Phụng vụ và truyền giáo trong bối cảnh văn hóa hiện đại
WHĐ (27.07.2010) – Ngày 24.06.2010,
Đức cha Chaput OFM, Tổng giám mục giáo phận Denver, đã có buổi nói chuyện tại
Học viện Phụng vụ Chicago nhân kỉ niệm 10 năm thành lập học viện (2000-2010).
Đức Tổng Giám mục Chaput trình bày suy
tư về các vấn đề liên quan đến truyền giáo và việc canh tân phụng vụ Công giáo.
Ngài xem xét các vấn đề chính của việc cử hành phụng vụ hiện nay trong bối cảnh
của nền văn hóa Mỹ; đâu là sự phù hợp với phụng vụ Công giáo trong một nền văn
hóa đang đề cao công nghệ, khoa học và vật chất, nhưng lại biến mất những từ
ngữ diễn tả nhu cầu căn bản và sâu xa nhất của con người - niềm tin vào một
Thiên Chúa vô hình?
WHĐ giới thiệu cùng quý độc giả bài nói
chuyện này.
Bản tiếng Việt do Anh Khoa chuyển ngữ,
Đức Thành hiệu đính.
Nhan đề và các tiểu đề do Đức Thành đặt.
***
Tôi rất vinh dự có mặt ở đây tối nay.
Bài nói chuyện hàng năm này nhắc chúng ta nhớ Giáo Hội tại
Tầm nhìn của quý Đức Hồng y Mundelein và
Stritch, cùng với những nỗ lực mang tính tiên phong của các linh mục như Đức
Ông Hillenbrand và các nhà hoạt động tông đồ giáo dân như anh chị em trong
Phong trào Gia đình Công giáo, đã mang lại nhiều kết quả đáng kể. Các vị ấy đã
cống hiến cho Giáo Hội lòng nhiệt thành tông đồ, qua đời sống thờ phượng và
chứng tá của người Công giáo được duy trì gần một thế kỷ qua trong nền văn hóa
này.
Vì vậy, tôi rất hạnh phúc khi được góp
một số suy tư vào mối quan tâm của Học viện.
Thực tế cho thấy, dịp Học viện Phụng vụ
kỷ niệm 10 năm thành lập, nhắc cho chúng ta nhớ rằng những di sản thuộc giáo
phận
Tôi là một thành viên của Uỷ ban Phụng
tự trực thuộc Hội đồng giám mục và được vinh dự làm việc với Đức Hồng y George
nhằm tiếp tục đẩy mạnh nội dung chủ yếu của việc canh tân phụng vụ - còn về bản
dịch Anh ngữ ấn bản mới của Sách Lễ Rôma, có thể sẽ bắt đầu áp dụng tại Hoa Kỳ
vào năm tới.
Nhưng tối nay tôi đến đây không phải để
nói về Sách Lễ mới, mà được yêu cầu trình bày về những vấn đề rộng lớn hơn của
công cuộc truyền giáo và canh tân phụng vụ. Cũng xin lưu ý các bạn: những suy
nghĩ sẽ chia sẻ với các bạn tối nay chỉ là của cá nhân tôi. Tôi không phát biểu
thay cho bất kỳ anh em giám mục nào của mình, hoặc cho Hội đồng giám mục, và
tôi rất vui khi tuân theo những nhận định của Đức Hồng y George về mọi vấn đề
liên quan đến Công giáo.
Con người ngày nay đang mất dần cảm thức
phụng vụ?
Tôi muốn bắt đầu buổi trò chuyện của
chúng ta về một sự kiện ở nơi khác. Đó là tại thành phố
Đó là những ngày rất bận rộn. Nhóm làm
việc đã họp tại
Mặc dù không thể tham dự, nhưng cha
Guardini đã gửi một thư ngỏ, khá dài, được đọc trong Hội nghị. Trong thư, cha
ca ngợi công trình của Công đồng Vatican II là một minh chứng hùng hồn về sự
hoạt động và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội. Ngài nhận thấy Hiến
chế về Phụng vụ Thánh mở ra một giai đoạn mới cho lĩnh vực phụng vụ.
Phần lớn bức thư của cha trình bày suy
tư phức hợp về ý nghĩa của phụng tự. Và trong những dòng cuối cùng, ngài đưa ra
một ý kiến gây kinh ngạc. Cha viết:
“Phải chăng hành động phụng vụ, kể cả
dưới danh nghĩa phụng vụ, không liên quan gì đến bối cảnh văn hóa (cổ đại,
trung đại, cận đại), thậm chí loại bỏ hoàn toàn mối liên hệ này thì tốt hơn?
Cũng vậy, phải chăng con người thời đại công nghiệp và khoa học, với cơ cấu xã
hội mới, sẽ chẳng còn khả năng tham gia hành động phụng vụ nữa?” (i)
Nhận xét của cha Guardini đã khiến nhiều
người choáng váng, nhưng không hẳn là các nhà thần học hoặc các nhà phụng vụ
chưa bao giờ lưu ý đến mối quan tâm của ngài một cách nghiêm túc. Theo tôi nghĩ,
ngài đã chỉ ra một trong những vấn đề then chốt liên quan đến sứ vụ vào thời
của ngài, và cả thời của chúng ta nữa.
Cha Guardini cho rằng hành động phụng vụ
là sự biến đổi lời cầu nguyện cá nhân và lòng đạo đức thành phụng vụ của cộng
đoàn, leitourgia, thành sự thờ phượng chung Giáo hội dâng lên Chúa. Cha
nhận ra lời cầu nguyện chung của Giáo hội rất khác với lời cầu nguyện riêng của
các tín hữu.
Hành động phụng vụ đòi hỏi chúng ta phải
có một nhận thức mới, một thái độ “sẵn sàng đối với Chúa”, một ý thức nội tâm
thống nhất toàn bộ con người, thân xác và linh hồn, cùng hợp với thân mình
thiêng liêng của Hội Thánh trên thiên quốc và tại trần gian. Điều này cũng đòi
chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa các dấu chỉ thiêng liêng và các hành động trong
Thánh lễ như: đứng, quỳ, hát…, tất cả đều là “cầu nguyện”.
Cha Guardini cho rằng tinh thần của thế
giới hiện đại đang làm suy yếu niềm tin vốn tạo ra ý thức về phụng vụ. Cha có
cái nhìn sâu sắc khi cho rằng đức tin và việc thờ phượng của chúng ta không
diễn ra trong trống rỗng. Chúng ta luôn có liên hệ với những sản phẩm nền văn
hóa của mình. Những chuẩn mực ý nghĩa và những nhận thức của chúng ta về thực
tại đều được hình thành từ nền văn hóa mà chúng ta đang sống, bất kể chúng ta
có thích hay không.
Tôi muốn đem những thách đố của cha
Guardini đặt vào bối cảnh nước Mỹ hiện nay của chúng ta.
Hãy cùng xem xét một số bằng chứng:
chúng ta đang sống trong một xã hội được tổ chức theo nguyên tắc tiến bộ của
công nghệ, khoa học và các điều kiện vật chất. Điều đó cho thấy, nền văn hóa
của chúng ta bị thống trị bởi sự vượt thắng của thế giới quan khoa học và vật
chất. Chúng ta đánh giá cái “thật”, cái “đúng” dựa trên những gì thấy được, sờ
được và xác minh được thông qua nghiên cứu và thực nghiệm.
Trong bối cảnh nền văn hóa như vậy, liệu
còn có ý nghĩa không quan niệm truyền thống của Công giáo cho rằng: con người
được tạo ra theo hình ảnh của Đấng Thiên Chúa vô hình; con người là một thụ tạo
có thân xác và linh hồn, được đổ đầy “tinh thần làm con” (ii) qua cử hành phụng
vụ và các bí tích?
Trong thực tế, hầu như những điều người
Công giáo tin đã không được nền văn hóa của chúng ta thừa nhận. Ngay cả ý nghĩa
của các từ “con người” và “nhân vị” là những đề tài đang gây tranh cãi. Ngoài
ra những điều trong Giáo lý Công giáo cũng đang bị người ta thẳng thừng bác bỏ
hoặc dửng dưng.
Câu hỏi đặt ra là: Điều gì tác động đến
tất cả việc thờ phượng của chúng ta, qua đó chúng ta tuyên xưng linh hồn và thể
xác được gặp gỡ các thực tại thần linh, được ca hát với các thiên thần và các
thánh trên trời, được đón nhận Mình thật và Máu thật của Chúa chúng ta, Đấng đã
chết và sống lại, nay đang ngự nơi bàn thờ?
Một dữ kiện khác: trong cuộc sống hằng
ngày, chúng ta bị giam hãm bởi những tượng đài tôn vinh sức mạnh của chúng ta
trong việc chiến thắng thiên nhiên và đáp ứng các nhu cầu. Đâu đâu cũng thấy
các chiến lợi phẩm trong việc giành được quyền làm chủ và thỏa mãn, nào các tòa
building, nào máy móc, thuốc men, nào những phát minh. Mọi thứ có vẻ như muốn
nói lên rằng, với tri thức và công nghệ, chúng ta có thể đáp ứng mọi nhu cầu
của mình.
Một lần nữa câu hỏi đặt ra là: đâu là
tiền đề chính cho việc thờ phượng của chúng ta, những thụ tạo phụ thuộc vào
Đấng Tạo Hóa? Phải chăng cử hành phụng vụ là thực hiện bổn phận tạ ơn Chúa về
mọi ơn huệ Chúa ban, mà khởi đầu là ơn sự sống?
Từ những vấn đề đang được đặt ra cho
phụng vụ, chúng ta có thể đặt những câu hỏi tương tự về sứ mệnh truyền giáo.
Chúng ta rao giảng tin mừng thế giới này
có một Vị Cứu tinh, Đấng giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự
chết. Tin mừng đó có mang lại ý nghĩa nào cho con người đang sống trong một thế
giới không còn tin vào tội lỗi nữa, hoặc thấy mình cần được cứu chuộc không?
Lời hứa chiến thắng sự chết có ý nghĩa gì đối với những người không tin vào sự
hiện hữu của bất cứ điều gì ngoài thế giới hữu hình này?
Như thế, phải chăng cha Guardini có lý?
Phải chăng con người hiện đại dường như không còn khả năng cử hành phụng vụ
đích thực? Tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng câu hỏi quan trọng hơn đối với chúng ta
là: nếu vấn đề của cha Guardini đưa ra là đúng, chúng ta sẽ giải quyết thế nào
đây?
Trong
số những người đã chống lại những vấn đề cha Guardini nêu ra, có cha Robert
Barron, một linh mục người Chicago. Ngài đã có những đóng góp quan trọng trong
việc canh tân sự hiểu biết và phụng vụ của Giáo Hội.
Cha
Barron đặt vấn đề như sau: “Công trình này không ảnh hưởng đến phụng vụ theo
những giả thuyết đương thời đặt ra, nhưng cho phép phụng vụ đưa ra câu hỏi và
định hướng các giả định của bất cứ thời nào. Phải chăng con người hiện đại
không còn khả năng tham gia phụng vụ nữa? Có thể lắm. Nhưng điều này không có
căn cứ để chúng ta thất vọng. Mục đích của chúng ta không phải là làm cho phụng
vụ thích nghi với thế giới, mà là để cho phụng vụ được là chính nó, nghĩa là
một biểu tượng chuyển hóa nghi lễ của Thiên Chúa.
Cha
Barron cho rằng trong thời kỳ hậu công đồng, nhóm chuyên viên phụng vụ Công
giáo lại chọn cho mình con đường cũ, là cố gắng thích nghi phụng vụ với các nhu
cầu của nền văn hóa hiện đại. Có lẽ tôi đồng ý. Và tôi xin thêm rằng thời gian
qua đã cho thấy điều này dẫn đến kết cục bi thảm. Cố làm cho phụng vụ trở nên
“hợp thời” và “dễ hiểu” bằng sự tôn thờ cái mới, chỉ có thể dẫn đến sự nhầm lẫn
và khơi thêm sự phân rẽ giữa các tín hữu và tinh thần phụng vụ đích thực. (iii)
Cần
có một cảm thức mới về Bí tích và Phụng vụ
Tôi
đến đây không nhằm bàn cãi về những cuộc tranh luận đã qua. Chúng ta phải nhìn
vào Chúa Giêsu Kitô. Điều đó có nghĩa là chúng ta cần phải tiếp tục giải quyết
thách đố do cha Guardini đưa ra.
Nhiệm
vụ quan trọng tiếp theo của việc canh tân phụng vụ là xây dựng một nền văn hóa
Thánh Thể đích thực, là truyền một cảm thức mới về bí tích và phụng vụ nhằm
giúp người Công giáo có thể đối mặt với những thần tượng và những giả định của
nền văn hóa chúng ta với lòng tín thác của người tín hữu đang khắc họa cuộc
sống từ những mầu nhiệm thánh, nơi chúng ta được hiệp thông với Thiên Chúa hằng
sống.
Chúng
ta cần phải khám phá những cách thức mới để tham gia vào mầu nhiệm phụng vụ, để
nhận ra chỗ đứng trung tâm của phụng vụ trong kế hoạch cứu độ của của Thiên
Chúa; để thật sự làm cho cuộc sống của chúng ta thành của lễ thiêng liêng dâng
lên Thiên Chúa; và đảm nhận mọi trách nhiệm của chúng ta đối với sứ vụ của Giáo
Hội bằng một linh đạo Thánh Thể được đổi mới.
Tôi hy vọng phần còn lại của bài nói
chuyện sẽ đóng góp một phần nhỏ cho công việc tiếp theo của chúng ta về việc
đổi mới.
Phụng vụ được canh tân theo tinh thần
nào?
Tôi xin trình bày bốn điểm sau.
Thứ nhất, chúng ta cần phải phục hồi
mối liên kết nội tại và không thể tách rời giữa phụng vụ và truyền giáo.
Phụng vụ vừa là nguồn gốc vừa là mục
đích sứ mạng của Giáo Hội. Đây là lệnh truyền của Chúa Kitô và thực hành của
Giáo Hội sơ khai. Điều này đã được Công đồng Vatican II tái khẳng định.
Hiến chế về Phụng vụ Thánh dạy rằng:
“Phụng vụ là đỉnh cao hướng dẫn hoạt động của Giáo Hội; đồng thời là suối nguồn
trào tuôn sức mạnh của Hội Thánh. Vì thế, mục tiêu và đối tượng của mọi hoạt
động tông đồ là tất cả những người được làm con cái Thiên Chúa, nhờ đức tin và
qua Bí tích rửa tội, sẽ tuôn đến hợp dâng lời chúc tụng Chúa giữa lòng Giáo Hội
của mình, tham dự vào lễ tế hy sinh, và ăn bữa Tiệc Ly của Chúa”. (iv)
Đây là một viễn tượng tuyệt đẹp về một
cuộc sống phát sinh từ Thánh Thể và vì Thánh Thể. Điều này phải là
nền tảng không chỉ đối với suy tư của chúng ta về phụng vụ mà còn đối với các
kế hoạch mục vụ của chúng ta. Sở dĩ chúng ta truyền giáo là để đưa mọi người
vào hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống trong phụng vụ Thánh Thể. Mặt khác
chính kinh nghiệm hiệp thông với Thiên Chúa sẽ thúc đẩy chúng ta truyền giáo.
Trong chiều hướng này, nghi thức mới về
Thánh Lễ được ban hành sau Công đồng, quả là một hồng ân Chúa ban cho
Giáo Hội. Phụng vụ mang lại cho chúng ta lòng nhiệt thành truyền giáo và thánh
hóa thế giới. Ngôn ngữ địa phương đã giúp khai thác nội dung của phụng vụ trong
những cách thức mới. Điều này đã khuyến khích người giáo dân tham dự cách năng
động và sáng tạo - không chỉ trong phụng vụ, mà còn trong mọi khía cạnh của sứ
vụ của Giáo Hội.
Nhân đây, cũng nên nhắc lại, tôi rất
biết ơn Đức Thánh Cha đã cho phép sử dụng rộng rãi nghi thức Thánh lễ của Công
đồng Tridentino - không phải vì cá nhân tôi thích nó, nhưng do chúng ta cần
tiếp nhận tất cả các di sản về cầu nguyện và đức tin của Giáo Hội. Thật sự, tôi
thấy Novus Ordo (Nghi thức mới) nếu được cử hành một cách xứng hợp sẽ
diễn tả rất phong phú ý nghĩa việc thờ phượng.
Vì vậy, điều trước tiên tôi muốn đề cập,
là chúng ta không thể tách bạch phụng vụ khỏi sứ vụ của chúng ta. Việc phụng
thờ Thiên Chúa trong Thánh lễ được hiểu như là một hành động tôn thờ, quy phục
và tạ ơn. Điều đó cũng có nghĩa là yêu mến đón nhận ơn gọi làm môn đệ. Đó là lý
do tại sao việc cử hành phụng vụ Thánh Thể được kết thúc bằng dấu chỉ truyền
giáo - chúng ta được sai đi, được trao sứ vụ chia sẻ với tất cả mọi người kho
tàng chúng ta đã khám phá trong thánh lễ.
Thứ hai, phụng vụ là sự tham dự vào
cuộc cử hành trên trời; nơi đó, chúng ta thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí
và Sự thật, cùng với toàn thể Giáo Hội khắp hoàn cầu và các Thánh cùng thông
công. (v)
Có lẽ đây là khía cạnh bị lãng quên nhất
trong cử hành phụng vụ hiện nay. Nếu phụng vụ hướng chúng ta về phía trước như
là khách lữ hành, thì việc cử hành của chúng ta lại chỉ hướng vào cộng đoàn và
chú trọng những nhu cầu riêng một cách tỉ mỉ hẹp hòi; nếu không còn ý thức sâu
xa về sự linh thánh và siêu việt, cũng là do chúng ta đã đánh mất ý thức cần
phải làm gì để việc thờ phượng của mình có thể dự phần vào cuộc cử hành phụng
vụ trên trời.
Để hiểu rõ điều này hơn, chúng ta nhớ
lại câu chuyện truyền thuyết về sự du nhập Kitô giáo vào nước Nga. Chuyện xảy
ra vào khoảng năm 988, ông hoàng Vladimir I của
Các sứ giả bị chinh phục trước lòng sùng
mộ tôn thờ Thánh Thể. Họ trở về và tường trình cho ông hoàng: “Chúng tôi đã đến
Hy Lạp và được các tín đồ Thiên Chúa giáo đưa đến nơi thờ phượng Thiên Chúa của
mình... Chúng tôi không còn biết mình đang ở trên trời hay dưới đất... Chúng
tôi chỉ biết rằng có Thiên Chúa ngự ở giữa con người” (vi). Không lâu sau đó,
Sự tích này đã có từ xưa, và nhiều nhà
sử học ngày nay cho rằng câu chuyện được hư cấu. Tuy nhiên, câu chuyện đã phản
ánh những chiều kích vũ trụ và truyền giáo của phụng vụ.
Những cảm nhận về cử hành Thánh Thể được
các sứ giả của ông Hoàng xứ Kiev thuật lại cho thấy Bí tích Thánh Thể là một cử
hành phụng vụ mang tính vũ trụ, đã hợp nhất việc thờ phượng trên trời và dưới
thế. Trong Phụng Vụ Thánh, Vương quốc hình thành ở trần gian giống như Vương
quốc ở trên trời. Trời Đất đầy vinh quang của Thiên Chúa. Đây là điều mà tất cả
chúng ta tin, nhưng tôi không biết là có được bao nhiêu người tín hữu thật sự sống
điều đó.
Chúng ta thấy phụng vụ trên trời được
trình bày trong sách Khải huyền. Hãy nhớ lại sách Khải huyền được bắt đầu như
thế nào. Đó là lúc Thánh Gioan “sống trong Thần Khí vào Ngày của Chúa”. Nói
cách khác, khi đang cử hành phụng vụ Thánh Thể vào một Chúa nhật thì ngài được
thị kiến việc thờ phượng trên trời và thế giới sắp đến. (vii)
Cuốn sách đầy dẫy những hình ảnh phụng
vụ và bí tích. Có một chỗ Thánh Gioan thấy một đám đông nhiều vô kể từ các bộ
tộc, ngôn ngữ, mọi dân nước đang thờ phượng trước Con Chiên - Thánh Thể. Đỉnh
điểm của cuốn sách là sự xuất hiện “một trời mới đất mới” và tiếng hô to: “Này,
Thiên Chúa đang ở giữa con người”.
Có hai điểm tôi muốn làm rõ ở đây: Trước
tiên, việc thờ phượng của chúng ta là một biểu tượng mọi sự trên trời; là cửa sổ
chúng ta ghé mắt nhìn thấy được thực tại và số phận của đời sống. Tiếp theo,
phụng vụ trên trời đóng một vị trí quan trọng đối với tính phổ quát của sứ vụ
trong Giáo Hội.
Theo cái nhìn của Công giáo về lịch sử,
kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa nhắm đến tột đỉnh của nghi thức phụng vụ mang
tính vũ trụ, trong đó tất cả mọi loài thọ tạo ca ngợi và làm vinh danh Thiên
Chúa, Đấng Dựng nên muôn loài. Chúng ta được cảm nếm trước sự hoàn tất của lịch
sử mọi thời đại qua phụng vụ mà chúng ta đang cử hành nơi trần thế.
Chân lý này biến đổi cách thức thờ
phượng của chúng ta. Nó sẽ gợi lên trong chúng ta lòng biết ơn đối với Thiên
Chúa vì Ngài ban cho chúng ta đặc ân được cùng với các Thiên thần và các Thánh
thờ phượng trước nhan Ngài. Nó sẽ làm cho chúng ta vươn tới sự tôn kính và vẻ
đẹp của phụng vụ, và hướng lòng trí của chúng ta đến những thực tại trên.
Chân lý này cũng làm chúng ta thay đổi
cách công khai làm chứng trong nền văn hóa này. Chúng ta được kêu gọi để làm
chứng cho Chúa Giêsu Kitô, để làm cho lời của Ngài được nhiều người biết đến,
để chiến đấu chống lại tất cả những gì xúc phạm đến sự thánh thiện và công bình
của Thiên Chúa. Chúng ta cần phải hiểu rõ sứ mệnh của chúng ta trong ánh sáng
kế hoạch lớn lao của Thiên Chúa, kế hoạch có trước khi tạo thành thế giới.
Mục đích cuối cùng của đời sống chứng tá
là chuẩn bị con đường cho việc cử hành phụng vụ của vũ trụ, trong đó tất cả
nhân loại sẽ thờ lạy Đấng Dựng nên muôn loài. Qua việc thờ phượng, chúng ta
được tham dự vào kế hoạch cứu độ mà chính Chúa Kitô vẫn đang tiếp tục hoà giải
tất cả mọi loài, cho đến khi trên trời và dưới đất đều quỳ gối phụng thờ, và
như Thánh Phaolô nói: Thiên Chúa là “tất cả trong mọi sự”. (viii)
Thứ ba, chúng ta phải nỗ lực phục hồi
và sống với linh đạo truyền giáo và phụng vụ sống động như các Kitô hữu tiên
khởi.
Từ sau Công đồng đến nay, có một vài
quan niệm phụng vụ không thích hợp được dựa trên tư tưởng lãng mạn mơ hồ về
những gì các Kitô hữu tiên khởi tin tưởng và cách họ tôn thờ. Vấn đề này đã
được đem ra tranh luận; ví dụ, đó là trong Giáo Hội sơ khai không có chức linh
mục và Thánh Thể được cử hành với nghi thức ngắn gọn, giống như bữa ăn với bạn
bè.
Tôi sẽ không muốn mất thời gian để phản
biện. Vấn đề đối với mọi cố gắng xây dựng lại phụng vụ mang tính hoài cổ, trở
lại thời sơ khai, có thể nói tóm gọn như sau: không ai lại để mình bị tra tấn
và chết vì một bữa ăn với bạn bè. Vào thời Giáo hội sơ khai, những ai bị phát
hiện đang cử hành Thánh Thể sẽ chịu hình phạt, hành hạ tra tấn đến chết.
Có vô số những câu chuyện chúng ta có
thể nói đến. Tôi đặc biệt cảm động về câu chuyện xảy ra vào năm 304, trong thời
kỳ đại bách hại của Diocletius. Câu chuyện về một cộng đoàn tu sĩ ở Abitina,
một ngôi làng gần
Khi bị tra hỏi tại sao không tuân lệnh
hoàng đế cấm không cho dâng Thánh lễ, một thầy đọc sách còn trẻ tên là Felix
nói: “Lẽ nào một Kitô hữu mà không dâng Thánh lễ, và lẽ nào một Thánh lễ mà
không có tín hữu Kitô!... Người Kitô hữu tồn tại nhờ có Thánh lễ và Thánh lễ ở
trong Kitô hữu! Cả hai cùng tồn tại không thể thiếu nhau… Chúng tôi cử hành
cuộc quy tụ vinh quang. Chúng tôi họp nhau lại trong Thánh lễ để cùng đọc Sách
Thánh của Chúa chúng tôi”. (ix)
Chúng ta nhận thấy trong lời tuyên xưng
này có cùng một chủ đề chúng ta đang nói đến. Đối với các người môn đệ này,
Thánh lễ không chỉ là bữa ăn mà chính là “cuộc quy tụ vinh quang”, một cử hành
phụng vụ trên trời. Phụng vụ này xác định căn tính của người Kitô hữu, đồng
thời cũng xác định rõ căn tính của Giáo Hội; đến độ một trong những người bạn
tử đạo của Felix đã tuyên xưng rằng: “Chúng tôi không thể sống mà không có
Thánh lễ”.
Đây chính là niềm tin truyền cảm hứng
cho chúng ta trong việc thờ phượng. Và cũng là đức tin mang cảm hứng phượng
thờ. Vậy phải chăng hôm nay chúng ta có thể thật sự nói rằng mình sẵn sàng
chết chứ không thể không có Thánh Lễ?
Phụng vụ chỉ có thể truyền cảm hứng cho
chúng ta nếu chúng ta đặt phụng vụ làm trọng tâm của đời sống mình. Và đó là
một nhiệm vụ của chúng ta, những người đang hiện diện nơi đây. Trung tâm của
một nền văn hóa Thánh Thể mới phải là việc cử hành Thánh lễ chúa nhật. Không có
biểu hiện tác động văn hóa nào lớn hơn đối với cử hành Thánh Thể bằng thực tế
là chúng ta không còn coi ngày chúa nhật là ngày thứ nhất trong tuần mà là ngày
cuối của “cuối tuần” của mình.
Chúa Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết
vào “ngày thứ nhất trong tuần” (x). Đó là lý do các Kitô hữu tiên khởi coi ngày
chúa nhật, ngày của Chúa, là “lễ Phục sinh trong tuần”. Vì thế chúng ta cũng
cần coi trọng ngày chúa nhật như vậy.
Thánh lễ là tặng phẩm thiêng liêng giúp
chúng ta bắt đầu một tuần mới của mình. Thánh lễ không phải là điều chúng ta cố
gắng “chêm vào” những hoạt động giải trí của chúng ta trước khi trở lại làm
việc vào thứ hai. Ngay cả sự thay đổi tinh tế trong cái nhìn này có thể tạo ra
tác động sâu sắc đến cách thức chúng ta thờ phượng và cách chúng ta sống đức
tin trong thế giới.
Thứ tư, và cũng là cuối cùng, phụng
vụ là trường học của tình yêu hiến tế.
Luật cầu nguyện của chúng ta phải thành
luật sống. Lex orandi, lex vivendi. Chúng ta đang trở nên của lễ
hiến tế do chính chúng ta dâng lên.
Thật ấn tượng biết bao về những câu
chuyện kể về các Kitô hữu tử đạo tiên khởi, nhất là về các giám mục và linh
mục, được nói đến trong điều mà chúng ta có thể gọi “bí quyết Thánh Thể”. Một
câu chuyện có tính kinh điển chính là cuộc tử đạo của thánh Pôlycarpô, vị giám
mục lão trượng. Toàn bộ trình thuật diễn ra theo trình tự của cử hành phụng vụ.
Thánh Pôlycarpô đã dâng một lời cầu nguyện dài. Lời cầu nguyện này trở thành
khuôn mẫu của phần sau lễ quy Thánh Thể trong thánh lễ.
Cuối cùng một câu hỏi của thánh
Pôlycarpô nay vẫn vang vọng trong lời nguyện Thánh lễ: “Liệu hôm nay tôi có
được Chúa đón nhận như một hiến lễ dồi dào và xứng đáng không?” Trình thuật
tiếp tục kể về việc ngài lúc bị thiêu sống. Các nhân chứng quả quyết họ ngửi
thấy không phải mùi thịt cháy, mà là mùi thơm của tấm bánh được bẻ ra (xi).
Một bằng chứng kinh điển khác là câu
chuyện thánh Inhaxiô, giám mục thành Antiôkia. Trong lúc ở tù đợi ngày chết
bằng cách bị ném cho chó ăn thịt, ngài viết như sau: “Tôi là hạt lúa mì của
Chúa, bị nghiền nát bởi răng của loài dã thú, trở thành bằng cớ chứng minh tôi
là tấm bánh tinh tuyền của Chúa Kitô” (xii).
Không chỉ các vị tử đạo mới thấy mình là
của lễ trong bí tích Thánh Thể, mà chính các bạn và tôi cũng làm nên của lễ như
vậy. Mọi tín hữu đã chịu phép Rửa cũng là như thế. Đọc đi đọc lại trong Tân
Ước, thì thấy tất cả chúng ta đều được mời gọi dâng hiến chính mình, làm
hiến vật chúc tụng sống động, dâng lên Thiên Chúa, điều này sẽ làm cho chúng ta
trở nên của lễ hoàn hảo, thánh thiện và được Thiên Chúa chấp nhận (xiii).
Đây là nền tảng hình thành niềm tin Công
giáo vào chức tư tế của tất cả những ai được chịu phép Rửa. Các Kitô hữu tiên
khởi tin rằng họ được thừa kế ơn gọi dành cho
Chúng ta dâng hiến lễ chúc tụng trước
hết và trên hết trong cử hành Thánh Thể. Đó là lời mời gọi của công đồng về
sự “tham dự tích cực” của giáo dân trong phụng vụ (xv). Chẳng may, cách
nói này đã bị lạm dụng, coi đó là sự cho phép mở ra những hoạt động hình thức
ồn ào bên ngoài ngay trong việc thờ phượng, vốn là điều công đồng không nhắm
đến.
“Tham gia tích cực” dùng để chỉ sự tác
động bên trong linh hồn chúng ta, chỉ sự tham dự nội tâm của chúng ta vào hành
động của Chúa Kitô hiến dâng Mình và Máu mình. Điều này đòi hỏi phải có không
gian thinh lặng và “những điểm dừng” trong sự thờ phượng của chúng ta, vì những
yếu tố đó giúp chúng ta có thể tập trung những cảm xúc và suy nghĩ của mình, và
thực hiện một hành động có ý thức về sự tự hiến. Chúng ta hãy “nâng lên tâm hồn
lên” và trong tâm tình thống hối và khiêm nhường được dâng trên bàn thờ cùng
với bánh và rượu.
Nhưng công việc của chúng ta không dừng
lại trong Thánh lễ.
Tất cả những gì trong ngày sống của mình
– công ăn việc làm, những đau khổ, kinh nguyện, và làm việc tông đồ – tất cả
những gì chúng ta làm và trải nghiệm đều được dâng lên Thiên Chúa làm của lễ
thiêng liêng. Tất cả những gì chúng ta làm cho thai nhi, người nghèo và người
tàn tật; tất cả những gì chúng ta làm vì quyền của người nhập cư được hưởng sự
công bằng và cho phẩm giá của hôn nhân, gia đình: Tất cả những điều đó
phải được dâng lên như lời ngợi khen và vinh danh Thiên Chúa cũng như phần rỗi
của anh chị em mình.
Đây là một giáo huấn lớn lao khác của
Công đồng, cho chúng ta biết mình phải tiến vào linh đạo Công giáo trong các
nghi lễ. Trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội Lumen Gentium, Công đồng dạy
rằng: tất cả những việc chúng ta làm “hợp cùng của lễ Thân Mình Chúa Kitô đều
được dâng lên rất đẹp lòng Chúa trong cử hành Thánh Thể. Như vậy, giáo dân đã
dâng chính thế giới lên Thiên Chúa mỗi khi thờ phượng Ngài bằng hành động thánh
này ở bất cứ nơi đâu” (xvi).
Tất cả những việc chúng ta làm – trong
phụng vụ và trong cuộc sống của chúng ta trên thế giới – là lễ tế hiến dâng thế
giới này lên Thiên Chúa.
Hãy biến đời mình thành cuộc cử hành
phụng vụ. Chính các bạn là người canh tân phụng vụ.
Kết luận: Tôn vinh Thiên Chúa bằng chính
cuộc sống
Vì vậy, các bạn thân mến, chúng ta trở
lại vấn đề thảo luận ban đầu.
Đây là câu trả lời cho thách thức của
Cha Guardini. Bạn chính là câu trả lời cho thách thức của ngài.
Hành động phụng vụ đối với con người
hiện đại là điều có thể thực hiện được, khi bạn làm cho cuộc sống của mình
thành một cuộc cử hành phụng vụ, khi bạn sống tinh thần phụng vụ, làm cho
đời mình thành một lễ tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa đã ban các ơn và cứu chuộc
bạn. Bạn chính là tương lai của cuộc canh tân phụng vụ.
Hành động phụng vụ đối với con người
hiện đại là điều có thể thực hiện được, khi bạn nhìn cuộc sống và việc làm của
mình dưới ánh sáng kế hoạch của Thiên Chúa đối với thế giới này, dưới ánh sáng
ý Chúa muốn cho mọi người nam và nữ đều được cứu độ và nhận biết chân lí
(xvii).
Mầu nhiệm chúng ta cử hành cùng với các
thiên thần và các thánh phải được cắm rễ sâu vào đời sống và nhân cách của
chúng ta. Mầu nhiệm đó phải sinh hoa kết quả. Mỗi người chúng ta phải đóng góp
phần độc đáo của mình vào kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa – đó là mọi thụ
tạo trở nên sự tôn thờ và hy tế ngợi khen Thiên Chúa.
Cảm ơn các bạn đã chăm chú theo dõi.
Thật phù hợp để chúng ta đi đến kết luận và tiến về phía trước với lời nguyện
giải tán trong Sách lễ Rôma mới. Vậy, trong buổi tối hôm nay, mỗi người chúng
ta hãy dành cho nhau lời nguyện chúc này: “Hãy ra đi trong bình an và tôn vinh
Thiên Chúa bằng cuộc sống của bạn”.
+ Charles J. Chaput OFM Cap, Tổng
giám mục giáo phận
–––––––––––––––––––––––––––––––––
Chú thích:
i. x. Robert Krieg, Romano
Guardini: A Precursor of
ii. x. Rm. 8,15.
iii. Robert E. Barron, Bridging
the Great Divide: Musings of a Post-Liberal, Post-Conservative Evangelical
Catholic (Rowan & Littlefield, 2004), 66; cf. Chap. 5: “The Liturgical
Act and the Church of the 21st Century.”
iv. Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 10.
v. x. Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 8, Hiến chế Lumen Gentium 50; Giáo lý Công giáo,
1090, 1111, 1136, 1187, 1326, 2642.
vi. The Rus Primary
Chronicle (Cambridge: Mediaeval Academy, 1953); cf. Ratzinger, Pilgrim
Fellowship of Faith (Ignatius, 2005), 90–91.
vii. Kh 1,9.
viii. 2 Pr 3,13; Ep 1,10, 23; 1Cr 15,28; 2Cr 5,19;
Cl 1,18, 20; Pl 2,5–12.
ix. Patrologia Latina, vol. 8, col. 696; dominico,
tiếng latinh, có khi được hiểu là “ngày của Chúa/chúa nhật” hoặc “tiệc ly”. Ý nghĩa khẩu ngữ là
“Thánh lễ”, x. Mike Aquilina, Fire of God’s Love: 120 Reflections on the
Eucharist (Servant, 2009), 13.
x. Mc 16,2, 9; Lc 24,1;
Ga 20,1.
xi. Martyrdom of
Polycarp, 9, trong The Acts of the Christian Martyrs, bản dịch Anh
ngữ của Herbert Musurillo (Clarendon, 1972).
xii. To the Romans,
4.
xiii. cf. Rm 12,1; 1Pr 2,5:
Dt 9,14; 13,15, 16.
xiv. x. 2Pr 2,9; Kh 1,6; Xh 19,4.
xv. x. Hiến chế về Phụng vụ Thánh Sacrosanctum
Concilium, 14 (tiếng latinh: actuosa participatio, tham dự tích cực).
xvi. Hiến chế Ánh sáng muôn dân Lumen Gentium,
34.
xvii. x. 1Tm 2,4.
Anh Khoa