(nguồn Dòng Tên Việt
(Đỗ Quang Chính, S.J.)
Trong Chương này, chúng ta nhìn lại việc cúng bái
tổ tiên đã được Giáo hội VN “hoà mình” đến đâu từ thế kỷ XVII; nhưng sang đầu
thế kỷ XVIII, Toà thánh dứt khoát nghiêm cấm cách thế tôn kính tổ tiên của người
tín hữu ở Trung Quốc cũng như ở VN và những nơi quen thi hành kiểu cách đó, nói
chung là cấm việc cúng đồ ăn, dâng hương nhang, bái lạy người quá cố, đốt vàng
mã, cùng tất cả những cách thế mà theo cái nhìn của Công giáo Tây phương, cho
là nhuốm màu sắc mê tín dị đoan. Toà thánh cũng cấm người tín hữu lập bàn thờ
tổ, đặt bài vị trong nhà, cách riêng không được kính thờ đức Khổng Tử.
Dưới đây, xin nói sơ qua:
- Cúng bái, giỗ chạp ở Việt
- Một số nhà truyền giáo ở VN tán thành
cúng bái tổ tiên;
- Toà thánh can thiệp.
I. Cúng bái, giỗ chạp ở Việt Nam
Tại Việt nam cũng như Trung Quốc và mấy nước lân
cận ít nhiều chịu ảnh hưởng của Khổng giáo từ lâu đời, đặc biệt đề cao lòng hiếu
thảo đối với ông bà tổ tiên hơn nhiều dân tộc khác, ít là qua các hình thức bên
ngoài. Lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ chẳng những phải thể hiện rõ nét
khi cha mẹ còn sống, mà cả khi các ngài đã qua đời. Chính cách thể hiên hiếu
thảo ở xứ ta đối với người đã khuất mới là vấn đề trong muc này.
Từ giờ phút cha mẹ hấp hối cho đến khi an táng xong,
biết bao việc phải làm theo phong tục luật lệ đất nước, trong đó có có những lề
thói dân sự và cả những nghi lễ ít nhiều mang tính chất tín ngưỡng, như cúng
bái, cầu siêu… Những lề thói dân sự ấy nhiều khi còn là những điều luật quá
nghiêm khắc, làm khổ trăm dân bao đời, dù có tính cách quôc gia, nghĩa là do
nhà vua ban hành cho toàn dân phải tuân giữ. Chỉ riêng về tang chế cũng đã rất
phức tạp. Ví dụ: theo luật Hồng Đức, tức là thời vua Lê Thánh tông từ 1470-1497,
quy định từ điều 18-33 về việc để tang như thế nào: anh chị em cùng cha khác
mẹ, các con, cha mẹ vợ, dưỡng mẫu, đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu, xuất mẫu, thứ mẫu,
kế phụ, bà ngoại, mẹ nuôi (vú nuôi), mẹ tái giá, đoản tang, đại tang, rút tang
phục…[1].
Việc để tang là bó buộc, không thi hành đúng luật,
bị phạt. Theo Hồng-Đức thiện chính thư, điều 128 hình phạt như sau:
“Ai được tin ông, bà, cha mẹ và chồng chết, mà giấu
giếm đi không phát khóc, đàn ông thì sẽ bị tội đồ làm khao đinh [tù cắt cỏ];
đàn bà bị đồ làm phu nhà hái dâu (nuôi tằm). Nếu đương có tang mà bỏ áo tang
mặc áo đẹp, quên sự thương sót [xót] mà nghe âm nhạc, cùng là dự tiệc vui, đàn
ông sẽ bị tội trượng tám chục, thích vào chán [trán] bốn chữ, đồ làm lính cày
ruộng, đeo một giây sích, bắt đi công tác ở châu xa; nếu là tang người thân một
năm (mà phạm lỗi kể trên), thì đàn ông bị tội trượng tám chục, thích vào chán
[trán] hai chữ, đồ làm lính tượng-phường [lính quét dọn chuồng voi]; đàn bà bị
đánh năm mươi roi, thích vào chán [trán] hai chữ, đồ làm đứa ở nhà nấu cơm; nếu
là tang đại-công (chín tháng), thì đàn ông bị trượng tám chục, đồ làm khao
đinh; đàn bà bị đánh năm mươi roi, đồ làm phu nhà hái dâu; nếu là tang tiểu-công
(năm tháng) đàn ông bị tội trượng tám chục, là quan chức thì bị đồ làm lính ở
nha môn Tỉnh hay Viện xứ mình; nếu là quân nhân, thì đồ làm lính trong quân đội
của mình, mà nếu là dân, thì đồ làm lính trong xã mình; đàn bà thì bị đánh năm
chục roi; nếu ỉà dân thì bị đồ ở bản xứ, nếu là mạng phụ, thì bị đồ làm đàn bà
làm vườn; nếu là tang phục ty- ma (ba tháng), đàn ông thì bị tội trượng tám
chục, đàn bà bị đánh năm mươi roi”[2].
Thời gian để tang từ 3 tháng đến 3 năm đối với những
người họ hàng với nhau trong 56 bậc, từ cố ông cố bà, cụ ông cụ bà, ông bà, cha
mẹ, cô dì chú bác, anh chị em, đến cháu chắt trai gái v.v…[3]. Thời kỳ tang
tóc, tức là thời kỳ tang chế, không săn sóc tới mái tóc của mình như trước: đàn
ông thì để tóc dài trước trán tới mắt, trái lại đàn bà cắt đi một phần tóc
không cho dài ra[4].
Việc để tang chỉ có tính cách dân sự, không mang
tính tín ngưỡng, tỏ ra buồn bã, thương tiếc người quá cố trong suốt thời tang
chế, có khi kéo dài tới 3 năm, làm bật nổi lòng hiếu thảo đối với ông bà, cha
mẹ. Tuy nhiên, tang chế quá chi li, tỉ mỉ, làm cho con người phải sống gò bó
trong pháp luật và phong tục, có tính trói buộc hơn là cởi trói cho người ta.
Đây chỉ là một trong nhiều thứ ràng buộc người dân Việt xưa. Ngày nay, vẫn còn
để tang, nhưng nhẹ nhàng hơn nhiều sánh với luật Hồng Đức.
Để tỏ lòng hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ đã nhắm
mắt lìa đời, kẻ còn sống phải cúng bái, dâng hương, đốt vàng mã, và tỏ nhiều cử
chỉ khác, nhất là trong những dịp an táng, giỗ chạp. Tuỳ theo người giàu sang,
quyền thế, mà những lễ trên đây được tổ chức linh đình, trang trọng, hay đơn
giản chỉ với mâm cỗ, mấy nén nhang, vài thứ vàng mã.
Ví dụ: khi Trịnh Vương phi, tên là Phùng Ngọc Đài (Vương phi của chúa Thanh Đô
Vương Trịnh Tráng) qua đời ngày 14 tháng giêng âm lịch, tức 15-2-1669, thì con
của bà là Tây Vương Trịnh Tạc (đã nối nghiệp cha là Trịnh Tráng qua đời
26-5-1657[5]), đích thân đổ nước tắm cho mẹ và mặc cho mẹ 60 áo lụa quí[6].
Theo tường thuật [7] của cha Marini (sống ở Đàng Ngoài từ 1647 đến
17-7-1658), thì tháng 12-1657, chúa Trịnh Tạc tổ chức lễ giỗ cha mình là Trịnh
Tráng, hết sức long trọng, trên cồn cát giữa khúc sông Nhị Hà ở kinh thành
Thăng Long. Rất nhiều thợ lành nghề được huy động về đây, dựng lên rất nhiều
dinh thự như một thành mới, nhưng toàn bằng vải, giấy, gỗ, gồm mọi sự giống như
Phủ liêu, đến ngày 28-12-1657 thì hoàn thành. Trước ngày giỗ, dân chúng được tự
do vào xem công trình vừa thực hiện. Chúng tôi xin tóm lược như sau:
Bốn phía Đông Tây Nam Bắc có bốn cửa thành. Tại
cửa
Những nhà trên đây không sánh được với một ngôi
nhà đặc biệt, đó là Nhà cả, tức ngôi nhà không khác dinh chúa Trịnh Tráng ở khi
còn sống; giữa nhà là một bàn giống như bàn thờ sơn son thếp vàng, hương nhang thơm
phức, trên đó đặt một ngai bằng vàng và ngà.
Nghi lễ giỗ bắt đầu từ đêm 29-12-1657, mở đầu là
30.000 người mặc tang phục đi hàng 5, mang gươm giáo nghiêm chỉnh từ Phủ liêu
đến địa điểm hành lễ, phân chia từng tốp giữ trật tự cho dân chúng. Vừa tảng
sáng, chúa Trịnh Tạc cùng các Vương thích và các quan mang tang phục như ngày
lễ an táng, do 4.000 “vệ binh” hộ tống tiến tới cửa Bắc thành, nơi có một cây
tháp rất lớn. Tới nơi, chúa Trịnh Tạc và mọi người đều hoàn toàn im lặng. Bỗng
một người trong đoàn cất tiếng nói như một bài ca, giọng buồn thảm, xin với
“ông chủ” toàn bộ thành trì mới được dựng lên (tưởng tượng như ông chủ đang hiện
diện trong cây tháp), xin ông ta bán lại cho nhà vương mới từ trần, nay không
còn quân quốc, voi, ngựa, nhà cửa và các vật dụng như trước.
Đáp lại, có tiếng từ trong tháp trả lời sẵn sàng
bán, nhưng còn phải có ý kiến của ba người khác (tưởng tượng). Vì thế, Trịnh
Tạc cùng với Vương thích lần lượt đến các cửa Đông, Nam, Tây, cũng nhắc lại
những lời xin mua như khi tới cửa Bắc. Sau đó, nhà Vương cùng cácVương thích và
các quan, tiến vào Nhà cả (vừa dựng lên), là chính nơi tế. Trong khi đọc bài
tế, chúa Trịnh và đoàn người đều quỳ gối trước ngai vàng tưởng tượng như Thanh
Đô vương Trịnh Tráng đang ngự trên đó. Tới phần lễ nghi phục bái, thì thứ tự
như sau: trước hết chúa Trịnh Tạc, vị quan đại thần đại diện vua Lê Thần tông [8], rồi cùng phục bái một trật là các quan trong
vương tộc gồm tới 4.000, sau đó khoảng 600 quan khác; tiếp theo là cha Bề ưên
Dòng Tên ở Đàng Ngoài [9], các quan văn võ khác; tất cả đều sấp mình sụp lạy
sát đất.
Cha Bề trên tôn trọng phong tục địa phương, giữ
đúng nghi lễ VN, đi chân không, mặc áo thụng đen, đầu đội mũ lục lăng cùng màu đen
như áo thụng [10], phục bái sát đất theo kiểu VN, làm chúa Trịnh rất hài lòng,
liền truyền cho nổi nhạc lên, như khi chúa Trịnh vừa bái lạy xong. Mọi người
đều bỡ ngỡ, cho rằng nhà vương đã ban cho cha một chức tước nào trổi vượt [11].
Đến đây, chúa Trịnh đã mỏi mệt vì phải đứng, có
khi quỳ, nghi lễ giỗ cũng đã hoàn tất, nên khoảng một giờ trưa Ngài cùng đoàn hộ
tống về Phủ liêu theo thứ tự như lúc ra đi, để còn phải tiếp các Sứ bộ đến phân
ưu mang nhiều đồ phúng điếu, như Sứ bộ nước Bao, Ciucanghe, Ava là những nước
hàng năm phải triều cống cho VN.
Đúng 20 giờ, vào giờ chúa Trịnh Tráng tốt (chết
ngày 26 tháng 5-1657), sau khi đoàn lính giữ trật tự được lệnh canh gác cẩn thận
hơn, hầu tránh sự chen lấn và không cho ai đến gần lấy những thứ chưa kịp cháy,
người ta nổi lửa đốt cả ngôi thành sau lễ giỗ, để gửi sang thế giới bên kia cho
chúa Trịnh Tráng. Bắt đầu là đốt 4 cây tháp lớn ở 4 hướng, tất cả đều sụp đổ
nhịp nhàng như chẳng có bàn tay con người can thiệp. Những thứ bằng vàng bạc
không bị cháy và vải vóc quý, được chúa Trịnh Tạc phân chia một phần cho các quan,
phần kia cho binh lính đã nhọc công canh gác.
Tường thuật này, theo cha Marini, do chính cha Bề
trên Dòng Tên ở Đàng Ngoài, người đã chứng kiến, quan sát kỹ lưỡng, kể lại. Người
ta cho rằng phí tổn lễ giỗ này lên tới hơn một triệu đồng vàng [12] (On croit
que les frais de cette pompe íunèbre montent à plus d’un million d’or).
Nhắc lại lễ giỗ trên đây, giúp chúng ta hiểu rõ
hơn, ngày xưa người Việt tổ chức lễ giỗ long trọng tới mức nào, không ngại phiền
phức, tốn kém, cốt để tỏ lòng hiếu thảo với người đã khuất. Xem ra Marini trình
bày có phần khách quan, không bình luận, càng không chỉ trích như một số người
nào đó có thể cho đây là hình thức mê tín dị đoan. Có lẽ vì Marini chỉ muốn cho
độc giả Tây phương nhận thấy cách thể hiện chữ hiếu của người VN khác với châu
Âu, nên đã không phê bình, chỉ trích điều gì, kể cả việc đốt vàng mã, bái lạy
Thần chủ trước ngai Trịnh Tráng.