Ý Nghĩa Các Điệp Ca Thánh Ca Tin Mừng từ ngày 17 -
23/12
Alexis
Luzi, Capuchin
Phần
thứ hai của Mùa Vọng bắt đầu từ ngày 17 tháng 12. Lịch phụng vụ mới gọi đó là
“Late Advent.” Sau khi mở ra một nhãn quan của Mùa Vọng hướng về việc sẽ
đến trong tương lai của Đức Ki tô trong phần thứ nhất, phần thứ hai của phụng
vụ nhìn lại việc sinh ra của Đức Giêsu lịch sử tại Belem. Tin Mừng dành cho
ngày 17 tháng 12 là chuỗi gia phả dài khởi đầu với Abraham (“cha của những
người tin” – St 17,5). Bản gia phả ghi lại: “Abraham sinh Ixaac…” gia phả tiếp
tục qua 42 thế hệ trước khi nói đến : “Giuse, chồng của bà Maria, bởi người Đức
Kitô đã sinh ra” ( Mt 1,1-17).
Tuần Bát
nhật trước lễ giáng sinh khởi đầu từ đây. Thời giờ đã muộn, và giáo hội cố gắng
trình bày những gì cần thiết để chuẩn bị cho ngày sinh của Chúa, qua 7 ngày
trước lễ giáng sinh, Con Trẻ sinh bởi Đức Maria được trao tặng các tước hiệu
Thiên Sai đáng khâm phục qua các lời tung hô tuyệt diệu.
Bẩy
tước hiệu sắp theo thứ tự, dường như đã được phát sinh tại Roma từ thế kỷ VIII.
Tại Đức và Pháp, hai lời tung hô được thêm vào 7 lời tung hô nguyên thủy, đưa
con số lên tới 12.
Trong
các giờ kinh chiều trọng thể, các Đan viện và nhà thờ chính tòa sẽ vang lên
những lời tung hô cổ kính và đáng trân trọng cho tới vọng giáng sinh: “Ôi Sự
Khôn Ngoan” (17 tháng 12); “Ôi lạy Đức Chúa “ (18 tháng 12); “Ôi gốc tổ Giêsê”
(ngày 19 tháng 12); “ Ôi chìa khóa nhà Đavit “ (20 tháng 12 ); “ Ôi Hừng
đông” ngày 21 tháng 12); “Ôi lạy Đức Vua muôn dân nước” (ngày 22
tháng 12); “Ôi lạy Đấng Emmanuel” (ngày 23 tháng 12). Một lời đáng ghi nhớ cổ
xưa đã được trích ra từ lời mở đầu bằng tiếng La tinh theo thứ tự các lời tung
hô: “Tomorrow I shall be !” “Ngày mai Ta sẽ thực hiện”.
Các lời
tung hô có nguồn gốc căn bản trong nền văn chương ngôn sứ và khôn ngoan của
thánh kinh cũng là một tài liệu biên soạn đã bị thất lạc của một nguồn tư liệu
kinh thánh khác. Điều đó làm cho nó khó hiểu theo một nghĩa nào đó. Một khi đã
“hiểu ra” ý nghĩa của nó ta có thể dễ dàng nắm bắt, và chúng lại được lập lại
vào năm sau.
Tất cả
các lời tung hô đều nói : “ Ôi!” và điều đó làm cho dễ hiểu ý nghĩa mà mùa
giáng sinh muốn nói đến. Đó là “hơi thở của đức tin”, “sự hiểu biết của niềm
tin.” “Ôi” là điều chúng ta nói khi không đủ lời để diễn tà điều ta cảm nhận
được. Tất cả các lời tung hô đều nói : “Xin hãy đến!” “ Xin hãy đến!” là lời
cầu nguyện đẹp nhất trong Mùa Vọng, vì nó diễn tả sự trống rỗng bên trong.
Chúng ta kêu cứu để được lấp đầy giống như những cành thông trần trụi trên cây
noel vậy.
Ngày 17
tháng 12
O
Sapientia - O Wisdom
“O
wisdom who proceeds from the mouth of the Most High, ordering all
creation firmly but gently, come and show us the right path to
take.”
“Lạy
Ngôi Lời khôn ngoan của Đấng thượng trí, Ngài an bài mọi sự, mạnh mẽ nhưng dịu
dàng. Xin đến mà chỉ dạy đường khôn ngoan cho chúng con.”
Văn
chương khôn ngoan của cựu ước nhân hình hóa sự khôn ngoan thành “Bà Chúa Khôn
Ngoan”, “đến từ miệng của Đấng Tối Cao”, và Đấng “chăm lo trong nơi cực thánh”
(Kn 24, 3.10).
“Ta
hiện diện bên Người như tay thợ cả.
Ngày
ngày ta là niềm vui của Người, trước mặt Người, ta không ngớt vui chơi” (Cn
8, 30).
Vào
ngày thứ nhất của tuần Bát nhật trước lễ giáng sinh, chúng ta là những người
thuộc về thời tân ước cũng nói về Sự Khôn Ngoan như một nhân vật trong lời tung
hô: “Ôi Sự Khôn Ngoan”; “ Ôi Bà Chúa Khôn Ngoan!” Sự khôn ngoan này phát xuất
từ lời “tự miệng Đấng Tối Cao “ (Kn 24, 3) tương tự như trong lời tiền từ của
tin mừng thánh Gioan :
“Lúc
khởi đầu đã có Lời.
Lời vẫn
hướng về Thiên Chúa,
và Lời
là Thiên Chúa” (Ga 1,1).
Sự khôn
ngoan này “điều khiển mọi tạo vật cách mạnh mẽ nhưng dịu dàng.” (Kn 8,1). Thánh
Gioan cũng ghi lại :
“Nhờ
Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành”
(Ga
1,3).
“Phát
xuất từ miệng Đấng Tối Cao”, sự khôn ngoan này được sử dụng trong kinh tin kính
cổ xưa, tuyên xưng Chúa Con “xuất phát” từ Chúa Cha, và được thờ lạy và tôn
vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Sự Khôn
Ngoan không làm cho chúng ta thông minh hay giỏi dang hơn, nhưng làm cho chúng
ta trở nên khôn ngoan.
Lời
tung hô kết thúc với lời nài xin của Mùa vọng: “Xin hãy đến !” Hỡi mầm non từ
gốc Giêsê, “Đấng mà Thần Trí khôn ngoan sẽ ngự lại trên Người...” (Is 11, 2).
Hãy đến, Con của Đức Maria, Đấng “lớn lên trong sự khôn ngoan và tuổi tác trước
mặt Thiên Chúa…” (Lc 2, 52). Hãy đến, “ Con Trẻ sẽ dẫn dắt họ.” (Is 11, 6) và
“Xin chỉ cho chúng con bước đi trong đường ngay nẻo chính.”
Ngày 18
tháng 12
O
Adonai – O My Lord
“O
Adonai and leader of the house of Israel, who appeared to Moses
in the burning bush and gave him the Law on Sinai, come and
redeem us in your outstretched arms.”
“Lạy
Chúa là Thủ Lãnh nhà It-ra-el. Ngài đã ban lề luật cho Môsê trên núi Xi-nai.
Xin ngự đến mà ra tay cứu chuộc loài người!”
Đấng đã
trở thành con trẻ Giê-su đã hiện diện trong bụi gai khi Thiên Chúa phán bảo
Môsê rằng : Danh Ngài là “Giavê” (x. Xh 3, 2). Người cũng hiện diện khi Thiên
Chúa trao ban lề luật cho Môsê trên núi Xi-nai (Xh 6, 6). Đấng được sinh ra bởi
Đức Maria trong thời gian cũng chính là Đấng “đã sinh ra bởi Chúa Cha từ trước
muôn thuở” (Kinh tin Kính Nicea).
Đối với
Người Con được sinh ra trong thời gian, lời tung hô tặng cho danh hiệu của
Thiên Chúa hằng cửu. Không phải thực Danh của Thiên Chúa là “Giavê” (“I am”),
không phải bốn mẫu tự thánh trong tiếng Do Thái nghĩa là Yahweh. Nhưng danh
được gọi cách tinh tế là “Adonai” (“My Lord”). Lòng tôn kính của người Israel
đối với Danh của Thiên Chúa không bao giờ được phát âm nhưng luôn luôn sử dụng
Danh Chúa cách tế nhị. Mỗi năm chỉ được nhắc đến Danh Giavê một lần: Đó là vào
ngày lễ Xá tội khi vị thượng tế bước vào nơi thánh, rảy máu trên nắp xá tội rồi
kêu cầu Danh “Giavê”. Sau đó Danh Thánh lại được đưa vào thinh lặng cho tới năm
sau.
Nhưng
khi Con Trẻ trưởng thành, chính Ngài đã nghe công bố không chỉ danh “tinh tế”
của Thiên Chúa, nhưng là thực danh của Thiên Chúa “Giavê”. Một lần kia Chúa
Giêsu đề xuất vấn đề này trong đền thờ. Người nói với dân chúng rằng, bất cứ ai
nghe lời Người sẽ không bao giờ phải nếm sự chết. Vào lúc này Chúa Giêsu đã trả
lời các kinh sư một cách khôn ngoan, tinh tế: “Cha các ông là Abraham
đã vui mừng vì thấy ngày của Ta; ông đã thấy và đã vui mừng” (Ga 8,
48-59).
Abraham
là vị khởi đầu một gia phả rất dài trải qua 42 thế hệ trước khi kết thúc:
“Giuse, chồng bà Maria, bởi Bà mà Đức Giêsu đã sinh ra” (Mt 1,1- 16), một gia
phả dài khiến không ai có can đảm đọc toàn thể gia phả ngoài phụng vụ. Làm sao
mà Abraham đã thấy ngày của Đức Giêsu khi Người mới được khoảng 50 tuổi (x. Ga
8,57), Người kết thúc gia phả ấy 2000 năm sau? Làm sao mà các ngài có thể nhìn
thấy nhau?
Có một
câu trả lời tuyệt vời từ miệng Chúa Giêsu: “Tôi bảo thật các ông, trước
khi có Abraham đã có Tôi” (I am YAHWEH!). Lời xác nhận này của bản
tính thần linh của Người đã làm dân chúng kinh ngạc. Nhân cơ hội đó họ đã lượm
đá để ném Người (Ga 8,59), bởi vì “ông chỉ là người mà lại
dám xưng mình là Thiên Chúa!” (Ga 10, 33), “Nhưng Đức Giêsu ẩn
mình đi và ra khỏi đền thờ.” (Ga 8,59)
Lời
tung hô này kết thúc với câu : “Xin hãy đến !” “Come!”. “Xin đến và cứu độ
chúng con bằng cánh tay hùng mạnh của Ngài”. Như Chúa Giêsu đã tự ẩn mình đi,
thần tính của Người cũng ẩn giấu trong bản tính nhân loại. Giavê hằng hữu và
quyền năng ẩn giấu trong một trẻ thơ. Thánh Irênê dùng cách diễn tả độc đáo khi
viết : “Người đã dang cánh tay khi chịu đau khổ trong cuộc Khổ nạn của Người”.
Trong thế kỷ thứ III lời đó đã được đưa vào kinh nguyện Thánh Thể của thánh
Hippôlitô và ngày nay chúng ta diễn tả ý nghĩa đó trong sách lễ Roma của công
đồng Vatican II đã được sửa đổi: “Người đã dang tay trên thập giá, khai tử cho
thần chết và mặc khải sự phục sinh.” (Chuẩn bị kinh nguyện Thánh Thể 2). Hình
tượng của Adonai không thể diễn tả được: Giavê đang nằm trong máng cỏ với cánh
tay Hài nhi đã dang ra để cứu chuộc chúng ta. Ơn cứu độ khởi đầu là một “nụ hôn
của Hài Nhi” đến từ trời cao.
Ngày 19
tháng 12
O
Radix Jesse – O Shoot from Jesse
“O
shoot and sprout from the stump of Jesse, banner and emblem for all
peoples, before Whom all kings fall silent, and all the Gentiles bow low, come and
do not delay but hurry to save us.”
“Lạy
Đức Ki tô là mầm non từ gốc tổ Giêsê, Ngài chiêu tập muôn dân dưới hiệu kỳ. Xin
đến mà giải thoát, đừng trì hoãn làm chi.”
Chúng
ta đang thấy bụi gai bốc cháy khi chúng ta thốt lên một lời kinh ngạc! Một chồi
xanh non đã nảy mầm từ một lời hứa…
Một
hình ảnh chính xác mà Isaia đã có trong tâm tưởng khi ông viết: “Trong
những ngày đó, một chồi non sẽ nảy mầm từ gốc Giêsê” ( Is 1,7). Giêsê
là cha của Đa vit và gốc cây là vương quốc của Đa vit đã rơi vào tàn lụi với
thời lưu đầy. Và gốc cây đó sẽ nảy ra một chồi non: Hài nhi Giê su. “Nơi
Người, Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa vít, cha Người, và vương
quyền Người sẽ vô tận.” ( Lc 1, 32-33).
Với
việc đang đến của vị Ấu Vương Giêsu, vương quốc Đa vít được phục hồi và ngai
vàng được tái lập :
Đây là
dụ ngôn về hạt cải! “Nước trời cũng giống như hại cải, nó nhỏ nhất
trong mọi hạt giống, nhưng khi mọc lên nó trở thành cây lớn hơn hết mọi cây” (Mt
13, 31- 32). “Từ gốc tổ Giêsê sẽ nảy ra một chồi” ( Is 11,1),
và chồi non đó phát triển thành một cây lớn. Cái đã một lần thấy nhỏ bé nay trở
thành một ngọn cờ vinh quang và huy hiệu của Ngài được đặt lên cao để thống trị
các quốc gia (x. Is 11,10; Rm 15,12). “Trước mặt Ngài, mọi vua chúa
phải thinh lặng cung kính” (Is 52,15) và “các dân ngoại khiêm
tốn phủ phục cầu khẩn” (Is 11,10).
Đây là
lời hứa vinh quang về vương quốc mà Kinh thánh và lời tung hô đã thể hiện.
Trong thực tế còn một điều gì khác nữa… Vương quyền chưa đến, cờ hiệu chưa được
giương cao, Người vẫn chưa thống trị các dân nước; các vua chúa cũng chưa thinh
lặng phủ phục. Trước mặt Người, muôn dân nước chưa cúi đầu thần phục…
Giống
như các lời tung hô khác, lời tung hô này kết thúc với lời : “ Xin hãy đến!”
“Come”,
nhưng xem ra có vẻ thiếu kiên nhẫn: “Xin hãy đến và đừng trì hoãn! Xin mau đến
và đem theo vương quốc!”.
Điều gì
trong thế giới đang kìm giữ Ngài lại? Có một điều gì đó trong thế giới đang cầm
giữ Ngài. Thầy Twvi Schur viết: nếu có thêm nhiều người trong thế giới đầy tràn
tình yêu và sự khoan dung thì chúng ta có thể đón nhận Đấng Thiên Sai được
Thiên Chúa gửi tới. Nhưng ngày nay biết bao sự thù ghét, ganh tị và khủng bố
nhân danh “niềm tin” …
Thế
giới xin Người mau ngự đến để làm gì? Để cứu độ chúng ta. Đó là một
sự tích lũy kinh nghiệm của bao niềm hy vọng giữa những lo lắng, xung đột và
chia rẽ gây tác hại và thiêu đốt chúng ta. Đó là một sự tích lũy của núi thánh
công lý và bình an, thăng tiến và hoàn hảo, làm cho thế giới này được vươn lên
tới trời, tương tự như chiếc thang của Giacóp để đón Người ngự đến! (“Niềm hy
vọng Thiên sai”, The Divine Milieu).
Con Trẻ
trong Isaia, “Đấng mà Thiên Chúa sẽ trao cho Ngài ngai vàng Đavit, cha
Người” ( Is 9,6), xin hãy đến mau lẹ và đừng trì hoãn nữa!
Ngày 20
tháng 12
O
Clavis David – O Key of David
“O
key of David and scepter of the house of Israel, Who opens and no one
closes, who closes and no one opens, come and open up the
dungeon cells, and set the prisoner free, who sits chained in darkness and the
shadow of death.”
“Lạy
Đức Ki tô, Ngài nắm giữ chìa khóa nhà Đa – vít, Ngài mở cửa đưa vào Nước vĩnh
hằng. Xin Ngài đến đem ơn giải thoát, cho tù nhân khỏi hết xích xiềng, cho họ
không còn ngồi dưới bóng đêm.”
Lời
tung hô này lấy chất liệu từ sách Khải huyền 3,7. Ở đây thánh Gioan gọi chính
Người là “Chìa khóa nhà Đavít, Người đã mở ra không ai đóng lại
được."
Thánh Gioan mượn đoạn văn trích từ sách ngôn sứ
Isaia chương 22, câu 22, trong đó những lời này không hề mang tính thiên
sai, nhưng đơn giản chỉ diễn tả endorsement của Thiên Chúa đối với nhà
lãnh đạo dân sự trung tín với Ngài: “Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đavít
trên vai nó. Nó sẽ mở và không ai đóng lại được; nó sẽ đóng và không
ai mở lại được.” Biểu tượng của việc trao chia khóa là một hình ảnh
đơn giản cho thấy việc trao ban quyền tối thượng.
Khi hài nhi Giêsu sinh ra, Ngài đã được trao tặng
ngai vàng Đavít, tổ tiên Ngài (Lc 1, 23) và cùng với tất cả “quyền
năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18).
Khi chọn Phêrô làm Giáo Hoàng tiên khởi và thủ lãnh Giáo Hội, Ngài
dùng cũng một biểu tượng đó: “Ta sẽ trao chìa khóa Nước Trời cho
con.” (Mt 16, 19).
Những lời đó ngày nay được ghi trên một tấm
mo-sa-ic mạ vàng, treo trên bức tường cao 3 mét tại Vương Cung Thánh
Đường Thánh Phêrô. Vẻ huy hoàng của nó dường như vang dội qua nhiều
thế kỷ. Qua dòng lịch sử, hình ảnh về chìa khóa Phêrô đã được bài
trí trên tất cả các công trình xây dựng của Giáo Hội và đế quốc
Roma.
Trong thời gian lâu dài người ta thường giả định
rằng chìa khóa được trao cho Phêrô là để ưu tiên quyền tháo cởi và
cầm buộc. Nhưng không phải thế. Lời tung hô này mở rộng hơn các lời
tung hô khác, không những khẩn nài Đấng là Chìa khóa quyền năng đến
để mở ra mà còn để giải thoát chúng ta khỏi ách tử thần. “Ôi chìa
khóa nhà Đavít, xin đến và mở cửa ngục tù để giải thoát tù nhân
khỏi xích xiềng.”
Khi Chúa Giêsu đi loan báo Tin Mừng, Ngài luôn tháo
cởi và chữa lành dân chúng: “Ephata! Hãy mở ra!” Ngài mở tai người
điếc và mắt người mù, cho người câm nói được, và giải thoát tội
nhân.
Vào ngày 29 tháng 12, máu của Thánh Tôma Becket,
Tổng Giám mục thành Canteburry đã hòa trộn với màu đỏ Poinsettias
của mùa Giáng Sinh. Cũng như Chúa Giêsu, ngài cũng là một “chìa khóa
mở”. Trong khi phái đoàn của nhà vua đến tìm giết ngài, ngài đã yêu
cầu những người bảo vệ ngài ra ngoài và mở rộng cửa để đón họ.
Giáo Hội luôn luôn mở ra, ngay cả đối với những người thù ghét chúng
ta.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII cũng là một “chìa khóa
mở”. Với chìa khóa Phêrô được trao cho ngài, ngài đã mở tung các
cánh cửa đã bị đóng lại từ lâu đời để đón nhận luồng gió của Lễ
Hiện Xuống mới. Luôn luôn có những người muốn đóng cửa lại, nhưng
lời tung hô không thay đổi: “Ôi lạy chìa khóa Đavít, khi ngài mở, không
ai đóng được.”
Ngày 21
tháng 12 -
O Oriens
– O Rising Dawn
“O
Rising Dawn , Radiance of Light eternal, and warm Sun of
justice, come and bring light to those sitting in darkness and
the shadow of death.”
“Muôn
lạy Đức Em-ma-nu-en, Đấng nắm giữ vương quyền và ban hành luật pháp.
Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin ngự đến mà cứu độ chúng con!”
Lời
tung hô theo nghĩa đen bao bọc hài nhi Giêsu trong luồng ánh sáng đích thực. Điều đó làm ta nhớ lại lời của Dacaria, người cha cao niên của
Thánh Gioan Tẩy Giả. Khi ông viết tên “Gioan” trên tấm bảng trong ngày
lễ cắt bì của con trai ông, đã tức khắc được tháo cởi khỏi chứng
câm của ông và mở miệng vang lên lời ca ngợi: “Thiên Chúa ta đầy lòng
thương xót và trắc ẩn. Ngài cho Vừng Đông từ trời cao viếng thăm ta.”
(“Oriens ex alto”) “Soi sáng những ai ngồi trong tăm tối,
và đưa ta vào đường nẻo bình an.” (Lc 1, 57-79)
Khi
gọi Ngài là “vẻ huy hoàng” của Ánh sáng vĩnh cửu của Chúa Cha (Dt 1,
3), lời tung hô làm cho Hài Nhi chói
ngời vinh quang của Thiên Chúa và tỏ cho thấy Người Con sinh bởi Đức Maria là “Ánh sáng
bởi Ánh sáng” (“lumen de lumine”). Hơn nữa, người Con của Đức Maria theo ngôn sứ Malakia là “Mặt Trời
công chính (“Sol justitiate”), mang theo tia sáng chữa lành” cho chúng
ta. (Ml 4, 2)
Chúng ta biết rằng từ ngày 17 đến 25 tháng 12 là khoảng thời gian tối nhất trong năm. Những ngày này trời tối
trong mười lăm giờ và chỉ có chín giờ trời sáng. Vào ngày sinh nhật Hài Nhi Giêsu, mặt trời bắt đầu
quay trở lại ở bắc bán cầu, thời gian trời sáng bắt đầu tăng lên cho
đến khi đạt đến độ sáng chói tối đa vào hạ chí nhằm ngày 21 tháng
6.
Ngày lễ Giáng Sinh bắt nguồn từ Roma vào thế kỷ
thứ ba. Các Kitô hữu nhìn nhận Chúa Giêsu là “Mặt Trời công chính” mà ngôn sứ Malakia đã tiên báo. Đây
đúng là lúc phải kêu lên: “O Oriens, veni!” “Ôi Bình Minh ló dạng, hãy đến chiếu sáng cho chúng tôi đang mò mẫm trong bóng tối. Ôi Mặt
trời công chính ấm áp, hãy đến cất đi giá lạnh trong tâm hồn. Ôi Tia
Sáng vĩnh cửu, hãy đến xua tan bóng tối ảm đạm và dẫn đưa chúng tôi
bước vào đường nẻo bình an.”
Ngày 22
tháng 12
O Rex
Gentium – O King of the Gentiles
“O
King of the Gentiles and their eternal longing, Oh Cornerstone who
make the both of them, Jew and Gentiles, one, come and save
the creature you have fashioned from dust.”
“Lạy
Đức Ki tô là Vua muôn nước, là đá tảng góc tường của tòa nhà Giáo Hội. Xin ngự
đến mà cứu độ con người, Chúa đã lấy đất mà dựng nên.”
Hài Nhi
Giêsu, sinh bởi Đức Maria, con Vua Đavit, con Abraham, là vua Dân Do Thái. Cả
thế giới đều biết điều đó khi họ đọc bản án trên đầu Chúa Giêsu bằng tiếng La
tinh, Do Thái và Hy Lạp: “Giêsu Na-da-ret, vua người Do Thái.” (Mt
27,37)
Cho đến
nay, tất cả các lời tung hô đều bắt nguồn từ ngôn ngữ và cung điệu Do Thái.
Điều đó cũng tương tự như câu chuyện về lễ giáng sinh: mọi nhân vật và mọi sự
đều mang tính Do Thái: Thánh Giuse và Đức Maria, ông Dacaria và bà Elisabet là
những người Do Thái. Các mục đồng thuộc tầng lớp bình dân và sống ngoài lề xã
hội là những người Do Thái. Cụ già Simeon và Anna trong đền thờ là những
người Do Thái. Ngay cả các thiên sứ ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao
thẳm” dường như cũng là những người Do Thái !
Tương
tự như câu chuyện Giáng sinh, các lời tung hô đang cần và mong đợi Vì Sao hiển
linh để tụ họp các vua chúa muôn dân như Gaspar, Melchior và Balthasa tới kính
viếng Vua Do Thái của muôn dân. Hài Nhi Giêsu, Đấng “không có chỗ trong
quán trọ”, nay sẽ “làm cho cả hai - Do Thái và dân ngoại - thành
một” bằng cách mời gọi anh em Do Thái nhường chỗ cho dân ngoại, để cho
các dân ngoại cũng được chia sẻ một gia nghiệp như họ, để họ trở thành những
chi thể của cùng một thân thể như họ, hầu làm kinh ngạc người Do Thái mà thánh
Phaolo đã gọi đó là “điều bí nhiệm mà Thiên Chúa ẩn giấu từ ngàn
xưa” (Ep 3, 6).
Ngôi
sao mà lời tung hô đang cần và mong đợi, cuối cùng đã xuất hiện. Đấng là Vua
của người Do Thái cũng là “Vua của muôn dân.” Đề tài này trích trong sách ngôn
sứ Giêrêmia 10,7: “Họ không còn sợ hãi Ngài, Lạy Đức Vua muôn dân nước” (“O
Rex gentium”). Niềm “khát khao muôn thuở” của họ đến từ sách ngôn sứ Haggai
2,8.
Nhưng
lời tung hô không dừng lại trên vương quyền với tất cả dị nghĩa có thể có. Lời
tung hô gọi Vua Do Thái và Vua các dân là “Đá Tảng”- “Corner Stone”, Đấng làm
cho cả hai nên một và cũng chính Đấng ấy đem lại bình an. Những tư tưởng này
xuất phát từ thư Ephêsô nói về Đức Kitô: “Đấng đập tan bức tường chia
rẽ giữa Do Thái và dân ngoại, để làm cho cả hai nên một và đem lại hòa bình” (
Ep 2, 14 -16).
Chúng
ta ngạc nhiên tại sao tác giả vô danh cổ thời của các lời tung hô không gọi “Ôi
Đá Tảng” hay “Ôi Đấng xây dựng hòa bình” thay vì “Ôi Vua Cả”? Bởi vì vua chúa
thì chúng ta có rất nhiều… Nhưng chúng ta chỉ mong đợi Đấng chính là Vị Vua xây
dựng hòa bình đích thực. Ngài chính là viên đá góc mà chúng ta cần để liên kết
“hai bên thành một”: Ả rập và Do Thái, người da mầu và da trắng, người công
giáo và tin lành, các giáo hội phân ly, các quốc gia đang chia rẽ, các gia đình
phân ly thành một...
“Xin
hãy đến” (“come”) của lời tung hô này là một lời khẩn nài bình an và lời cầu
nguyện. “Xin hãy đến” theo ngôn sứ Isaia chính là : “Hỡi Hoàng tử
bình an.” (Is 9,16). Xin hãy đến, hỡi Đá Tảng để chỉ cho chúng ta
dọn chỗ cho nhau trong ngôi làng toàn cầu nhỏ bé này khi chúng ta chung vai sát
cánh với nhau và ở đó chúng ta sẽ học sống chung hòa bình, nếu không chúng ta
sẽ tự hủy diệt.
Nhưng
làm thế nào để dọn chỗ cho nhau trên hành tinh của chúng ta, tương tự như ngôi
nhà của Cha trên trời, có nhiều tầng và nhiều chỗ cho mọi người? Xin hãy đến,
lạy Vua Hòa Bình, để phá đổ mọi bức tường ngăn cách và cứu thoát chúng con khỏi
các cuộc chiến tranh thảm khốc; đồng thời hướng dẫn chúng con bước vào đường
nẻo bình an. Xin hãy đến và cứu thoát loài thọ tạo của Ngài, “đã được tạo dựng
từ bụi đất” khỏi rơi vào cuộc chiến hạt nhân và vũ khí hóa học độc hại phát
xuất từ tà tâm của con người.
*********
Ngày 23
tháng 12
O
Emmanuel – O God- with- us
“O
Emmanuel, our King and Law – bearer, Expectation of the Gentiles and their
Savior, come and save us. O Lord, our God!”
“Lạy
Đấng Emmanuen, là Vua và Đấng mang Lề luật, là Hy Vọng và Đấng Cứu Độ của muôn
dân nước. Xin ngự đến mà giải thoát chúng con!”
Hài Nhi
Giêsu là Đấng mang lề luật (Is 33,32), và trong cánh tay nhỏ bé của Người chỉ
mang một lề luật duy nhất (Ga 13, 34). Đó chính là luật của
mọi lề luật (Ep 2, 5).
Hài Nhi
Giêsu cũng là niềm hy vọng của muôn dân (x. St 49,10). Cuối cùng Người đã đến,
các dân tộc từ phương Tây sẽ đem theo của cải đến với Người bằng tàu thuyền (Is
60, 5) và từ phương Đông, sẽ tới bằng lạc đà. Những đoàn lạc đà sẽ tới từ
Midian và Ephah. Họ sẽ đến từ Sheba, mang theo vàng, nhũ hương để ca tụng Thiên
Chúa (Is 60, 6).
Nhưng
trong tất cả các tước hiệu Thiên Sai đáng kinh ngạc được trao tặng cho Người
Con sinh bởi Đức Maria trong tuần Bát nhật giáng sinh: Chúa – Chồi Non – Chìa
khóa – Rạng đông – Vua – Đấng mang lề luật, thì tước hiệu “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta” là một tước hiệu nồng ấm nhất, vui tươi nhất, thân tình nhất trong
tất cả. Thực ra đó chính là Danh của Thiên Chúa trong Lễ Giáng Sinh được loan
báo cho thế giới bởi sứ thần Gabriel (Mt 1, 23).
Đức
Maria nghĩ về việc thụ thai người Con của ngài sẽ xảy ra cách nào vì ngài không
biết đến người nam ( Lc 1, 26- 38); ông Dacaria cho rằng việc thụ thai của vợ ông là bà Isave
là điều không thể xảy ra được bởi vì bà vừa cằn cỗi vừa cao niên,
một sứ thần đang đứng trước mặt ông (Lc 1, 5-19). Tên của vị
sứ thần loan báo cho ông là Gabriel (nghĩa là “Tin Vui của Thiên Chúa”). Và ngài loan báo rằng: “Đối với Thiên Chúa mọi
sự đều có thể.” (Lc 1, 37).
Hơn nữa sứ
thần cũng loan báo Con Thiên Chúa hóa thân làm người, mang thân phận yếu đuối sinh ra trong đêm giá lạnh,
không có chỗ trong quán trọ. Đấng thánh vô tội ở giữa chúng ta đã
phải chạy trốn trước sự tàn ác của Hêrôđê. “Đấng đã thực hiện
những điều đó là chính Thiên Chúa hằng sống.” (Karl Barth, The Humanity of God).