VỀ KHOÁ HỌP ĐẠI KẾT RÔ-MA 2004
Nhân dịp kỷ
niệm 40 năm công bố sắc lệnh về Đại kết của Công đồng Vaticanô II Unitatis
Redintegatio, Hội Đồng Tòa Thánh cổ võ sự hiệp nhất các tín hữu Kitô
(CPPUC) đã tổ chức cuộc gặp mặt trong ba ngày 11, 12 và 13 tháng 11 năm 2004
tại Mondo Miglore, ngoại thành Rô-ma. Cuộc họp này do chính Đức Hồng Y Walker
Kasper, Chủ tịch Hội đồng chủ sự.
I-NHỮNG THÔNG
TIN CHUNG VỀ KHÓA HỌP
1- Các thành
viên tham dự và nội dung các bài thuyết trình
a) Các đại biểu
công giáo là thành viên tham dự chính thức. Các tôn giáo khác là
khách mời của Hội nghị. Những thành viên tham dự của Giáo hội Công giáo đến từ
các Châu lục khác nhau: Phi Châu (27 đại biểu); Mỹ Châu (10 đại biểu); Á Châu
(29 đại biểu); Âu châu (25 đại biểu); Úc Châu (2 đại biểu).
Các
vị khách mời là đại diện cho Giáo hội Chính thống ( 12 đại biểu); Các Cộng đoàn Giáo hội Đông phương ( 8 đại
biểu); Giáo hội Tin lành ( 7 đại biểu); các tổ chức Kitô giáo thế giới ( 5 đại
biểu)
Trong
số khách mời còn có một số Hồng Y, Giám mục đại diện cho một số Thánh Bộ tại
Rô-ma.
b)
Các bài thuyết trình:
*
Hồng Y Walter Kasper, Chủ tịch Hội Đồng
Tòa thánh cổ võ sự hiệp nhất các tín hữu Kitô: Unitatis redintegratio: 40
năm nhìn lại
*
Giám mục Johannis Zizioulas, Thượng phụ
Constantinople: Unitatis redintegratio trong nhãn giới Chính thống
*
Tiến sĩ giáo sư Geoffrey Wainwright, Hội đồng thế giới Méthodiste: Unitatis
redintegratio trong nhãn giới tin lành.
*
Giám mục Kurt Koch. Giám mục Bâle,Thuỵ sĩ: sự tiến triển của phong trào đại
kết và những thách đố mới.
*
Giám mục Eleuterio F. Fortino, thơ ký thứ hai Hội đồng Tòa Thánh cổ võ sự hiệp
nhất các tín hữu Kitô: những hoạt động của Hội Đồng từ khi công bố Unitatis
redintegratio đến nay.
*
Giám mục Brian Farrell, thơ ký Hội đồng Tòa Thánh cổ võ sự hiệp nhất các tín
hữu Kitô: Tình trạng hiện nay của phong trào Đại kết trên thế giới: tổng hợp
các dữ kiện Hội Đồng đã nhận được trong năm 2004.
*
Hồng y Ivan Días, Tổng Giám mục Bombay, Ấn độ: hoạt động Đại kết và sứ mạng
truyền giáo.
*
Hồng y Cormac Murphy-O’Connor, Tổng Giám mục Wesminster, Anh Quốc :Những
sáng kiến cụ thể cho một Đại kết bằng cuộc sống.
*
Bà Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolari và Tu sĩ Enzo Bianchi, Bề
trên đan viện Bose, Italia: những đề nghị cho một linh đạo Đại kết.
Khóa
họp được kết thúc bằng giờ Kinh chiều do Chính Đức Thánh Cha chủ sự tại Đền Thờ
Thánh Phê-rô lúc 17h ngày thứ bảy 14-11.
II- ĐẠI KẾT : MỐI QUAN TÂM CỦA GIÁO HỘI
1-
Sự chuẩn bị lâu dài:
Bốn
mươi năm đã qua, kể từ ngày Sắc lệnh Hiệp nhất Unitatis Redintegatio của
Công đồng Vatican II được công bố, Giáo hội đã có nhiều cố gắng để tiến tới sự
hiệp nhất giữa những người Anh Em cùng chung một đức tin vào Đức Kitô. Đây là
một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Giáo hội, khởi điểm cho một loạt những
sự kiện quan trọng, mở ra một chân trời mới của tình huynh đệ. Sắc lệnh Hiệp
nhất của Công đồng là kết quả của một quá trình chuẩn bị lâu dài, trải qua
nhiều triều đại Giáo hoàng trước Đức Gioan XXIII: Đức Léon XIII và Benoit XV đã
thực hiện những bước khởi đầu cho cuộc đối thoại đại kết. Đức Pio XI đã chuẩn y những bàn thảo tại Malines
(1921-1926) với Cộng đoàn Anh Giáo.
Tuy
vậy, với Đức Gioan XXIII, một bước tiến mới được thực hiện trong những cố gắng
Đại kết , không phải để xây dựng một Giáo hội mới, nhưng là một Giáo hội được
canh tân đổi mới. Ngài xứng đáng được gọi là Cha tinh thần của Sắc lệnh Hiệp
nhất. Vì mục đích của Ngài khi triệu tập Công đồng là : canh tân đời sống
nội bộ Giáo hội Công giáo và tiến tới sự hiệp nhất các tín hữu Kitô. Với
Đức Phaolô VI, một biến cố đã đi vào lịch sử: cuộc gặp gỡ giữa Đấng Kế vị Thánh
Phêrô với Thượng phụ Athénagoras đệ nhất năm 1964 đã mở ra một chân trời mới
cho những cố gắng Đại kết. Đến thời Đức Gioan Phaolô II, với tâm nguyện thực
hiện những dự tính của hai vị Tiền nhiệm khởi xướng và kết thúc Công Đồng, đã
đào sâu và triển khai sắc lệnh Hiệp nhất qua Thông điệp Ut Unum Sint, ký
ngày 25-5-1995, như một lời mời gọi và nhấn mạnh đến tính cấp bách không thể
đảo ngược được của Phong trào Đại kết (UUS 3). Theo Đức Gioan Phaolô II, Đại
kết là một trong những ưu tiên trong triều đại Giáo hoàng của Ngài (UUS 99).
2-
Đại kết trong các văn kiện Công đồng Vatican II
Những
cố gắng tiến tới Đại kết được thể hiện rõ nét trong các văn kiện của Công Đồng
Vatican II. Sắc lệnh Hiệp nhất phải được đọc đồng thời với Hiến Chế Tín lý về
Giáo hội (LG) và các văn kiện khác của Công Đồng. Bởi lẽ, nếu LG định nghĩa
Giáo hội là Dân Thiên Chúa lữ hành (LG 2), phong trào Đại kết là chính con đường của Giáo hội (UUS 7). Nói cách
khác, Công đồng đã đề cập đến khía cạnh cánh chung của Giáo hội và đã tỏ cho
thấy Giáo hội như một thực thể sống động đang vận hành như Dân Thiên Chúa lữ
hành giữa một thực tại “đã có sẵn” và “còn đang đến” . Trong chiều kính cánh
chung này , phong trào Đạikết gắn liền với
sứ mạng truyền giáo. Đại kết và truyền giáo được liên kết chặt chẽ với
nhau như Đức Gioan Phaolô II đã nhấn
mạnh: “những chia rẽ của quá khứ và hiện tại giữa những tín hữu Kitô là
những vật cản đối với tinh thần truyền giáo của Giáo hội” (Redemptoris Missio,36)
Cũng
trong chiều hướng đại kết, khi nói về vị trí và vai trò của Giáo hội, Công Đồng
đã định nghĩa Giáo hội của Chúa Kitô tồn tại trong (subsistit in) Giáo Hội Công giáo (LG 8), thay vì cách nói
trước đó “Giáo hội của Chúa Kitô là (est) Giáo hội Công giáo” thường được dùng trong một số văn kiện của
Giáo hội. Với cách diễn tả “subsistit in”, Giáo hội đã tiến một bước
quan trọng để gặp gỡ và đối thoại với Anh Em ly giáo. Giáo hội muốn công nhận
rằng ngoài Giáo hội Công giáo, vẫn hiện hữu không chỉ những tín hữu Kitô đơn lẻ
nhưng cũng còn những “yếu tố Giáo hội”
và cả những Giáo hội và Cộng đoàn giáo
hội, tuy chưa hiệp thông trọn vẹn, cũng thuộc về Giáo hội của Chúa Kitô và là những phương
tiện cứu rỗi cho những thành viên của mình (LG 8;15. UR,3. UUS, 10-14). Công
đồng xác nhận rằng ngoài Giáo hội Công giáo vẫn có những dạng thức của sự thánh
thiện làm cho họ đi đến chỗ chấp nhận tử đạo ( LG,15. UR,4. UUS,12;83).
Ý
tưởng chủ đạo về Giáo hội của Công đồng là một Giáo hội hiệp thông. Điều này
được nêu cách đặc biệt trong sắc lệnh Hiệp nhất. Với khái niệm “hiệp thông”
của Thánh kinh và của Giáo hội thời sơ khai, Công đồng định nghĩa Giáo hội
trong chiều kích của màu nhiệm thâm sâu nhất, màu nhiệm Chúa Ba Ngôi, vì Giáo
hội - hiểu theo một khía cạnh - là chính hình ảnh (icône) của Chúa Ba Ngôi
(LG,4 ; UR, 2). Khái niệm này là sự đóng góp quan trọng của Công đồng trong vấn đề Đại kết.
Bí
tích Thanh Tẩy chính là nền tảng cho sự hiệp thông này.Đó là Bí tích của đức
tin nhờ đó mọi người lãnh nhận được tháp nhập vào thân thể duy nhất của Đức
Kitô, là Giáo hội.
Đông
và Tây : một phong trào duy nhất tiến tới Đại kết. Sắc lệnh Hiệp nhất phân biệt
hai thể loại chia rẽ trong Giáo hội: cuộc ly giáo giữa Đông và Tây (1054) và
những chia rẽ trong chính nội bộ Giáo hội Tây phương ở thế kỷ 16. Giữa hai cuộc
ly giáo này, sự khác biệt không mang tính địa dư hay thời gian, nhưng đó là hai thể loại ly
giáo khác nhau.
3-
Nội dung của Unitatis Redintegratio
Với
Sắc lệnh này, Công đồng kêu gọi các thành phần
Dân Chúa hãy cộng tác vào việc
tìm kiếm sự hiệp nhất trọn vẹn giữa
những tín hữu Kitô. Lời mời gọi đó được trải dài dọc suốt nội dung của Sắc
lệnh:
a)
Trước hết, Công đồng nhắm tới chính nội bộ Giáo hội Công giáo chú trọng đến
những hoạt động đại kết để mỗi tín hữu công giáo phải tỏ ra ân cần đối với các anh em ly khai...khởi xướng bước
đầu đi đến với họ (UR số 4).
b)
Tiếp theo, Sắc lệnh mời gọi sự canh tân trong Giáo hội trong hành trình trần
thế, một sự canh tân mà Giáo hội, vì là một định chế nhân trần, bao giờ cũng cần đến. Sự canh tân này rất quan trọng
cho công cuộc hiệp nhất.
c)
Sau đó, với cái nhìn tích cực, Công đồng ước mong những tín hữu công giáo hãy
công nhận với niềm vui mừng những giá
trị kitô giáo thực thụ đều bắt nguồn từ di sản chung và đang được những anh em
ly khai trân trọng giữ gìn.
d)
Ngoài ra, thật là chính đáng khi công nhận
sự phong phú của những hoạt động đạo đức nơi các tín hữu kitô khác,
những người đã làm chứng cho Đức Kitô đôi khi đến mức đổ máu (UR số 4)
e)
Bằng một phương pháp tích cực hơn, Sắc lệnh khẳng định : “ không được quên
rằng tất cả những gì được thực hiện do ân huệ của Chúa Thánh Thần nơi các anh
em ly khai đều có thể góp phần xây dựng Giáo hội”
f)
Phong trào Đại kết bao trùm mọi đề tài đối thoại được nhắc tới trong phần này
của Sắc lệnh, nhưng sẽ được triển khai rộng hơn trong chương 3 của UR
g)
Trong phần nói về việc áp dụng Sắc lệnh trong Giáo hội Công Giáo, ngoài lời mời
gọi canh tân, những đề tài quan trọng cho những hoạt động Đại kết và cho đời
sống kitô đã được đề nghị, như sự hối cải nội tâm (conversion intérieure),
sự liên kết trong lời cầu nguyện, lời cầu nguyện chung, việc đào tạo đại kết.
h)
Cuối cùng, Sắc lệnh đã đề cập tới một khía cạnh quan trọng: “ phương pháp và
cách diễn tả đức tin công giáo không được gây trở ngại cho việc đối thoại với
những người anh em” (UR số 11). Tuy vậy, hướng tới Đại kết đồng thời phải
luôn trung thành với Giáo huấn của Giáo hội: “đức tin công giáo phải được
giải thích sâu xa và chính xác hơn bằng cách thức và ngôn từ mà các anh em ly
khai có thể hiểu đúng nghĩa” ( vẫn số 11).
4-
Đại kết trong Hai Bộ Giáo Luật
Bộ
Giáo luật của Giáo hội Công Giáo (CDC) và Bộ Giáo luật của các Giáo hội đông
phương (CCEO) được soạn thảo trong chiều hướng đại kết. Chúng ta có thể
thấy rõ điều này trong Khoản 755 CDC:
§1
“Toàn thể Giám mục đoàn và cách riêng là Tòa Thánh phải cổ võ và điều khiển
phong trào đại kết giữa những người công giáo,nhằm tái lập sự hiệp nhất giữa
hết mọi người Kitô hữu, như ý Chúa Kitô buộc Giáo hội phải đạt tới”.
§2
“Cũng vậy, các Giám mục và, chiếu theo các quy tắc luật định, các Hội đồng Giám
mục, có bổn phận cổ võ sự hiệp nhất này; đồng thời dựa trên những quy luật do
quyền bính tối cao của Giáo hội ban hành, họ hãy ra những quy tắc thực tiễn hợp
với nhu cầu và điều kiện của mỗi hoàn cảnh khác nhau”.
Chúng
ta có thể tìm thấy những đề nghị cho những hoạt động đại kết trong Giáo luật
của các Giáo hội đông phương tại các
Khoản từ 902-904.
Hai
Bộ Giáo luật không những chỉ đưa ra những chỉ dẫn khái quát cho những hoạt động mục vụ, mà còn
đề cập đến những khía cạnh khác nhau của Đại kết như sự thành sự của Bí tích
Thanh tẩy, sự hiệp thông trong những sự thánh, hôn nhân hỗn hợp, việc sử dụng
những nơi thánh...
5-
Đại kết trong Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo
Sách
Giáo lý của Giáo hội Công giáo đã đón nhận những chỉ dẫn đại kết của Công đồng
Vatican II, đồng thời đề nghị những yếu tố mới như kinh nghiệm từ những hoạt động đại kết. Trong
lời giới thiệu Sách Giáo Lý, Đức Gioan Phaolô II đã khẳng định: “cuốn sách này muốn đem lại
sự nâng đỡ cho những nghị lực đại kết, được hướng dẫn bởi những ước muốn thánh
thiện đạt tới sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, đồng thời thể hiện cách chính xác
nội dung và sự hài hòa của đức tin Kitô giáo”. Thực hiện tinh thần của Công
đồng, trong việc trình bày đức tin Công
giáo, Sách Giáo lý nhằm tới một phương pháp giải thích dể hiểu cho các tín hữu
Kitô khác đang đối thoại với Giáo hội Công giáo. Khi trình bày kinh tin kính
Nié-Constantinople, Sách Giáo lý GHCG khẳng định: “kinh này ngày nay vẫn còn
là lời tuyên xưng đức tin chung cho tất cả các
Giáo hội Đông và Tây phương”. Những tín hữu công giáo là anh em của
tất cả mọi Kitô hữu khác trong đức tin, bởi vì, mặc dù có những cách giải thích khác nhau, họ vẫn
có chung một kinh Tin kính. Bí tích Thanh tẩy là một
mối giây liên kết sư hiệp thông của mọi tín hữu Kitô, kể cả đối với
những người chưa hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo (Sách Giáo lý GHCG,
số 1271). Như vậy, Sách Giáo lý GHCG đã
đón nhận và thực thi tinh thần của UR: “Bí tích Thanh tẩy tạo nên mối giây
hiệp nhất tất cả những kẻ đã được tái sinh” (UR số 22). Trong sách Giáo lý
GHCG, Đại kết không phải là một chương riêng được thêm vào, nhưng chiều hướng
Đại kết được chú trọng thường xuyên trong toàn bộ cách trình bày của cuốn sách
này.
6-
Những hoạt động để thực hiện tinh thần của UR từ 40 năm qua
a)Cuốn
chỉ nam hướng dẫn thực hiện những quyết định của Công đồng Vatican II về Đại
kết
Cuốn
chỉ nam do Văn phòng Hiệp nhất các tín hữu Kitô (nay là CPPUC) soạn thảo, được
thực hiện qua hai giai đoạn và chia làm hai phần:
-
Phần thứ nhất: công bố năm 1967, gồm 4 chương với nội dung :+chương một:
Đề nghị thiết lập Ủy ban đại kết cấp giáo phận và quốc gia
+
chương hai: vấn đề thành sự của Bí tích Thanh tẩy được cử hành bởi các thừa tác
viên thuộc các Giáo hội khác.
+
chương ba: Đối thoại đại kết thiêng liêng trong Giáo hội công giáo
+
chương bốn:Sự hiệp thông trong những hoạt động thiêng liêng với những anh em ly
khai.
-
Phần thứ hai, được công bố năm 1970, gồm 4 chương:
+
chương một: những nguyên tắc chung cần thực hiện trong việc huấn luyện đại kết
+
chương hai: Vấn đề Đại kết trong chương trình huấn luyện tu đức và thần học.
+
chương ba: Những quy tắc đặc thù trong việc huấn luyện đại kết
+
chương bốn:Sự cộng tác giữa Giáo hội công giáo và các tín hữu Kitô khác trong lãnh vực tập thể và cá nhân.
Cuốn
Chỉ nam này là sự đóng góp quan trọng trong việc hướng dẫn và cổ võ những hoạt
động đại kết. Văn phòng Toà thánh cổ võ sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, với sự
đóng góp của các Hội đồng Giám mục và Giáo triều Roma, đã công bố ấn bản mới của cuốn Chỉ nam này
năm 1993. Cuốn sách luôn mang tính thời sự bởi lẽ những hoạt động đại kết luôn
cần thiết trong việc nghiên cứu thần học, trong việc thực hiện những hoạt động
đại kết, nhất là tại những nơi có người
công giáo và các tín hữu Kitô khác sống chung, với những vấn đề mục vụ nảy sinh
trong đời sống hằng ngày.
b)
Một số văn kiện đã được công bố
Văn
phòng Hiệp nhất các tín hữu Kitô, với sự tham gia của nhiều chuyên viên đến từ
nhiều Giáo hội kitô khác nhau đã công bố những văn kiện nhằm cổ võ Đại kết và
đưa ra những hướng dẫn thực hành:
*
Tuyên bố của Giáo hội Công giáo liên quan đến Bí tích Thánh Thể giữa những tín
hữu Kitô thuộc nhiều cách thức tuyên
xưng đức tin khác nhau (7-01-1970).
*
Huấn thị về những trường hợp đặc biệt được chấp thuận cho rước lễ trong Giáo
hội công giáo đối với một số tín hữu kitô ngoài công giáo. (1-06-1972)
*Chú
thích ngày 17-10-1973 về một số giải thích “Huấn thị 1-6-1972 về những
trường hợp đặc biệt được chấp thuận cho rước lễ trong Giáo hội công giáo đối
với một số tín hữu Kitô ngoài công giáo”.
*
Tông huấn Evangelii Nuntiandi (1975)
*
Tông huấn Catechesi Tradendae (1979)
*
Tông huấn Sapientia Christiana về các
trường đại học và phân khoa giáo hội học (1979)
*
Ratio Fundamentalis Institutionis
sacerdotalis của Thánh Bộ về giáo dục Công giáo (1970)
* Tông huấn Ex Corde ecclesiae (1990)
III- NHỮNG CỐ GẮNG
TRONG QUAN HỆ VÀ ĐỐI THOẠI THẦN HỌC
Mục tiêu của
những hoạt động đại kết là tiến tới sự hiệp thông trọn vẹn giữa những tín hữu
cùng tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô. Hội đồng Tòa Thánh cổ võ sự hiệp nhất
các tín hữu Kitô (CPPUC) đã có nhiều cố gắng để thiết lập những cuộc đối thoại
với những cộng đoàn giáo hội kitô khác. Sau Công đồng, mối ưu tư hàng đầu để
tiến tới Đại kết là những cuộc đối thoại thần học.
a) Mối tương
quan với các Giáo hội Chính thống
Mối tương quan
với các Giáo hội Chính thống rất đa dạng và phức tạp nhưng đã đạt được nhiều
kết quả trong lãnh vực Đại kết. Toàn bộ Giáo hội Chính thống gồm có 15 Cộng
đoàn Giáo hội có quy chế riêng, được liên kết với nhau bằng cùng một đức tin và
một số kỷ luật nền tảng. Mỗi giáo hội trong 15 Cộng đoàn này đều tham gia vào
những cuộc đối thoại thần học chung.
Để tạo mối giây
liên lạc chung, Văn phòng hiệp nhất các tín hữu Kitô đã tạo nhiều cơ hội tiếp
xúc và đã tổ chức những cuộc đối thoại thần học qua một Uỷ ban hỗn hợp (1979).
Đã có những cuộc viếng thăm của Chủ tịch Văn phòng hiệp nhất các tín hữu Kitô,
những cuộc gặp gỡ nhân các dịp lễ hay những dịp khác. Một số phái đoàn thuộc
các giáo hội Chính thống cũng được nhiệt tình tiếp đón tại Roma. Những liên hệ
giữa Giáo hội công giáo và chính thống được thực hiện trong hai lãnh vực :
đối thoại thần học và đối thoại bác ái.
Năm 1975, nhân
dịp kỷ niệm 10 năm ngày tuyên bố huỷ bỏ vạ tuyệt thông giữa hai Giáo hội ( vạ
này được tuyên bố năm1054), Văn phòng hiệp nhất các tín hữu Kitô và Tòa Thượng
phụ Đại kết đã cùng nhau nghiên cứu và đưa ra những đề nghị cho việc tổ chức
những cuộc đối thoại thần học. Cuộc đối thoại thần học đã khai mào năm 1980 và
4 tài liệu đã được công bố :
- Mầu nhiệm
Giáo hội và Bí tích Thánh Thể, dưới ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi (Munich
1082)
- Đức tin, bí
tích và sự hiệp nhất trong Giáo hội (Bari, 1987)
- Bí tích
truyền chức trong cấu trúc bí tích của Giáo hội, đặc biệt là tầm quan trọng của
việc kế vị tông đồ đối với ơn Thánh hóa và sự hiệp nhất của Dân Thiên Chúa
(Finlande 1988).
- Phong trào
hiệp nhất, phương pháp hiệp nhất của quá khứ và những nghiên cứu hiện tại để
tiến tới sự hiệp thông trọn vẹn (Balamand, Liban, 1993).
Từ vài năm nay,
những vấn đề của qúa khứ và những khó khăn mới nảy sinh đã làm cho cuộc đối
thoại thần học bị ngừng trệ. Việc tái lập những cộng đoàn Giáo hội đông phương
bị xoá bỏ trong thời cộng sản đã sinh ra nhiều căng thẳng trong một vài Giáo
hội, nhất là ở Ukraine. CPPUC đã có
nhiều cố gắng để thiết lập và củng cố mối quan hệ với nhiều Giáo hội khác nhau
và đã đạt nhiều kết quả khả quan, như đối với Giáo hội Hy lạp và Tòa Thượng phụ
Serbie, với Tòa Thượng phụ Bulgarie và Roumanie. Tại Roumanie, một cử chỉ tượng
trưng quan trọng đã được thực hiện : ở Cluj, bốn phân khoa thần học (Chính
thống, Hy lạp Công giáo, La-tinh và Tin
lành) đã đồng quyết định trao tặng danh hiệu tiến sĩ danh dự cho Chủ tịch
CPPUC. Tại Roumanie, Uỷ ban hỗn hợp giữa Tòa Thượng phụ Roumanie và Giáo hội
Công giáo Hy lạp cùng hợp tác với nhau
để xúc tiến công việc chung. Một số hoạt động khác mang tính tượng trưng và như
những tín hiệu mừng cho mối quan hệ giữa Giáo hội công giáo và chính
thống :
+ Tuyên bố
chung giữa Đức Gioan Phaolô II và Đức Thượng phụ Bartholomêo đệ nhất, nhân chuyến viếng thăm Roma của Đức Thượng phụ dịp
lễ Thánh Phêrô và Phaolô vừa qua. Tuyên bố nêu rõ : Trách nhiệm của
chúng ta là tiếp tục xúc tiến công việc với mức độ sớm nhất có thể. Khi vận
dụng những sáng kiến của cả đôi bên, chúng ta cầu xin Thiên Chúa nâng đỡ ước nguyện của chúng ta và
thuyết phục mọi người có liên quan để thấy rằng xúc tiến đối thoại chân lý
là điều thực sự cần thiết.
+ Tháng 8-2004,
Đức Hồng Y W. Kasper, Chủ tịch CPPUC đã đại diện Đức Thánh Cha trao tặng bức
tranh Đức Mẹ Thiên Chúa Kazan cho Giáo hội Moscou và dân tộc Nga. Bức tranh
thánh có giá trị lịch sử này đã được trưng bày từ hơn 10 năm nay tại Phủ Giáo
Hoàng.
+ Ngày 27 tháng
11-2004, tại Rôma, chính Đức Gioan Phaolô
II trao tặng cho Đức Thượng phụ
Constantinople Bartholomêo đệ nhất Thánh tích của hai Thánh Jean Chrysostome và Thánh Grégoire de
Naziance. Trong nghi thức này, Đức Thánh Cha đã ngỏ lời với Đức Thượng
phụ : « Thưa Đức Thượng phụ, người Anh Em thân mến, tôi sẽ mãi mãi là người tôi trung của sự hiệp
thông » Thiết tưởng nên nhắc lại năm 1966, Đức Phaolô VI đã trao lại
cho Giáo hội Chính thống thánh tích của Thánh Andrée tại Patras.
Một số cuộc đối
thoại thần học khác cũng đã được tổ chức giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội
Chính thống, xoay quanh những đề tài như
quyền tối cao của Đấng kế vị Thánh Phê-rô, vai trò của Giám mục Rô-ma trong
những Công đồng chung. Những tranh luận thần học từ thời Công đồng Ephèse (431)
cũng được nhìn dưới chiều kích Đại kết : năm 1994, Đức Gioan Phaolô II và
Đức Thượng phụ Mar Dimkha đã tuyên bố
đức tin chung : « Đức Giê-su Chúa chúng ta là Thiên Chúa thật
và là người thật…. thiên tính và nhân
tính của Ngài kết hiệp với nhau trong
một ngôi vị duy nhất ». Và, tiếp theo : « vì lý do đó, Giáo hội
Assyrie đông phương cùng dâng lời cầu nguyện lên Đức Trinh nữ Maria, « Mẹ
Đức Kitô, Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ của chúng ta ». « Mẹ Đức Kitô »
là cách nói truyền thống của Giáo hội Công giáo. Chúng ta có thể dẫn chứng thêm
tuyên bố chung giữa Đức Gioan Phaolô II và Đức Giáo Chủ Công giáo Arménie
Karékine I năm 1996 về những vấn đề Kitô học đã được tuyên tín từ Công
đồng Nicée.
b)
Với anh em Tin lành
Các
cộng đoàn giáo hội xuất phát từ Giáo hội Cải cách rất đa dạng, cùng với những
dị biệt ngay trong chính mỗi cộng đoàn, như
Sắc lệnh đã nêu rõ: “Các Giáo hội và cộng đoàn giáo hội ấy vì sự dị
biệt nguồn gốc, giáo lý và đời sống tu đức chẳng những khác với chúng ta mà còn
khác biệt với nhau nữa...” (UR số 19). Tuy vậy, cũng trong số 19 của Sắc
lệnh, Công đồng dạy chúng ta: “Phải nhìn nhận rằng, có nhiều dị biệt quan
trọng giữa các Giáo hội và Cộng đoàn giáo hội ấy với Giáo hội công giáo, chẳng
những về phương diện lịch sử, xã hội,tâm
lý, văn hóa, nhưng nhất là về cách giải thích chân lý mặc khải”. Chúng ta
biết, những dị biệt này là những định tín về Giáo hội, về mối tương quan giữa
Tin mừng và Giáo hội, về cách chú giải Thánh kinh, về Huấn quyền về các bí tích
và các thừa tác viên có thánh chức.
CPPUC
trong thời gian qua đã tổ chức những cuộc đối thoại với anh em Tin lành trong
những đề tài được nêu trên. Hai trường hợp cần được nhắc tới cách đặc biệt, đó
là với anh em Anh Giáo và Tin lành Luther:
-
Với Cộng đoàn Anh giáo: năm 1981, một cuộc hội thảo về đề tài Bí tích
Thánh thể được thực hiện. Sau đó vài năm, một “Ủy ban quốc tế Anh Giáo -
Công Giáo Rôma vì sự hiệp nhất và sứ mạng truyền giáo” được thiết lập. Từ
năm 2003, một vấn đề nảy sinh làm cho mối quan hệ giữa Công giáo và Anh giáo
gặp trở ngại: đó là việc truyền chức linh mục cho phụ nữ. Tại một cộng đoàn Anh
giáo tại Hoa Kỳ, một người chủ trương đồng tính luyến ái được “truyền chức”
Giám mục đã gây nên những bất đồng và chia rẽ ngay trong chính nội bộ Giáo hội
Anh giáo.
-
Với Giáo hội Luther: Một Uỷ ban hỗn hợp
nhằm đối thoại đã nhóm họp năm 1967 và năm 1972 đã công bố một tài liệu
mang đề tài: “Tin mừng và Giáo hội”; Năm 1999, tuyên bố chung liên quan đến
Giáo thuyết về sự công chính hóa”. Đây là một bước tiến đáng kể trong quan hệ
của hai giáo hội.
Để
kết luận phần này, chúng ta có thể khẳng định rằng, trong những vấn đề liên
quan đến Đại kết, Sắc lệnh Unitatis Redintegratio đã được áp dụng và thực thi
cách nghiêm túc và có hiệu quả, nhìn chung trong Giáo hội công giáo cũng như với các tín hữu Kitô anh
em khác.
IV- MỘT LINH ĐẠO ĐẠI KẾT
Công
đồng Vatican II đã trình bày Giáo hội như một Giáo hội Hiệp thông. Thượng hội
đồng Giám mục năm 1985, tức là 25 năm sau Công đồng, đã tái khẳng định
đường hướng của Vatican II: “Giáo hội học về hiệp thông là ý tưởng chủ đạo và nền tảng
của các văn kiện Công đồng”.
Do
hoàn cảnh và những biến cố lịch sử, sự hiệp thông giữa các tín hữu Kitô vẫn còn
là sự hiệp thông chưa trọn vẹn (communion imparfaite). Tuy vậy đó là sự
hiệp thông thực sự (communion réelle) giữa các Giáo hội và Cộng đoàn
giáo hội khác nhau. Nhiều cố gắng đối thoại và hợp tác đã và đang được thực
hiện để hướng tới sự hiệp thông trọn
vẹn.
Bước
vào thiên niên kỷ thứ ba, Đức Gioan Phaolô II đã kêu gọi Giáo hội công giáo cổ
võ và thực hiện một nền linh đạo hiệp thông ( Novo Millennio số 43). “Linh
đạo hiệp thông”, đó là tên gọi mới của đời sống tu đức”.
Bà
Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolari, đã đề nghị chúng ta lược lại
đường hướng tu đức của Giáo hội trong hai thiên niên kỷ đã qua trong những cố
gắng thực hiện hai giới răn nền tảng,
theo Đức Giêsu, đã được quy tóm trong Lề luật và các Ngôn sứ: “Điều răn đứng
đầu là.... ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết
linh hồn,hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu
người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn
đó.” (Mc 12,29-31).
Ở thiên niên kỷ thứ nhất, sự tìm kiếm Thiên
Chúa được cụ thể hóa cách ưu tiên trong đời sống đan viện, nơi các tu sĩ chuyên lo đời sống cầu nguyện, hãm
mình phạt xác, trong sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa qua đời sống sa mạc.
Tuy nhiên, giới răn thứ hai, tức là tình yêu tha nhân, không vì thế mà bị quên
lãng. Chúng ta có thể lấy ví dụ như thành phố bác ái được Thánh Basile xây
dựng.
Sang
thiên niên kỷ thứ hai, tình yêu tha nhân được thể hiện dưới một chiều hướng
mới. Các tín hữu Kitô xác tín rằng, họ càng kết hiệp với Thiên Chúa thì chính
Thiên Chúa lại thúc đẩy họ yêu mến tha nhân, là những người đều được Chúa yêu
thương. Sự chú trọng đến những phong trào bác ái ở đầu thiên niên kỷ thứ hai đi
liền với việc đào sâu suy tư về nhân tính của Đức Giêsu.
Như
thế, nếu hai thiên niên kỷ trước được đánh dấu bằng tình mến dành cho Thiên
Chúa (thiên niên kỷ I) và tình yêu dành
cho tha nhân (thiên niên kỷ II), thì thiên niên kỷ thứ ba, tức thời đại chúng
ta, phải được đánh dấu bằng một giới răn khác mà Đức Giêsu truyền dạy các môn
đệ, giới răn mà Ngài gọi là “của Ngài” và là “giới răn mới”: “Thày
ban cho anh em một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 12,34).
Tất
nhiên, chiều kích tương quan hiệp thông không hoàn toàn vắng bóng trong hai
thiên niên kỷ đã qua trong linh đạo Kitô giáo, nhưng đó chỉ là kinh nghiệm cụ thể trong linh đạo
của một số cộng đoàn đan tu (ví dụ linh đạo của các nữ tu dòng Thánh
Clara...) mà chưa phải là một linh đạo đặt nền trên sự hiệp thông.
Ngày
nay, trong Giáo hội, chúng ta càng ngày càng
cảm nghiệm rõ ràng điều kiện thiết yếu để đến gặp gỡ Thiên Chúa và kết
hiệp với Ngài trong đời sống thánh thiện là qua cuộc gặp gỡ với tha nhân. Và
hơn nữa, sự bác ái tương quan lẫn nhau là nơi để nhận ra sự hiện diện củaThiên
Chúa và nhờ đó chúng ta được kết hiệp với Ngài. Như thế, tha nhân chính là
người bạn đồng hành để cùng nhau đến gần Thiên Chúa.
Ngày
nay, Chúa Thánh Thần, Đấng ban cho con người những đặc sủng khác nhau để
thực hiện chương trình củaThiên Chúa đã
ban cho Giáo hội những đặc sủng mới để
sống trong tình hiệp thông. Chính trong chiều hướng đó mà một linh đạo
mới được đề nghị: một linh đạo của sự hiệp nhất, trong lãnh vực cá nhân cũng
như tập thể. Đức Gioan Phaolô II đã nhắc tới sự tương đồng giữa “linh đạo hiệp
thông” với “linh đạo hiệp nhất”. Ngài đã viết cho Phong trào Focolari: “Linh
đạo hiệp nhất” hay “linh đạo hiệp thông” là đặc tính nổi bật của Phong trào của
các Bạn” (Gioan Phaolô II, sứ điệp gửi các thành viên nhân cuộc gặp gỡ quốc
tế của các Giám mục thân hữu của Phong trào Focolari,14-2-2001). “Linh đạo hiệp
nhất” là một đường hướng sống để thực hiện di chúc của Đức Giêsu: “Xin cho họ
nên một” (Ga 17). Sau đây là những đề
nghị cụ thể cho một linh đạo hiệp thông:
-
Xác tín nơi Thiên Chúa là Tình yêu và tôn nhận Ngài là lý tưởng sống của mình
-
Đáp trả tình yêu của Ngài bằng chính tình yêu của chúng ta, trong việc dấn thân
thực hiện Thánh Ý Ngài, chứ không phải thực hiện ý muốn của chúng ta.
-
Tìm Thánh Ý của Thiên Chúa trong Tin mừng và
nơi tình yêu đối với tha nhân. Thể hiện Lời Tin mừng qua chính cuộc sống
thường ngày để chiêm ngưỡng hình ảnh Đức Kitô và gặp gỡ Ngài trong mọi người,
vì Ngài luôn hiện diện giữa chúng ta bằng nhiều cách.
Khi
áp dụng một “linh đạo hiệp thông”, chúng ta có thể thực hiện điều Đức
Gioan Phaolô II mong ước: “làm cho Giáo hội trở thánh một ngôi nhà và một
mái trường của sự hiệp thông: đó là thách đố lớn mà chúng ta phải đối diện khi bước vào thiên niên kỷ thứ ba,
nếu chúng ta muốn trung tín với chương trình của Thiên Chúa và đáp lại niềm
mong đợi sâu xa nhất của cả nhân loại” (Novo Millennio Ineunte n. 43).
Chính linh đạo hiệp nhất là nền tảng và khởi điểm của việc dẫn đến một “linh
đạo Đại kết”, trong sự hiểu biết và thiện chí hợp tác với nhau để tiến tới
sự hiệp nhất trọn vẹn.
V- ĐẠI KẾT, MỘT CÔNG VIỆC ĐÒI HỎI KIÊN NHẪN
VÀ CAN ĐẢM
Khóa
họp Đại kết tại Roma tháng 11 năm 2004 là dịp nhìn lại những gì đã được thực
hiện trong 40 năm qua, kể từ khi công bố Sắc lệnh Hiệp nhất. Chúng ta vui mừng
vì những thành quả đã đạt được. Chúng ta hy vọng khi thấy những tín hiệu tốt
lành khởi sắc cho phong trào Đại kết. Tuy vậy, như Đức Gioan đã viết trong Ut Unum Sint: “Con đường tiến tới
sự hiệp nhất hữu hình của một Giáo hội duy nhất như ý muốn của Đức Kitô là một công việc đòi hỏi
sự kiên nhẫn và can đảm” (số 78). Những chia sẻ đóng góp của các tham dự
viên cho thấy còn nhiều bức xúc tại các giáo hội địa phương trong tiến trình
Đại kết: về một ngày thống nhất cho lễ Phục sinh, về quyền tối cao của Đấng Kế
vị Thánh Phê-rô, về sự hiệp nhất trong phụng vụ, về cách dùng một số danh từ
giáo lý và thần học...
1-
Một Đại kết thiêng liêng:
Nhân
dịp này, CPPUC đề nghị một bản hướng dẫn thực hành Đại kết (Vadememcum
oeucumenicum) nhằm tới một Đại kết thiêng liêng. (oeucuménisme
spirituel).
Đại kết thiêng
liêng trước hết là sự sám hối nội tâm để góp phần chữa lành những vết
thương của quá khứ do các cuộc ly giáo gây ra.
Thứ đến, Đại kết
thiêng liêng thể hiện qua lời cầu nguyện, cá nhân cũng như tập thể, cho sự hiệp
nhất các kitô hữu, vì lời cầu nguyện là linh hồn của mọi hoạt động Đại kết
(UR số 8). Khi chúng ta hợp lại với nhau để cầu nguyện như những người anh chị
em trong Chúa, chúng ta cảm thấy rõ ràng và mãnh liệt hơn ý muốn của Thiên Chúa
cho chúng ta hiệp nhất. Hơn nữa, chỉ có lời cầu nguyện chung mới có thể giúp
chúng ta sám hối nội tâm.
Sau cùng, Đại kết
thiêng liêng là sự chia sẻ những di sản thiêng liêng của truyền thống Kitô giáo được lưu giữ trong
nhiều cộng đoàn giáo hội khác nhau. Thánh Thần
của Thiên Chúa đã làm cho Giáo hội Đức Kitô phong phú bởi nhiều phương pháp
khác nhau trong việc đọc và suy niệm Thánh kinh, bởi sự đa dạng trong các lễ
nghi phụng tự công cộng cũng như cá nhân. Phương Đông và Phương Tây đã làm cho
Giáo hội thêm phong phú vì các đặc sủng của mình.
"Nếu
như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công" (Tv 127). Đại
kết được so sánh như một ngôi nhà đang được xây cất. Trong công trình này,
nhiều chuyên viên được mời tham gia. Những ai xây nhà phải đầu tư rất nhiều
bằng sự kiên nhẫn và khiêm tốn để rút ra những bài học về những sai lầm cũng
như thành công của mình.
2- Những đề
nghị cụ thể :
Sự chia rẽ giữa các tín hữu Kitô « hiển
nhiên vừa trái ngược với ý muốn của Chúa Kitô vừa là gương xấu cho thế giới và
phương hại cho công cuộc rất thánh thiện là rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật »
(UR số 1), vì nó đối nghịch với ý muôn của Chúa Kitô muốn cho mọi người nên
một. CPPUC đưa ra những đề nghị cụ thể như sau :
a) Lắng nghe
và loan báo Lời Chúa : các tín hữu Kitô không phân biệt đều được mời
gọi cộng tác để loan báo Lời Chúa, vì "không biết Kinh thánh là không
biết Đức Kitô" (Dei Verbum, số 25). Một số đề nghị về việc tổ chức
những buổi hội thảo, các khóa học hỏi Kinh thánh, cùng nhau phát hành những tài
liệu về Kinh thánh, tổ chức những "tuần đại kết", tổ chức huấn luyện
Đại kết cho tu sĩ, chủng sinh, giáo dân.
b) Cùng cử
hành đức tin : những buổi cầu nguyện chung, đọc Thánh vịnh, hát thánh
ca, những thánh lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô. Nhất là tuần
cầu cho sự hiệp nhất từ 18 đến 25 -01 hằng năm.
c) Đại kết
bằng chính cuộc sống : bằng những cố gắng đối thoại,bằng việc chia sẻ,
thực thi bác ái và cộng tác trong những mục đích phục vụ công ích.
Đại kết tại Việt nam
Theo Giáo sự
Đặng Nghiêm Vạn, trong cuốn "Lý
luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việtnam" do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2001 thì hiện nay tại
Việt nam có khoảng gần 400 000 tín hữu Tin lành với 159 mục sư và 456 người
truyền đạo, khoảng gần 500 cơ sở thờ tự (tr. 287). Như vậy, với tổng dân số
Việt nam là 82 000 000 người thì anh em Tin lành chiếm khoảng 0,4%. Số tín hữu
công giáo do Văn phòng HDGM VN thống kê tháng 10 năm 2004 là 5 667 428 người.
Nhìn chung, ở
Việt nam, các tín Công giáo và Tin lành sống hài hòa và tôn trọng lẫn nhau,
không có những tranh chấp đối nghịch. Tuy vậy, những cố gắng đối thoại Đại kết
giữa những tín hữu cùng tin Chúa Kitô ở Việt nam còn ở mức rất khiêm tốn. Hầu
hết các Giáo phận đều tổ chức cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong tuần 18-25
tháng 01 hằng năm. Chúng ta vui mừng thấy mối quan hệ giữa Giáo hội công giáo
và Anh em Tin lành những năm gần đây đã được cải thiện : một số Đại diện
Tin lành thường được mời dự các lễ nghi quan trọng của Công giáo như lễ tấn phong Giám mục, truyền chức linh mục,
những dịp kỷ niệm, những buổi lễ khánh thành thánh đường. Tại một số Giáo phận,
Anh Em Tin lành đã cộng tác với Cộng đoàn Công giáo địa phương tổ chức những buổi trình diễn Thánh ca, những
phòng triển lãm nghệ thuật thánh (như ở Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh), những
cộng tác chung trong việc từ thiện bác ái, giúp đỡ người nghèo (Giáo phận
Kontum…).
Kết luận :
Khóa họp Đại Kết tại Roma tháng 11-2004
là dịp nhìn lại những gì đã làm trong 40 năm qua để thực hiện Sắc lệnh Unitatis Redintegratio. Các thuyết trình
viên và tham dự viên của khóa họp này đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của Đại
kết, đó là lý do sống còn đối với tương lai của Giáo hội và là điều kiện tiên
quyết để công cuộc truyền giáo có hiệu quả. Một sự sám hối nội tâm, một linh
đạo hiệp nhất là sứ điệp gửi đến các tín hữu Kitô thuộc nhiều Giáo hội khác
nhau để lời cầu nguyện cũng là di chúc của Thày Chí Thánh được thực hiện :
"để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở
trong chúng ta" (Ga17,21).
+ Giuse Vũ văn Thiên
Giám mục Hải phòng