là lư do cần thiết
và chính đáng v́ những chỗ quên sót và lầm lẫn
trong bản văn dịch trước.
Số 20 trong Huấn thị nhấn
mạnh đến việc phải dịch sát, nghĩa là
không thêm, không bớt, cũng không thêu dệt hay nói ṿng vo,
nhưng vẫn không quên chua thêm “chừng nào có thể” (quantum fieri potest). Đúng
thế. Nhưng Huấn thị
cũng cho phép được dùng các từ, cú pháp hay
lối hành văn giúp cho bản văn dễ hiểu và
hợp với cách diễn tả tự nhiên của
từng ngôn ngữ, đồng thời phù hợp với
đặc tính và nét độc
đáo của ngôn ngữ đó một cách chừng mực và khôn ngoan
:
“… Oportet ut quantum fieri potest, integerrime et
peraccurate transferatur, nullis scilicet interpositis omissionibus vel
addimentis, quod argumentum rerum, nec paraphrasis
aut glossis inductis ; accommodationes ad proprietates seu
indolem variorum sermonum popularium oportet sint sobriae et caute
efficiantur.” (LA số 20)
Ở đây có thể
hiểu sát là sát ư, sát nội dung, chừng nào có thể, tùy
theo đặc tính và nét độc đáo của từng
ngôn ngữ.
Cuối cùng, văn từ
trong bản dịch phụng vụ phải trang trọng và
xứng đáng để chúc tụng và tôn thờ Thiên Chúa
như số 25 trong Huấn
thị nói : “Per verba laudis et adorationis, quae reverentiam et
animum gratum fovent erga Dei majestatem ejusque potentiam, misericordiam,
atque naturam transcendentem, translationes fami ac siti Dei vivi congruent,
quas populus aetatis nostrae experitur, dum simul ad dignitatem et
pulchritudinem ipsius celebrationis liturgicae conferunt”, hầu
phụng vụ được cử hành cho thật trang
trọng và đẹp mắt.
Tuy nhiên, để
người tham dự, dù không học thức bao nhiêu có
thể hiểu được nội dung của chính
văn, bản dịch nên dùng những từ dễ
hiểu mà vẫn tôn trọng vẻ trang trọng, nét thanh
tú cũng như nghĩa lư của bản văn :
“Ut ea, quae in textu originali
continentur etiam fidelibus peculiari institutione intellectuali carentibus
pateant et ab iis intelligantur, translationibus id sit proprium, ut quibusdam
verbis exprimantur, ad intelligentiam accommodatis, quae tamen simul
dignitatem, decorem atque accuratum augmentum doctrinale hujusmodi textuum
servent.” (LA 25)
Xem đấy, đủ
biết Ṭa thánh rất đ̣i hỏi đối với công
việc phiên dịch các bản văn phụng vụ. V́
thế mới có Huấn thị dành riêng cho vấn
đề này mang tên Huấn
thị số 5 để thi hành nghiêm chỉnh Hiến
chế về Phụng vụ đúng đắn của Công
đồng Va-ti-ca-nô II (Instructio Quinta ad executionem Constitutionis
Concilii Vaticani de Sacra Liturgia recta ordinanda).
Huấn thị này ban hành năm 2001 tại Rô-ma,
gồm 133 số, rất đ̣i hỏi chặt chẽ
nhưng cũng rất cởi mở thông thoáng. Huấn thị đ̣i
phải dịch đúng, dịch sát, nhưng cũng mở
ra những cửa ngỏ cho bản dịch đúng với
nguyên văn, lại thích hợp với đặc tính và nét
độc đáo của từng ngôn ngữ và nhấn
mạnh đến việc sửa đổi sao cho hay
hơn, đúng hơn, khi thấy có những sai sót lầm
lẫn trong bản dịch cũ.
Bởi vậy, khi
đọc Huấn thị
này, độc giả không nên chỉ nh́n thấy ở
đây toàn những hạn chế và bó buộc, mà c̣n
nhận ra những chỉ dẫn tích cực cho
bước đường tiến tới một bản
dịch, vừa đúng, vừa sát lại vừa hay
nữa.
CHA HAY CHÚA ?
Cha hay Chúa đều được cả, v́
người công giáo vẫn gọi Thiên Chúa là Cha và xưng với
Người là Chúa. Có
điều phải tùy chỗ mà gọi hay xưng với
Người cho thuận hợp. B́nh thường
đối với Ngôi I trong Ba Ngôi Thiên Chúa, người ta
quen gọi và xưng với Người là Cha, đúng với danh xưng của Người
là Chúa Cha. Đối với Ngôi II, người ta vẫn
gọi và xưng với Người là Chúa : Chúa Giê-su Ki-tô. C̣n đối với Ngôi III, rơ
rệt và giản dị hơn, bao giờ người ta
cũng gọi và xưng với Người là Chúa Thánh
Thần. Chỉ có từ Chúa
là đôi khi có thể lẫn lộn mà hiểu cả
về Chúa Cha lẫn Chúa Con.
Vậy,
để phân biệt cho rơ, do thói quen và dường như
có một sự thoả thuận ngầm không ai bảo ai,
khi nói về Ba Ngôi hay Chúa Ba Ngôi, người ta quen dùng
từ Thiên Chúa. C̣n riêng về mỗi Ngôi th́ như nói ở
trên, Cha là Chúa Cha, Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô, Thánh
Thần là Chúa Thánh Thần.
Huấn thị số 5,
cũng đề cập đến vấn đề này,
khi nói về những h́nh thức thân thưa với Thiên
Chúa mà dùng những từ như Domine, Deus,
Omnipotens aeterne Deus, Pater. Số này nói là bản
văn gốc dùng nhiều từ khác nhau th́ trong bản
văn dịch, chừng nào có thể,
cũng phải dùng những từ khác nhau cho tương
xứng. Ví dụ, trong bản dịch chỉ dùng một
từ để dịch các đông từ La-tinh khác nhau
như “satiari”, “sumere”, “vegetari” và “pasci”, hay những danh
từ như “caritas”, “dilectio”, hoặc các từ khác như
“anima”, “animus”, “cor”, “mens” và “spiritus”, th́ việc lặp
lại những từ ấy có thể làm cho bản văn
ra nhàm chán và nhạt nhẽo. Cũng vậy, khi dịch
những từ xưng hô với Chúa
như “Domine”, “Deus”, “Omnipotens aeterne Deus”,
“Pater” hay những từ khác bày tỏ sự van nài mà
dịch thiếu th́ có thể làm lu mờ kiểu nói phong
phú và đặc biệt trong bản văn la tinh
người ta dùng để nói lên mối liên hệ
giữa các tín hữu và Thiên Chúa.
“Ceterum
varietati vocabulorum in textu originali occurrenti respondeat, quantum fieri potest, varietas, qua, translationes sint praeditae. Exempli gratia, usus ejusdem
vocabulari vulgaris, quo variae formae verborum latinorum reddantur, sicut
“satiari, “sumere”, “vegetari” et pasci ex una parte, aut nomina “caritas” ac
“dilectio” ex altera, aut item vocabula “anima”, “animus”, “cor”, “mens” et
spiritus, cum iterantur, textum potest extenuare ac tritum efficere. Item
defectus in translatione variorum modorum alloquendi, velut “Domine”, “Deus”, Omnipotens aeterne
Deus”, “Pater” et cetera, aut
variorum verborum supplicationem exprimentium, potest translationem efficere
taediosam atque obscurare modum locuplem ac speciosum, quo in textu latino
relatio inter fideles ac Deum significatur.” (LA 51)
Tuy
nhiên, đến số 53, Huấn thị lại nói :
“Mỗi lần một từ La-tinh nào có ư nghĩa quan
trọng mà khó chuyển sang ngôn ngữ hiện hành trong
thời đại chúng ta (như các từ “munus”, “famulus”,
“consubstantialis”, “propitius”, etc.), th́ trong bản dịch có
thể dùng những kiểu khác, hoặc một từ hay
nhiều từ kết hợp, hoặc đặt ra
một từ mới có thể là thích hợp, hay chuyển
đổi bằng một kiểu viết khác đối
chiếu với nguyên bản, (xem số 21 ở trên)
hoặc đưa vào một từ đă có nhiều
nghĩa.”
“Quotiescumque
vocabulum aliquod latinum significationem habet gravem, quam difficile est in
linguam aetate nostra vigentem reddere (veluti verba “munus”, “famulus”,
“consubstantialis”, “propitius”, in translatione adhiberi possunt variae
rationes, sive eo quod vocabulum uno verbo sive pluribus conjunctis redditur,
sive ut vocabulum novum condatur, fortasse aptatum aut transcriptum diverso
scribendi modo, respectu habito textus primogenii (cf supra n.21), sive
inducendo vocabulum, quod jam habitur pluribus sensibus praeditum.” (LA 53)
Các
từ Pater, Dominus, Deus, thường được dùng
trong các kinh Tạ Ơn. Trong các kinh này, các từ ấy khi
th́ nói với Chúa Cha, khi th́ nói với Chúa Giê-su Ki-tô.
Để phân biệt các Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, thiết
tưởng nên dùng hai từ Cha
và Chúa. Khi có từ Cha không th́ hiểu về Chúa
Cha, khi có từ Chúa không th́
hiểu về Chúa Giê-su Ki-tô, dù trong bản văn la tinh dùng
chữ Dominus hay Deus, nhưng theo nghĩa th́ phải phân
biệt là Chúa Cha hay Chúa Con. Ví dụ : trong lời tung hô sau
Truyền phép, Đức Giê-su được xưng
tụng là Chúa, rồi
liền sau đó, trong kinh tạ Ơn, lại xưng
với Chúa Cha là Chúa nữa.
Điều ấy có thể làm cho người ta lẫn
lộn, khó phân biệt Chúa Cha và Chúa Con ở hai nơi. V́
vậy, thiết tưởng ở trên xưng Chúa, ở dưới xưng Cha là thích hợp. Về cách
xưng hô với Thiên Chúa, trong bản chú thích Bản
dịch Nghi Thức Thánh Lễ của Ban Phụng Tự
năm 1992 có ghi như sau :
“Trong
các kinh tạ Ơn, bản la tinh xưng với Thiên Chúa khi
th́ “Cha” (Pater), khi th́ “Chúa” (Dominus), khi lại “Thiên Chúa” (Deus).
Trong một kinh đọc liên tục mà thay đổi cách
xưng hô như vậy, kể cũng lạ tai, chẳng
khác nào khi nói chuyện, một tín hữu xưng với linh
mục khi th́ “linh mục”, khi th́ lại “cha”. V́ cũng ư
thức như vậy mà một số bản dịch
Phụng vụ nước ngoài như Ư, Bồ-đào-nha
cũng uyển chuyển trong cách xưng hô này.
Thay
đổi cách xưng hô trong một kinh như vậy
lại càng chói tai trong tiếng Việt.. Trong tiếng
La-tinh cũng như trong đa số các tiếng khác
(kể cả tiếng Trung Hoa) th́ sau khi xưng “Cha” (Pater)
chẳng hạn, văn phạm các tiếng ấy chỉ
dùng đại từ thay thế hoặc hiểu ngầm.
Ví dụ trong kinh Tạ Ơn IV, lời Tiền Tụng
xưng Pater sancte, nhưng rồi đại từ Tibi, Te
thay thế Pater, hoặc et fecisti (danh từ Pater hoặc
đại từ Tu được hiểu ngầm
hoặc diễn tả trong đuôi động từ). Trong
tiếng Việt, chúng ta không thể làm như vậy mà
phải nói ra, lặp lại. “Lạy Cha chí thánh, tạ
ơn Cha, tôn vinh Cha, Cha là Cha, Cha c̣n…” Mà nếu trong một
kinh, chúng ta nghe “Cha, Cha, Cha” rồi “Chúa, Chúa, Chúa” th́ đă có
người nói : “Bốn Cha, ba Chúa”. Điều ấy lại
càng chói tai, v́ nội dung t́nh cảm của hai từ Cha và
Chúa khác nhau : con người đang thưa với Thiên Chúa
như con thưa với cha, rồi bỗng nhiên, con
người ấy lại thưa với Thiên Chúa như
người xa lạ.
Để
giải quyết những thắc mắc ấy và dựa
theo cách dịch của những Giáo Hội Công Giáo một
số nước khác Ủy Ban đề nghị : trong các
kinh Tạ Ơn, chúng ta xưng hô với Thiên Chúa là Cha, v́
một đôi lư do sau đây :
– Khi
đọc các lời nguyện, trong thánh lễ cũng
như ngoài thánh lễ, chúng ta đă kêu Thiên Chúa là Chúa
nhiều rồi.
–
Hơn nữa, theo tinh thần kinh Lạy Cha sẽ
đọc sau kinh Tạ Ơn, danh xưng “Cha” giúp
người tín hữu nhớ lại rằng nhờ Chúa
Ki-tô, chúng ta được diễm phúc gọi Thiên Chúa là
Cha, và rằng cùng Chúa Ki-tô, chúng ta dâng lời nguyện và
lễ tế lên Chúa Cha. Sau hết và cụ thể hơn,
Thiên Chúa mà chúng ta xưng hô trong các kinh Tạ Ơn là Chúa Cha
: nhờ Chúa Ki-tô là Chúa Con, chúng ta cầu xin Chúa Cha
đổ ơn Chúa Thánh Thần xuống để thánh hóa
lễ phẩm. Do đó, chúng ta nên nói rơ để mọi
người dễ ư thức trong phần quan trọng này
của Thánh lễ.” (Chú thích bản dịch Nghi thức
Thánh lễ 1992 của Ủy Ban Phụng Tự trang 88-89)
Như vậy, gọi hay
xưng hô với Thiên Chúa là Cha
hay Chúa đều
được cả. Có điều, như đă nói ở
trên, là nên phân biệt (như trong các kinh Tạ Ơn
chẳng hạn), để việc xưng hô với
từng Ngôi Vị được rơ ràng và do đấy,
biểu lộ được mức độ t́nh cảm
và ḷng trọng kính phải có trong mỗi trường
hợp.
PHÊ CHUẨN VÀ CHUẨN NHẬN
Xin
tạm dùng hai từ trên để dịch từ approbatio và từ recognitio trong
tiếng la tinh. Những từ la tinh đó, Huấn
thị số 5 dùng để chỉ việc các bản
dịch phụng vụ cần được Hội
Đồng Giám Mục một nước hay một
miền phê chuẩn rồi sau đó gửi sang Bộ
Phụng Tự bên Ṭa thánh Rô-ma xin chuẩn nhận. Công
việc này được thi hành nghiêm túc, chứng tỏ
một sự đ̣i hỏi gắt gao. Sau đây là
những điều chính yếu được Huấn
thị tŕnh bày trong các số từ 79-82.
Việc
phê chuẩn các bản văn phụng vụ hoặc
dứt khoát, hoặc tạm thời hay để thử
nghiệm, phải được diễn ra qua chỉ
thị. Để công việc này được thực
thi cách hợp pháp, phải giữ những điều sau
đây :
a)
Muốn đưa ra những chỉ thị hợp pháp,
cần phải có hai phần ba phiều kín của tất
cả các vị trong Hội Đồng Giám Mục
được hưởng quyền bỏ phiếu
quyết định.
b)
Tất cả các bản văn được Ṭa thánh phê
chuẩn, phải soạn làm hai bản, có chữ kư của
Chủ tịch và Thư kư Hội Đồng và con dấu
thích hợp, gửi về Bộ Phụng Tự và Kỷ
luật Bí tích. Các bản văn này phải bao gồm :
i) tên các Giám mục hay các
vị đồng hàng do đặc quyền, hiện
diện trong phiên họp,
ii) bản tường
tŕnh công việc đă làm, trong đó phải bao gồm
kết quả các phiếu liên quan đến từng
chỉ thị, thêm số phiếu thuận, nghịch và
trắng,
c) hai
tập bản văn phụng vụ soạn bằng
thường ngữ phải được gửi đi,
chừng nào có thể. Cũng bản văn này có thể
được gửi bằng đĩa vi tính ;
d) trong
bản tường tŕnh đặc biệt, những
điều sau đây phải được khai báo rơ ràng :
i) phương
pháp hay tiêu chuẩn
được dựa theo trong việc phiên dịch,
ii) danh sách những
người tham dự trong các cấp bậc làm việc
khác nhau, cùng với lời ghi chú vắn tắt liên quan
đến tŕnh độ học vấn và khả năng chưyên
môn của mỗi người trong các vị đó,
iii) những thay
đổi có khi đă được đưa vào, sánh
với bản dịch trước, trong sách phụng
vụ đă ấn hành, phải được giải
thích rơ ràng tại sao đă có những thay đổi đó.
“Approbatio
textuum liturgicorum, sive definitiva, sive ad interim seu ad experimentum,
fieri debet per decretum. Ut hoc patretur, haec, quae sequntur, oportet
observentur. [54]
a) Ad
legitima ferenda decreta, duae ex tribus suffragiorum secretorum partes
requiruntur, ab omnibus iis qui in Conferentia Episcoporum jure fruuntur
suffragium deliberativum ferendi.
b) Omnia
acta ab Apostolica Sede probanda, in duplici exemplari exarata, a Praeside et
Secretario Conferentiae subscripta sigilloque debite munita, ad Congregationem
de Cultu divino et Disciplina Sacramentorum sunt transmittenda. Illis actis
contineantur :
i)
nomina Episcoporum vel jure aequiparatorum, qui adunationi interfuerunt,
ii)
relatio de rebus actis, qua contineri debet exitus suffragationum, ad singula
decreta pertinentium, addito numero faventium, adversantium et se suffragii
latione abstinentium.
c) Duo
exemplaria textuum liturgicorum vulgari sermone apparatorum mittantur ; quantum
fieri potest, idem textus praebeatur etiam per microdiscum instrumenti
computatorii:
d) in
relatione peculiari, ea quae sequuntur, dilucide declarentur : [55]
i)
rationes seu criteria in opere translationis servata,
ii)
elenchus personarum in diversis laboris gradibus participantium, una cum brevi
nota spectante ad ingenii qualitatem et peritiam uniuscujusque earum.
iii)
mutationes fortasse inductae respectu prioris translationis ejusdem editionis
libri liturgici distincte significentur una cum causis, cur mutationes sint
factae,
iv)
expositio cujusvis mutationis inductae circa materiam editionis typicae latinae
una cum causis, ob quas id necessarium fuerit et una cum mentione prioris
licentiae a Sede Apostolica concessae ad hujusmodi mutationem inducendam.” (LA
79)
Việc
xin Ṭa thánh chuẩn nhận tất cả các bản
dịch bản văn phụng vụ là nhằm tạo cho
bản văn sự an toàn cần
thiết, hàm nghĩa rằng bản văn
đó là đích thật và phù
hợp với các bản gốc, lại bày tỏ cũng như thực hiện
mối dây hiệp thông thật sự giữa người
kế vị thánh Phê-rô với các anh em trong hàng Giám mục.
Hơn nữa, việc chuẩn nhận này không phải
chỉ thuần túy là một h́nh thức, mà c̣n là hành vi
thực hành quyền cai trị tuyệt đối cần
thiết (thiếu vắng quyền này, việc làm của
Hội Đồng Giám mục rât ít có hiệu lực pháp
lư), nhờ vậy, có thể đưa đến những
thay đổi, kể cả những thay đổi
cốt yếu. Bởi thế, không được ấn
hành bản phụng vụ nào, dịch hay soạn ra gần
đây cho chủ tế hay thông thuờng cho giáo dân dùng mà
thiếu sự chuẩn nhận. V́ bao giờ luật
cầu nguyện cũng phải phù hợp với luật
tin, cũng như biểu lộ và củng cố ḷng tin
của dân Ki-tô giáo, nên các bản dịch phụng vụ
không thể xứng đáng với Thiên Chúa, nếu không
trung thành chuyển tải sự phong phú của đạo
lư công giáo, từ bản gốc sang bản dịch
thường ngữ, sao cho ngôn ngữ thánh thiêng thích
hợp với nội dung tín lư nó chứa đựng. Ngoài
ra, phải tuân hành nguyên tắc này là bất kỳ Hội
thánh địa phương nào cũng phải đồng
thuận với Hội thánh toàn cầu, không những
về đạo lư đức tin và dấu chỉ bí tích,
mà c̣n về các lề thói được khắp nơi
chấp nhận, do truyền thống mang tính tông truyền
và liên tục để lại. Chính v́ thế, sự
chuẩn nhận phải có của Ṭa thánh là nhằm canh
chừng cho chính các bản dịch cũng như những
thay đổi chính đáng được đưa vào
chẳng những không làm phương hại đến
sự hợp nhất của dân Thiên Chúa mà c̣n luôn luôn
phụ trợ nữa.
“Usus
recognitionem a Sede Apostolica impetrandi pro omnibus textuum liturgicorum [56]
necessariam praestat securitatem, significantem translationem esse authenticam
et cum textibus originalibus convenire, et verum vinculum exprimit atque
efficit communionis inter beati Petri successorem et fratres in Episcopatu.
Quae insuper recognitio non est tantum formalitas quaedam, sed actus potestatis
regiminis, absolute necessarius (quo absente, actus Conferentiae Episcoporum vi
legis minime gaudet) et quo imponi possunt modificationes, etiam substantiales.
[57] Quapropter nullos textus liturgicos translatos aut recenter compositos
typis imprimi licet quibus celebrantes aut generatim populus utantur, si
recognitio deest. Cum semper oporteat ut lex orandi cum lege credendi concordet
ac idem christiani populi manifestet atque corroboret, translationes liturgicae
Deo dignae esse non poterunt nisi ubertatem doctrinae catholicae de textu
originali in versionem vulgarem fideliter transferant, ita ut sermo sacer
accommodetur ad rem dogmaticam, quam continet. [58] Observandum insuper est
principium, juxta quod unaquaeque Ecclesia particularis cum Ecclesia universali
concordare, debet non solum quoad fidei doctrinam et signa sacramentalia, sed
etiam quoad usus universaliter acceptos ab apostolica et continua traditione ;
[59] ideoque Apostolicae Sedis debita recognitio spectat ad invigilandum, ut
translationes ipsae, necnon legitime quaedam varietates in eas inductae, nedum
populi Dei unitati noceant, ei potius semper inserviant.(LA 80)
Sự
chuẩn nhận do Ṭa thánh ban trong ấn bản, phải
được chỉ rơ qua câu “concordat cum originali” (hợp
với bản gốc) kèm theo chữ kư của Chủ
tịch Ủy Ban Phụng Tự của Hội
Đồng Giám Mục, rồi chữ “imprimatur”
(được in) của Chủ tịch Hội
Đồng đó kư nhận. Ngoài ra, hai bản của
bất cứ ấn bản nào cũng phải
được gửi về Bộ Phụng Tự và
Kỷ luật Bí tích.
“Recognitio
ab Apostolica Sede concessa in editione typis excussa indicari debet una cum
sententia “concordat cum originali”, cui Praeses Commissionis liturgicae
Conferentiae Episcoporum subscripserit nec sine vocabulo “imprimatur”, a
Praeside ejusdem Conferentiae subnotato.(LA 81) [61]. Praeterea duo exemplaria
cujusvis typis impressae mittantur ad Congregationem de Cultu Divino et
Disciplina Sacramentorum. [62] (LA 81)
Bất
cứ sự thay đổi nào trong sách phụng vụ
được Hội Đồng phê chuẩn với
sự chuẩn nhận của Ṭa thánh, nhằm chọn
lựa các bản văn lấy trong các sách phụng vụ
đă in, hay thay đổi cách xếp đặt các bản
văn, phải tiến hành theo cách thế đă tŕnh bày
ở trên, được qui định trong số 79
cũng như theo các chỉ định được
tŕnh bày trong số 22. Bất kỳ cách xếp đặt
nào khác trong những trường hợp đặc
biệt, chỉ được thi hành, nếu đă
được các Qui định của Hội Đồng
Giám Mục ưng y, hay luật tương đồng
của Ṭa thánh phê chuẩn.
“Quaevis
mutatio in libro liturgico, a Conferentia Episcoporum jam approbato cum
subsecuta recognitione Apostolicae Sedis, spectans ad selectionem textuum,
fieri debet secundum modum procedendo, supra n.79 statutum, ratione etiam
habita praescriptionum supra ad n.22 expositarum. Quaelibet alia ratio
procedendi in peculiaribus rerum adjunctis adhiberi potest solummodo, si per
Statuta Conferentiae Episcoporum aut per aequalem legislationem, a Sede
Apostolica approbatam, ea sint sancita. [63]
Xem
đấy đủ biết công việc phiên dịch các
sách phụng vụ phải tiến hành thận trọng
như thế nào, cả về phía người dịch
lẫn cơ quan phê chuẩn và chuẩn nhận. Do vậy,
công việc này đ̣i buộc các bên liên hệ phải
hết sức lưu tâm và thi hành với sự đắn
đo cân nhắc, cũng như khả năng chuyên môn
tương ứng.
Saigon, ngày 14 tháng 07 năm 2006
Lm. An-rê Đỗ Xuân Quế OP.