ĐÔI NÉT VỀ PHONG TRÀO ĐẠI KẾT
(Mouvement oecuménique)
Sự tiến triển của Phong trào Đại kết được đánh dấu qua những
biến cố quan trọng sau đây:
-Thiết lập Hội đồng các Hiệp Hội Truyền giáo, tại Edimbourg,
năm 1910.
-Từ năm 1935, Cha Paul Couturier đã có nhiều hoạt động nhằm cổ võ cho Tuần cầu
nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.
-Thiết lập Hội Đồng Đại kết các Giáo Hội (C.O.E) năm 1948,
tại Amsterdam, thành viên lúc đó gồm 147 tổ chức Giáo Hội (đến nay là trên 300
thành viên) thuộc các Giáo Hội Anh Giáo, Tin Lành và Chính Thống. Từ năm 1961,
Giáo Hội Công Giáo chính thức là quan sát viên của Hội Đồng này.
-Về phía Giáo Hội Công Giáo, năm 1960, Đức Gioan XXIII thiết
lập Văn Phòng Hiệp nhất các tín hữu Kitô, có sứ mạng xây dựng mối liên lạc đại
kết với các Giáo Hội ngoài Công Giáo.
-Công đồng Vatican II từ năm 1962 đến 1965. Nhiều tài liệu đã được soạn thảo do các Uỷ
ban hỗn hợp về đối thoại, góp phần thăng tiến sự hiệp nhất giữa các Giáo Hội,
như những dấu chỉ của niềm hy vọng vào sự hiệp thông trọn vẹn trong tương lai.
Đặc biệt phải kể đến Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio (1964). Tinh thần đại kết
cũng được nhấn mạnh trong các văn kiện khác của Công Đồng: Hiến Chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), Hiến Chế tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa
(Dei Verbum), Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh, Tuyên Ngôn Tự Do Tôn Giáo…
-Một văn bản quan trọng đã được ký kết giữa hai Giáo
Hội Công Giáo và Tin Lành có nội dung
liên quan đến giáo lý chung về ơn công chính hóa bởi ân sủng, qua đức tin như phương tiện (vấn đề
này đã gây nên nhiều tranh cãi và dẫn đến cuộc Cải cách ở thế kỷ 16). Liên đoàn
quốc tế Giáo Hội Luther (F.L.M) và Giáo
Hội Công giáo đã cùng ký văn bản này tại Augsbourg ngày 30-10-1999. Trong khối
Pháp ngữ, với sự cộng tác của các chuyên viên các Giáo Hội Kitô, bản dịch kinh Lạy Cha đã được thực hiện năm 1966 (được
dùng trong Phụng vụ hiện nay tại các nước thuộc khối Pháp ngữ) và bản dịch Kinh
Thánh Đại kết (TOB) đã thực hiện năm
1972.
Ngoài ra còn có những cuộc gặp gỡ lịch sử mở ra những bước
tiến mới trong tinh thần Đại Kết: cuộc gặp gỡ giữa Đức Phaolô VI và Thượng Phụ
Constantinople Athenagoras tại Giê-ru-sa-lem năm 1964; Cuộc viếng thăm của Đức
Phaolô VI tại Tòa Thượng Phụ Constantinople
năm 1967, rồi tại Hội Đồng Đại kết các Giáo Hội tại Genève năm 1969. Đức Gioan
Phaolô II đã nối bước các Vị Tiền Nhiệm khi đến thăm Tòa Giáo Chủ Giáo Hội Anh
Giáo Cantobéry 1982 và nhiều cuộc gặp gỡ
với các vị lãnh đạo cấp cao của các Giáo Hội Kitô khác.
Những cố gắng tiến tới Đại kết còn thể hiện qua những nghiên cứu chung về Thần Học và Thánh Kinh,
những buổi hội thảo và nhiều dịp gặp gỡ quan trọng khác trong các lãnh vực quốc
tế, khu vực và quốc gia.
-Qua Tông Huấn Pastor Bonus ký ngày 28-06-1988, Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã đổi tên “Văn Phòng Hiệp nhất các tín hữu Kitô” thành “
Hội Đồng Tòa Thánh cổ võ sự hiệp nhất các tín hữu Kitô” (CPPUC). Danh xưng mới
này chính thức được sử dụng từ ngày 01-03-1989.
Phong trào Đại kết nhằm thực hiện lời cầu nguyện của Đức
Giêsu: “xin cho họ nên Một (…) để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21).
Phong trào này đề nghị nhiều phương pháp khác nhau: cầu nguyện, kiên nhẫn, cộng
tác và can đảm làm việc. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhận định Phong trào Đại
kết “là một sứ mạng huyền nhiệm và quan trọng nhất trong triều đại Giáo Hoàng
của Ngài”, và Đức Gioan Phaolô II luôn luôn nhắc lại rằng đó là một trách nhiệm
không thể thoái thác và dửng dưng được.
Lời cầu nguyện của Cha Paul Couturier:
Lay Chúa Giêsu, trước
ngày chịu khổ hình vì chúng con,
Chúa đã cầu nguyện cho
các môn đệ Chúa được hoàn toàn hiệp nhất,
Như Chúa ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa
Xin làm cho chúng con
cảm thấy đau đớn vì sự bất trung do chia rẽ
Xin cho chúng con
thành tâm thú nhận điều đó
Và có can đảm gạt bỏ
những gì là dửng dưng, nghi ngờ và ngay cả sự ghen ghét thù oán đang ẩn nấp
trong chúng con.
Xin ban cho chúng con
được gặp gỡ nhau trong Chúa,
Để từ tâm hồn và miệng
lưỡi chúng con,
Không ngừng vang lên
lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô
Như Chúa hằng mong
muốn và với phương tiện mà Chúa muốn.
Lạy Chúa là Đức Aùi
hoàn hảo, xin hãy soi sáng cho chúng
con thấy con đường dẫn tới sự hiệp nhất
Trong sự tuân phục
tình yêu và chân lý của Chúa. Amen
TUẦN CẦU NGUYỆN CHO
SỰ HIỆP NHẤT CÁC TÍN HỮU KITÔ 2007
“Người làm cho những kẻ điếc nghe được và những kẻ câm nói
được” ( Mc 7,37)
Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô được chính
thức thiết lập từ tháng Giêng năm 1939. Đã 68 năm kể từ ngày thành lập, tuần
cầu nguyện này vẫn mang tính hiện tại với sức sống sôi động, mang lại nhiều
hiệu quả tích cực. Đặc biệt tại những
nơi có những nhóm cầu nguyện đại kết, các tín hữu Kitô vẫn muốn tham dự để cùng
xin ơn “hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn, bằng phương tiện mà Thiên Chúa muốn”. Đề
tài của năm nay được gợi ý do một Uỷ Ban quốc tế liên kết giữa Hội đồng Tòa
Thánh cổ võ sự hiệp nhất các tín hữu Kitô và Hội Đồng đại kết các Giáo Hội. Uỷ
Ban này cùng công bố một tài liệu chính thức
chuẩn bị cho Tuần cầu nguyện năm nay.
Bài suy niệm của Tuần cầu nguyện năm 2007 do các cộng đoàn
Kitô miền Umlazi, gần Durban, Nam Phi đề nghị. Đây là nơi còn tồn tại nạn phân
biệt chủng tộc, nạn nghèo đói do hậu quả của chế độ “Apartheid” và tiếp tục gây
nên những thảm họa, nhất là những bệnh nhân
SIDA hiện nay đã lây nhiễm và lan tràn trong gần một nửa dân số. Chính
sự xấu hổ và mặc cảm vì bệnh SIDA đã gây khó khăn cho cuộc chiến chống lại đại
họa này. Vì vậy, các cộng đoàn Kitô được mời gọi hãy “đập tan sự im lặng” đang đè nén và cô lập mọi người
trong nỗi đau của họ.
Trong chiều hướng đó, đoạn Tin Mừng Mc 7,31-37 được chọn
như trọng tâm của Tuần cầu nguyện cho sự
hiệp nhất các tín hữu Kitô năm 2007. Đoạn Tin Mừng này kể lại Đức Giêsu đã chữa
lành một người câm. Khi ban lại cho anh
khả năng nghe và nói, Đức Giêsu thể hiện quyền năng và ước muốn của Thiên Chúa
muốn cứu rỗi con người cách toàn vẹn, để
thực hiện lời Ngôn sứ Isaia: “Khi đó, mắt người mù sẽ thấy và tai người điếc sẽ
mở ra. Khi đó, người què sẽ nhảy nhót như nai và miệng người câm sẽ la lên vì
vui sướng” (35,5-6). Việc chữa lành người điếc cho phép anh ta được nghe Tin
Mừng do Đức Giêsu Kitô loan báo. Việc anh có thể nói được cho phép anh loan báo
cho người khác điều anh đã thấy và đã nghe. Những viễn tượng khác nhau này được
nêu lên trong câu trả lời của những người đã chứng kiến phép lạ và họ rất đỗi ngạc nhiên: “Người làm cho
những kẻ điếc nghe được và những kẻ câm nói được” (câu 37).
Khi suy niệm toàn bộ đoạn Tin Mừng này, tất cả những ai đã
được thanh tẩy trong Đức Kitô được mời gọi nhớ lại rằng họ cũng đã có đôi tai
mở ra để đón nhận Tin Mừng, như người câm điếc được Đức Giêsu chữa lành. Họ
cũng được nhắc nhớ rằng Giáo Hội phải lắng nghe tiếng kêu than của tất cả những
ai đang đau khổ. Được thúc đẩy bởi sự cảm thương, Giáo Hội phải lên tiếng thay
cho những người không có tiếng nói, như chính Thiên Chúa đã lắng nghe những
tiếng kêu than và Ngài đã thấy những đau khổ của Dân Ngài trong Ai-cập (x. Xh
3,7-9), và như Đức Giêsu đã thương xót
đối với những ai kêu cầu Người.
Như vậy, đoạn Tin Mừng được đề nghị cho những suy niệm trong
Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô được hiểu trong cả chiều
hướng Thánh Kinh và Thần Học, nhấn mạnh đến việc lắng nghe, đến ngôn ngữ và
đồng thời sự thinh lặng, trong đó vừa tìm kiếm sự hiệp nhất, vừa tìm ra một lời
đáp trả cho những nỗi đau của nhân loại ngày nay. Có hai lời mời gọi gửi đến
Giáo Hội và các tín hữu Kitô:
-Cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô và cùng nhau
xây dựng sự hiệp nhất đó.
-Liên kết tạo sức mạnh để xoa dịu sự đau khổ của đồng loại
Hai hình thức trách
nhiệm này liên kết chặt chẽ với nhau. Cả hai đều gắn liền với việc chữa lành
Nhiệm Thể Đức Kitô. Vì vậy bản văn được
chọn lựa cho Tuần cầu nguyện năm 2007 là một tường thuật về chữa lành.
Để hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ cầu nguyện cho sự hiệp
nhất giữa các môn đệ của Đức Kitô, chúng ta hãy tổ chức tuần cầu nguyện từ ngày
18-25 tháng Giêng tại các cộng đoàn Giáo xứ. Những sáng kiến, nỗ lực để đối
thoại với Anh Em Tin Lành ở Việt Nam cũng được đề nghị để xây dựng sự hiệp
nhất. Nếu chúng ta chưa tiến tới sự hiệp nhất
trong lãnh vực thần học, ít ra chúng ta có những cộng tác chung với nhau
để cùng thực thi bác ái và góp phần thăng tiến con người trên Quê Hương Đất Nước
Việt Nam thân yêu.
Giám mục Giuse Vũ Văn
Thiên
Giáo phận Hải Phòng
(Sưu tầm và chuyển ngữ)