II. Ý kiến môt số nhà
truvền giáo về việc tôn kính tố tiên ở Viêt Nam
Dưới đây, chúng tôi
không nhắc đến nhiều nhà truyền giáo ở VN từ cuối thế kỷ XVII tới đầu thế kỷ
XX, cực lực phán đốì hình thức tôn kính tổ tiên trong văn hoá VN, nhất là việc
cúng đồ ăn, bái lạy người quá cố, nhang hương, đốt vàng mã… Các vị cũng chẳng
chấp nhận được từ ngữ thờ kính, vì suy diễn theo từ adorare của Tây phương, thì
chỉ tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, còn các thánh dù đã được Giáo hội tôn vinh
là thánh, cũng chỉ bày tỏ lòng tôn kính thôi. Nhưng trong tiếng Việt, từ thờ
được dùng cho nhiều trường hợp, không cần phân biệt rạch ròi như kiểu Tây
phương, ví dụ: thờ cha kính mẹ, thờ chồng nuôi con, thờ Trời, thờ đức thánh
Trần… Nhưng các vị cho rằng, dùng cụm từ thờ kính tổ tiên, làm cho người ta
hiểu tổ tiên là Trời, là Thiên Chúa.
Trong mục này, chúng
tôi chỉ nhắc đến một ít nhà truyền giáo đã chấp nhận nghi thức tôn kính tổ tiên
của người Việt, với điều kiện chỉ coi đó là nghi lễ có tính cách dân sự, không
mang tính tín ngưỡng, nhất là tôn giáo (theo lối hiểu của phương Tây) và cũng
phải loại bỏ việc tin rằng người chết về ăn của cúng, hoặc đốt vàng mã gửi sang
thế giới bên kia…
1. Ý kiến của cha Đắc
Lô. S.J.
Trong sách Histoire du royaume
de Tunquin [13] cha Đắc Lộ dành hẳn chương 23, 24, 25, tổng cộng 12 trang nói
về vấn đề cúng bái người quá cố. Tác giả kể ra những cách thức người Việt đối
với người quá cố, và cho rằng dân tộc VN tôn kính hồn xác người quá cố hơn hết
mọi dân tộc. Mở đầu chương 23, Đắc Lộ viết:”Trên trái đất này, có lẽ không một
dân tộc nào chu toàn bổn phận hơn và tôn kính hồn xác người quá cố hơn người
dân Vương quốc An Nam. Những điều kể ra sau đây đủ để làm tin”. Tiếp đến Đắc Lộ
nói đến ba điều sau khi người quá cố trút linh hồn, đó là: – sắm một bộ áo quan
sơn son thếp vàng hết sức sang trọng bao nhiêu có thể; – ngoài bà con thân
thích, họ còn mời nhiều người đi lễ an táng, mà mở đầu đoàn người, là một cờ
bằng tơ lụa do bốn người lực lưỡng cầm, trên đó ghi tên người quá cố, cùng đề
cao những đức tính của họ, tức là cờ minh tinh. Vợ con người quá cố, mặc áo
tang, đi trước quan tài, than khóc, kể lể, thỉnh thoảng xoay mình lại, nằm lăn
trên đường như để cho người khênh quan tài đạp lên mình (thực ra mang ý nghĩa
ngăn cản không cho mang đi chôn, mà muốn người quá cố như vẫn sống cùng gia
đình); – nhờ thầy địa lý tìm nơi an táng, tức thày khán phong thuỷ âm dương.
Đắc Lộ dành hẳn chương 24 cho việc cúng giỗ, trong đó tác giả cho là có ba sai
lầm lớn, đó là: – hồn người quá cố có thể tự do trở về nhà con cháu; – người
quá cố có thể về ăn thịt dự tiệc với những người còn sống; – sai lầm thứ ba lớn
hơn, là họ tin rằng, sự sống, sức khoẻ, gia đình bình an thịnh vượng nhiều ít,
đều do ông bà cha mẹ đã quá cố phù hộ cho. Vì vậy họ phải cúng giỗ cho long
trọng, dọn nhiều thịt thà, món ăn mời kẻ quá cố trở về dùng, để ông bà thấy
lòng hiếu thảo của con cháu mà phù trợ cho kẻ dâng cúng; chính nhà Vương đương
thời, tức chúa Trịnh Tráng hàng năm cũng làm lễ giỗ cha mình lớn lao, vô số
quan quyền dân chúng đến dự, cho dọn rất nhiều mâm cúng sơn son thếp vàng bày
đủ thứ thịt khác nhau, lại đốt vàng mã gửi sang thế giới bên kia cho cha mình,
mà theo Đắc Lộ, là một thứ tin tưởng kỳ cục.
Nhìn chung, nhà truyền
giáo Đắc Lộ không chỉ trích mọi hình thức tôn kính tổ tiên ở VN; nhưng ông chê
trách một số hình thức, tin tưởng có tính cách mê tín dị đoan, như mời người
quá ăn đồ cúng, đốt vàng mã. Vì thế Đắc Lộ nhận định rằng, sau khi loại bỏ
những gì tỏ ra mê tín, thì người Kitô hữu tiếp tục thực hiện các nghi thức tôn
kính tổ tiên. Trong Divers voyages et missions [14] Đắc Lộ viết: “Trong các thứ người ta tố cáo giáo
hữu Đàng Trong, thì cái tội lớn nhất là người giáo hữu đã không săn sóc, tôn
kính hồn người quá cố, nên người ta cho rằng Đạo chúng ta là Đạo mọi rợ, vì đã
xoá khỏi lòng người tâm tình hiếu thảo cha mẹ, là tâm tình theo tự nhiên đã được
khắc vào mọi tâm hồn. Sở dĩ người ta nói sai lạc như thế, là do một vài kẻ vì
nhiệt tình thiếu cẩn ưọng, đã muốn bãi bỏ mọi nghi thức đối với người đã khuất
trong xứ này: tôi đã thuật lại những nghi thức trên khá dài trong cuôn Lịch sử
vương quốc Đàng Ngoài (Histoire du royaume de Tunquin); thực ra có vài nghi
thức, nếu người Kitô hữu thực hiện, thì không thể không mắc tội, còn phần nhiều
đều vô tội, và chúng tôi xét đinh rằng, người ta có thể giữ lai các nghi thức
ấv mà không can hê gì đến Đao thánh”.
2. Ý kiến của cha Juan de
La Paz. O.P.[15] và của Đc Marin Labbé. M.E.P.
Theo lời yêu cầu của Đc
Lambert năm 1671, lúc đó là Giám mục Đại diện tông toà Đàng Trong, đồng thời kiêm
Giám quản Tông toà Đàng Ngoài (tạm thay thế Đc Pallu chưa tới nhiệm sở Đàng Ngoài
được), hai cha Dòng Đa Minh là Juan Ramos và Juan de Santa Cruz từ Manila tới
Phố Hiến ngày 7-7- 1676, cùng chia sẻ trách nhiệm truyền giáo ở Đàng Ngoài với
hai cha thừa sai Paris đã làm việc ở đây là Fr. Deydier từ 1666 và Jacques de
Bourges từ 1670; tháng 8-1677 (có nơi ghi là 1678) thêm cha Dòng Đa Minh nữa là
Dionisio Moralez cũng từ Manila tới Phố Hiến. Các Đa Minh được hai cha thừa sai
Paris nhường cho phía Sơn Nam Hạ (vùng Trung Linh, Bùi Chu, Phú Nhai…) là nơi
có nhiều giáo hữu nhất ở Đàng Ngoài.
Mấy cha Đa Minh vừa tới
Đàng Ngoài, nhận thấy tại đây, rất nhiều phong tục, nhất là vấn đề tôn kính tổ
tiên, làm các vị này phân vân, có phải là mê tín dị đoan không? Các cha đặt ra
274 câu hỏi gửi về Manila, xin cha La Paz là một giáo sư thông thái, có cái
nhìn sâu rộng, giải thích giùm. Vì là vấn đề quan trọng, nên những câu trả lời
của La Paz được in thành sách ngay năm 1680 tại Manila, đó là tập sách
Opusculum in quo ducenta et septuaginta quatuor quaesita a RR.PP. Missinariis
Regni Tunkini proposita totidemque Responsiones ad ipsa continentur, expeditae
per Adm. R.p. Fr. Joannem de Paz In-4°, Manila, 1680, 218 tr. [16] (Tập sách
gồm 274 câu hỏi của các Thừa sai Vương quốc Đàng Ngoài và cũng bằng ấy câu trả
lời do cha rất đáng kính Gioan Paz giải đáp những câu hỏi trên). Đại ý những
câu trả lời của La Paz về các phong tục, nghi lễ ghi trong 274 câu hỏi không có
tính cách tôn giáo, chỉ có tính cách dân sự và chính trị.
Nói về La Paz và tập
sách trên liên quan tới vấn đề tôn kính tổ tiên ở Đàng Ngoài, Đc Marin Labbé,
MEP, (Gm phó cho Đc Francisco Perez tại Đàng Trong từ 1704 đến khi qua đời
24-3-1723, thọ 75 tuổi) viết như sau trong thư gửi Ban Giám đốc Hội thừa sai
Paris ngày 16-10-1718 [17] (chúng tôi xin tóm lược lại):
“Tại vương quốc Đàng
Trong không có sách nào kể cả sách nghi lễ, viết về các thứ nghi lễ hay thứ tự
các nghi lễ phải cử hành đối với người chết và Đức Khổng. Chỉ có những thực
hành theo thói quen đã in sâu vào tâm khảm người ĐT, làm cho người ta phải đau
khổ hơn lúc nào hết khi không thể thực hiện được những thứ dị đoan trên vì
nghèo túng. Nhưng tranh luận trước mặt Toà thánh về những phong tục đó sao
được, nếu không dựa vào sách vở, bằng chứng? Ở Trung Hoa khi tranh luận về vấn
đề này, người ta căn cứ vào sách vở và rất nhiều bằng chứng của biết bao Dòng
tu; còn ở ĐT, chúng ta chẳng có bất cứ thứ gì như vậy.
“Duy một điều có thể
giúp chúng ta tại Roma, đó là cuốn sách của cha Juan de La Paz, một vị Tiến sĩ
Dòng Đa Minh, đã ghi lại khá chính xác tất cả những nghi lễ người Đàng Ngoài
thực hiện, trong các lễ an táng cũng như cúng giỗ cha mẹ họ. Những nghi lễ ấy
đã được ba cha Đa Minh đầu tiên từ Manila đến ĐN [ghi lại]. Dù ba cha này là
những người thành thạo Thần học và các tác phẩm của thánh Tôma, các ngài cũng
chẳng dám đưa ra những nhận định về vô vàn vô số những nghi lễ ở ĐN, nên các
ngài đã ghi chép lại cẩn thận gửi cho cha Juan de La Paz ở Manila, khẩn khoản
xin ngài cho biết ý kiến, điều gì có thể mần ngơ được, điều gì tuyệt đối bị cấm
đoán vì là mê tín. Juan de La Paz, một người được quý trọng cách riêng trong
các xứ này, vì lòng đạo đức cũng như sự thông thái của cha, đã trả lời theo thứ
tự tất cả các câu hỏi đặt ra, rồi được in trong một cuốn sách khá đồ sộ tại
Manila năm 1680.
“Tôi nghĩ rằng, Đc
Labbé viết tiếp, cuốn sách trên có giá trị và uy tín tại Roma, và có thể coi đó
ỉà chứng cớ trong việc tranh tụng lễ nghi đối với người chết ở Đàng Ngoài, và
cũng thế ở Đàng Trong, vì hai vương quốc này chỉ là một dân tộc theo cùng luật
lệ, cùng phong tục.
“Ngoài ra, cũng phải
nói vài điều là, chúng ta tuyệt đối không thể theo như mọi câu trả lời của cha
Juan de La Paz mà người ta đặt cho cha về các nghi lễ thực hiện ở Đàng Ngoài
đối với người quá cố, trước khi an táng, trong khi an táng, hoặc trong các lễ
giỗ hàng năm; vì những câu trả lời ấy lại dựa trên những thành kiến người đặt
câu hỏi, theo đó họ cho rằng: những người [ĐN, ĐT] minh mẫn chẳng tin chút nào
việc hồn người chết trở về sau khi qua đời và hồn người chết cũng chẳng cần đến
thịt thà dâng cúng, mà chỉ có kẻ quê mùa mới sa vào sai lầm này; do đó, cha La
Paz kết luận là những nghi lễ ấy chỉ có tính dân sự và chính trị. Nhưng, chúng
tôi là người đã thấy tất cả những gì xảy ra ở đây, chúng tôi dám chắc rằng,
người ngoại đạo tin là hồn cha mẹ hiện diện trong khi cử hành các nghi lễ đó,
nhận của dâng cúng và nhận lời phù hộ săn sóc con cháu họ tuỳ theo mức độ đại
lượng trong việc dâng cúng.
“Thực ra, đôi khi người
giáo hữu hay một vị thừa sai tranh luận các nghi lễ đó với những người ngoại
đạo thông thạo chữ nghĩa, thì những người ngoại đạo này nhận ra mình đuối lý,
không thể trả lời được những chất vấn người ta đặt ra, nên để khỏi hổ ngươi, họ
cũng theo ý kiến của những người chất vấn và chế diễu những người thi hành các
nghi lễ này; kỳ thực họ tin từ đáy lòng tất cả những nghi lễ trên mỗi khi họ
phải cử hành trong gia đình”.
3. Ý kiến của cha
Sanna, S.J. và cha Heutte. M.E.P.
Xem ra cha Sanna [18]
có cái nhìn rộng rãi về vấn đề tôn kính tổ tiên và nhiều phong tục lễ nghi khác
ở Đàng Trong. Sau khi Hiến chế Ex illa die do ĐTC Clementê công bố ngày 19-3- 1715
cấm các hình thức tôn kính tổ tiên và Đức Khổng (chúng tôi sẽ nói dài ở phần
cuối), thì ngày 21-2-1717, cha Sanna công bố tại nhà thờ Dòng Tên ở Huế (có lẽ
là Đốc Sơ) cho phép giáo hữu ở đây được giữ một số nghi lễ ĐT như sau [19] (tất
cả có 8 điều, nhưng chúng tôi chỉ xin ghi ra đây điều 4,5,6):
“Tôi là Gioan Baotixita
Sanna, thầy cả Dòng Đức Chúa Giêsu, truyền dạy những điều sau đây cho anh chị
em giáo hữu thuộc các họ đạo Mân Côi, Giáng Sinh, Thánh Giá và Đức Mẹ Mông
Triệu, được biết:
“Tất cả các thầy cả
Dòng Đức Chúa Giêsu đã ở xứ truyền giáo này từ đầu đến nay, sau khi cân nhắc kỹ
lưỡng, vẫn cho phép giáo hữu được mang gia triau [cờ gia triệu] trong các lễ an
táng, chỉ cần viết câu ‘xin Đức Chúa Trời cứu giúp linh hồn này là… và dẫn đưa
vào thiên đàng’ (Rogamus Dominum caeli ut adjuvet hanc animam N., et deducat in
paradisum). Việc mang gia triau đã được các thầy cả Dòng Đức Chúa Giêsu cho
phép từ gần một thế kỷ nay; vậy không thể chấp nhận được nhận định của những
người cho rằng trong gia tríau có tính tà thần và dị đoan;
“Tất cả các thầy cả
Dòng Đức Chúa Giêsu chấp nhận cho mọi giáo hữu được lạy cha mẹ sát đất khi các
ngài còn sống hay đã qua đời, được gia [giỗ], tức là được dâng cúng, bái lạy
cùng các nghi lễ khác quen thi hành trong nước này, vào ngày đầu năm hay những
ngày khác; và điều này cũng theo lời truyền dạy của Hội thánh Ighêrêgia. Ai
không tuân giữ các nghi lễ trên đây, tức là lỗi điều răn thứ bốn: ‘Hãy thảo
kính cha mẹ’. Tuy nhiên, có một ít giáo hữu đã lỗi phạm giới răn này, lại còn
đi đến nhà anh em giáo hữu khác nói rằng, thi hành các nghi lễ như thế không
thể thoát tội được. Nhưng việc dâng cúng như vậy chẳng có tội gì. Ai nói là có
tội thì gây xáo trộn cho giáo hữu, vì khi tôn kính cha mẹ còn sống mà không mắc
tội, thì khi các ngài chết, mà làm như thế cũng chẳng có tội gì. Lúc cha mẹ còn
tại thế, con cái có thể sấp mình sát đất lạy cha mẹ, thì khi các ngài đã khuất
cũng có thể tỏ lòng tôn kính như vậy;
“Tất cả các thầy cả
Dòng Đức Chúa Giêsu chấp thuận cho giáo hữu được thề, khi vua quan truyền lệnh,
miễn là phải đúng sự thật. Giáo hữu có thể lấy danh Đức Chúa Trời mà thề, hoặc
khi nào có lệnh truyền phải nhân danh quỉ thần (nomina daemoniorum), ví dụ:
‘nếu tôi không giữ như thế, tôi sẽ bị quỷ thần vật chết’! Vậy ai nói cách thề
như thế là phạm tội thờ tà thần, đó là sai lầm; họ đã không theo thói quen của
các giáo hữu, cũng chẳng vâng lệnh truyền của Hội thánh”.
Về vấn đề cha Sanna cho
phép mang cờ gia triệu [và cờ minh tinh] trong lễ an táng, cha Heutte, MEP[20]
viết thư tại Huế ngày 7-12-1717 như sau gửi cho Ban Giám đốc Hội Thừa sai
“Điều thứ tư trong công
bố của cha Sanna cho phép giáo hữu mang gia triau, cần phải được nói rõ gia triau
là gì? Đó là một khung hình lớn sơn son thếp vàng, vẽ hình rắn và lá cây, mà người
ngoại đạo mang trên đường đi an táng. Trong khung hình này có một hay hai miếng
vải lụa đỏ, trên đó ghi bằng chữ Hán, nội dung như sau:’xin thần dẫn đưa hồn
Mỗ… về nơi an nghỉ’ (Rogamus idolum N. ut deducat animan N. in locum quietis). Khung
hình này đôi khi do hai người khênh đi trước quan tài, có khi đặt trên gần đầu
quan tài, nơi bày một mâm toàn thịt thà. Người ngoại đạo tin là hồn người mới
qua đời cũng như tất cả hồn những người đã chết có họ hàng với người này, đều
cùng có mặt. Các thầy cả Dòng Đức Chúa Giêsu đã cho phép giữ những nghi lễ ấy.
Đôi lúc người ta chỉ mang gia triau, có khi chỉ có mâm thịt cúng mà không có cờ
gia triau. Để tránh khỏi tội thờ tà thần, người ta thay đổi lời cầu xin, bằng
câu: ‘Xin Đức Chúa Trời dẫn đưa linh hồn Mỗ… vào thiên đàng’. Ngoại trừ chút
thay đổi này, chúng tôi chẳng hồ nghi là, dị đoan vẫn còn đó. Bởi vì: thứ nhất,
cứ 20.000 người Đàng Trong mới có 100 người biết chữ Hán; thứ hai, trong số 100
đó, chưa chắc đã được một người để ý đọc hàng chữ kia; thứ ba, nếu họ cố gắng
đọc đi nữa, thì họ lại tin rằng những người giáo hữu cũng tin tưởng như họ, là
các hồn người chết đều có mặt ở khung hình hay mâm cúng để ăn; thứ bốn, Đức
Thánh cha đã cấm bằng những lời chung chung trong sắc lệnh công bố năm 1715″.
Theo bức thư [21] của cha
Heutte, MEP, viết tại Đàng Trong ngày 18-7-1717, báo cáo với Đc Labbé, Gm phó
ĐT, thì cha Sanna đã cho phép giáo hữu:
1. Đúc chuông
chùa;
2. Mang cờ dựng hai bên
lối vào chùa;
3. May áo cho các nhà
sư, ni cô;
4. Làm hình đàn ông,
thê thiếp, voi v.v… để người ta đốt trong tháng bảy;
5. Bắn súng đại
bác [theo lệnh cấp trên] lên hiệu tập họp công chúng dự các nghi lễ ma quỷ
(diable);
6. Xây mieu và chua
[miếu và chùa];
7. Được thề nhân danh
bua ba [vua vạ, tức là vua ra vạ phạt ai], quỷ thần;
8. Giữ bài vị trong nhà;
9. Xem tuồng kịch;
10. Bưng mâm cúng đặt
trên quan tài và ưên phần mộ.
Sở dĩ cha Sanna nhận
định rộng rãi như thế, vì trong những trường hợp trên, giáo hữu đúc chuông
chùa, may áo cho các nhà sư, v.v…, chỉ như là người thợ đúc, thợ may, sống bằng
những nghề ấy; hoặc bắn súng đại bác tập họp dân chúng trong các ngày lễ là
phải tuân hành lệnh cấp trên. Rõ ràng là Sanna coi việc đặt bài vị trong nhà,
thề nhân danh bua ba, tức là nếu không đúng như lời thề thốt, sẽ bị nhà vua
phạt vạ, đều là những thứ mang ý nghĩa dân sự, chính trị, trong khi một số
người khác lại cứ gán ghép cho là thờ tà thần ma quỷ. Vậy khi những người Công
giáo phải mời những người không đồng đạo với mình, xây nhà thờ, đúc chuông, làm
kiệu, kể cả làm tượng ảnh, may áo cho tu sĩ, linh mục thì đâu có phải những
người thợ trên đây bỏ đạo mình để tin theo đạo Công giáo. Đàng khác hiếm có
người nào cùng tôn giáo, tín ngưỡng với họ, lại cho rằng những người thợ ấy làm
như vậy là đi ngược với tôn giáo mình.
4. Ý kiến của Đức cha
Bá Đa Lôc và mẩv vi thừa sai Paris cuối tk. XVIII
Đức cha Bá Đa Lộc cùng
những vị thừa sai Paris mà chúng tôi nói đây, đều sống ở Đàng Trong vào cuối
thế kỷ XVIII, cái thế kỷ mà Toà thánh đã lên án việc tôn kính tổ tiên, kính lạy
Đức Khổng và nhiều phong tục khác (phần sau, chúng tôi sẽ trình bày dài hơn vấn
đề này). Xem ra những vị thừa sai này nhờ nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, nên đã mạnh
dạn trình bày ý kiến mình, dù điều 25-26 của Hiến chê Ex quo singulari công bố
ngày 11-7-1742, đã cấm không ai được bàn tán gì về vấn đề nữa, lại còn nghiêm
cấm mọi người không ai được giải thích, thực hành khác với Hiến chế này. Ai
không tuân lệnh, sẽ bị huyền chức tức khắc và bị phạt vạ tuyệt thông tức khắc
dành cho Toà thánh, dù là Tổng Giám mục, Giám mục, hay các linh mục triều hoặc
Dòng.
Cha Louvet, tức cố Ngôn
[22] làm việc trong giáo phận Sài Gòn vào cuối tk XIX, mở đầu vấn đề tôn kính tổ
tiên ở Đàng Trong cuối thế kỷ XVIII, nhận định rằng, việc bái lạy trước thi hài
và bài vị, đã bị các Hiến chế của Toà thánh tuyệt đối ngăn cấm; nhưng chính nhà
vương, tức chúa Nguyễn Ánh trong nhiều lần gặp gỡ Đc Bá Đa Lộc bàn đến chuyện này,
vì Ngài rất lưu tâm đến nó. Louvet cho rằng, một nhà Thần học nổi tiếng có thể
đứa ra nhiều lý lẽ để chứng minh việc tôn kính tổ tiên chỉ đơn thuần là cử chỉ
lịch sự, tuyệt đối chẳng có tính cách tà thần. Rồi Louvet viết tiếp:”Về vấn đề
này, Đức Gm [Bá Đa Lộc] và các thừa sai luôn luôn chỉ có một câu trả lời:Sau khi
xem xét lâu dài với nhiều cuộc tranh luận đến mâu thuẫn nhau, Roma đã tuyên bố,
không được phép bái lạy như vậy; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ biết vâng phục’[23].
Trong sách của Adrien
Launay, khi bàn vấn đề hóc búa này thời Đc Bá Đa Lộc, đã dành 16 trang dày đặc,
toàn là những tư liệu viết tay của Đức cha và mấy thừa sai ở Đàng Trong [24]. Xin tóm lược lại những trang sử trên:
Trong bức thư cha Boisserand,
MEP [25] viết ngày 17-8- 1789, gửi cha Boiret, MEP, cho biết cần phải xét lại
vấn đề tôn kính tổ tiên[26]:
“Sau đây là cách luận
xét của tôi, tôi sẵn sàng đặt cách suy nghĩ của tôi dưới quyền phán định của
các bề trên mình: khi một hành động tự nó là dị đoan, thì chẳng bao giờ được
làm; nên, trong bất cứ trường hợp nào, cũng không được phép dâng của cúng cho
các tà thần. Nhưng khi một hành động tự nó đáng ca ngợi, và nó chỉ trở nên xấu
do những hoàn cảnh xấu, thì hành động ấy vẫn tốt, một khi thay đổi hoàn cảnh.
Vậy, tôn kính cha mẹ sau khi các ngài qua đời, với ý nghĩa yêu mến và chứng tỏ
lòng yêu mến đó qua các hành động, cử chỉ, thì tự thân nó là đáng ca ngợi. Thật
ra, nơi người ngoại đạo việc tôn kính này lại dựa trên những ý nghĩ sai lạc và
dị đoan, cho nên đến bây giờ vẫn còn bị cấm. Tuy nhiên, mọi người đều biết, nhà
vương [Nguyễn Ánh] khi có những hành động đó và các quan đi theo cùng tham dự,
lại không có những ý nghĩ sai lầm và dị đoan. Nếu không phải là những hành động
mang tính tôn giáo, mà đơn thuần chỉ là hành vi dân sự và chính trị, thì xem ra
thói này đáng nực cười, nhưng chẳng dị đoan chút nào.
“Tại nước Pháp khi nhà
vua qua đời, người ta đặt ngài nằm trên linh sàng, rồi người ta đều đặn soạn
các bữa ăn cho ngài trong nhiều ngày; thật nực cười về thói quen này; vậy mà
người ta vẫn không lên án nó, vì chẳng ai tin là hồn người chết dùng những món
ăn ấy, nhưng đó là biểu hiệu danh giá cho vua kể cả sau khi qua đời. vẫn còn
thấy người Pháp hạ mũ khỏi đầu mỗi khi đi qua tượng vua Henri IV tại Pont-Neuf
ở
Boisserand cho rằng,
việc làm cho người Đàng Trong theo đạo, liên hệ nhất ở việc cho phép tôn kính
tổ tiên, sau khi bỏ bớt những gì có thể bị coi là mê tín dị đoan. Nếu từ chối
không cho phép, thì sẽ tăng thêm hận thù. Cha khẩn khoản yêu cầu cha Boiret can
thiệp với Đại học
Sau khi cha Boisserand
được tháp tùng Đc Bá Đa Lộc trong một cuộc hội kiến với chúa Nguyễn Ánh, đặc
biệt bàn về vấn đề tôn kính tổ tiên, cha đã thuật lại cuộc hội kiến ấy cho cha
Letondal, MEP, và cũng bày tỏ cho cha Boiret ý kiến riêng như trên.
Theo Boisserand, Đc
trình bày cho chúa Nguyễn hay biết về giới luật trong đạo truyền phải thảo kính
cha mẹ, vì ngày hôm trước, hoàng tử Cảnh từ chối bái lạy trước bàn thờ tổ, làm
Nguyễn Ánh rất bực bội, cho là đạo này cấm việc tôn kính tổ tiên. Đc thành thực
nói rằng, chính ngài cũng bỡ ngỡ không ít.
Rồi ngài nói tiếp,
chẳng những đạo này không chấp nhận việc làm như thế, mà còn coi việc bất hiếu
với cha mẹ là tội nặng bậc nhất; nhưng, đạo dạy việc tôn kính tổ tiên phải được
đặt trên nền tảng chân lý. Do đó đạo đã cấm giáo hữu tại tất cả các nước ở vùng
Đông Ân tỏ lòng tôn kính cha mẹ như vậy, chỉ vì người ngoại giáo tin chắc rằng
hồn người chết nhận sự bái lạy của họ, và ăn những gì “tinh tuý” nhất (la plus
spiritueuse) trong các món thịt dâng cúng, rồi hồn người chết sẽ phù hộ cho họ
sống lâu, giàu có… Tin tưởng như thế, rõ ràng là trái với chân lý, nên giáo hữu
không được phép làm.
Nguyễn Ánh bỡ ngỡ, bởi
lẽ Nguyễn Ánh cũng theo nguyên tắc trên, rồi cho Đc hay: chính mình cũng nhận
rằng một khi cha mẹ đã khuất, thì hồn các ngài chẳng trở về được, con cái chẳng
còn nhờ các ngài giúp được gì, và coi nghi lễ tôn kính tổ tiên chỉ là chứng cớ
tỏ lòng nhớ đến cha mẹ. Nguyễn Ánh còn thêm: “Khi Ta cử hành những nghi lễ đó,
Ta tự bảo: nếu tổ tiên còn sống thì Ta muốn làm tất cả những gì ích lợi cho các
ngài; để tỏ lòng thành của Ta, lúc này Ta làm như thể tổ tiên Ta còn sống; dù
biết rõ các ngài chẳng còn sống, và những gì Ta làm đây chẳng còn mang lợi ích
gì cho các ngài cũng như cho Ta, nhưng vì muốn chứng tỏ cho mọi người thấy, Ta
đã không thể quên tổ tiên được và Ta muốn nêu gương cho toàn dân Ta về lòng
hiếu thảo” [27].
Liền đó, Đc thưa lại:
trong số các thần dân của nhà vương, mấy ai quan niệm giống nhà vương; xin nhà
vương cứ hỏi bất cứ người dân nào đầu tiên nhà vương gặp về lòng tin của họ vào
ngày cuối năm họ cúng bái tổ tiên, dâng của cúng từ tám đến mười ngày liền, sắm
sửa quần áo bằng giấy để cúng rồi đốt đi, hay họ tin là hồn tổ tiên hiện diện
tại bài vị nơi đó khói nhang nghi ngút, thì biết họ đều tin nhảm nhí. Nếu người
Đàng Trong hiểu biết như nhà vương và coi việc thi hành các nghi lễ trên có
tính cách dân sự, thì mọi giáo hữu ở đây sẵn sàng làm theo mà chẳng mắc tội gì.
Nhưng, rõ ràng các nghi lễ trên được người Đàng Trong coi là có tính cách tôn
giáo, nên ngưòi giáo hữu không thể làm được, vì đi ngược với giáo lý trong đạo.
Nguyên Ánh tiếp: ước
mong rằng nghi lễ tôn kính tổ tiên có thể hoà hợp được với Kitô giáo và theo
cách nhìn của Ta, thì chẳng có gì ngăn trở mọi người trong vương quốc Ta theo
đạo. Nếu Ta công bố cho dân biết việc cử hành các nghi lễ ấy chỉ có ý nghĩa dân
sự và chính trị, còn những tin tưởng có tính cách bình dân, mê tín, đều sai lầm,
thì người giáo hữu có được phép giữ các nghi lễ đó
không? Thời buổi này đang rối loạn, nếu Ta bãi bỏ nghi lễ này, thì dân chúng
sinh ra nghi ngờ, cho rằng Ta muốn thay đổi đạo, làm cho dân chúng chẳng còn
theo Ta. Chính Ta đã cấm bói toán, phù thuỷ, chiêm tinh, và coi việc thờ quấy
là sai lầm, nhưng Ta quyết phải giữ việc tôn kính tổ tiên theo cách Ta đã giãi
bày, vì Ta coi đó là một trong các nền tảng giáo huấn dân Ta. Các khanh hãy lưu
ý và hãy cho phép giáo hữu theo phong tục trong nước [28].
Ngày 5-6-1796, Đc Bá Đa
Lộc viết thư cho Gm phó ĐT của mình là Labartette [29] ở Quảng Trị (trong vùng cai
trị của Tây Sơn), về vấn đề Toà thánh cấm nghi lễ tôn kính tổ tiên, đại ý như
sau [30]:
“Nếu Roma có hỏi ý kiến
Đc, thì Đc hãy trình bày, sau khi đã suy nghĩ cẩn thận. Theo tôi nghĩ, đức vâng
phục của chúng ta đối với Toà thánh, không ngăn cấm chúng ta giãi bày những
nghi vấn của mình, chỉ cần chúng ta luôn luôn sẵn sàng vâng phục, một khi Toà
thánh tuyên bố ý nghĩ của chúng ta khồng có căn cứ.
“Từ khi Hội thừa sai
“Tôi là người thứ nhất
đã mang sắc lệnh trên vào xứ truyền giáo này; tôi nhận thấy mấy thừa sai và
nhiều giáo hữu chống đối. Vị tiền nhiệm của tôi [Gm Guillaume Piguel, MEP,
1764-1771], là người rất đạo đức, có lương tâm kính sợ, đã phục tùng với lòng e
ngại. Ngài không ngừng kêu trách về sắc lệnh này. Cha đại diện của ngài cũng
như tôi chẳng bao giờ muốn phục tùng sắc lệnh. Ít ngày trước khi qua đời, ngài
còn viết thư cho tôi, nói rằng, không thể lên án việc bái lạy như thế dưới bất
cứ khía cạnh nào… Ngài khẩn khoản tôi trình bày lại với Roma, đừng ép buộc giáo
hữu giữ thái độ như thế lâu hơn nữa đối với cha mẹ qua đời, đó là điều người
Đàng Trong cho là vô lễ, bất hiếu.
“Trong những năm đầu
tiên sống ở xứ truyền giáo này, khốn nỗi tôi là người, vì chẳng hiểu biết nguồn
ngọn vấn đề, nên đã trở thành một trong những người nhiệt thành nhất bênh vực
sắc lệnh [có lẽ muốn chỉ Hiến chế công bố năm 1742], Tôi đã gán ghép cho các
thừa sai kỳ cựu là những người xin hoãn lại việc thi hành sắc lệnh một thời
gian, là cứng cổ, kiêu ngạo, v.v…, có lẽ tôi cũng là nguyên nhân làm cho chẳng
ai trong số họ dám gửi các khiếu nại về Roma. Quả là lúc ấy tôi chẳng thấy được
vào một ngày nào đó, chính tôi sẽ là người đầu tiên phải làm tròn bổn phận
mình. Đúng là điều trên đây chỉ xảy ra sau 20 năm trời truyền giáo với nhiều
cuộc tranh cãi, tôi mới nhận ra sự ngán ngẩm của các thừa sai kỳ cựu là có nền
tảng hơn những gì tôi đã tưởng tượng. Tôi tin rằng, bổn phận của tôi là phải
xét lại cho chín chắn hơn, nên tôi đã nghiên cứu sách vở, bàn hỏi với các nho
sĩ ngoại đạo và có đạo thông hiểu vấn đề, thì tôi thấy các nho sĩ trên chẳng
tán thành chút nào sắc lệnh trên.
“Tôi xác tín rằng sắc
lệnh được viết ra dựa trên những bản tường trình sai lạc, nên khi trở lại Pháp,
tôi nhận thấy mình bó buộc vì bổn phận, phải giãi bày với nhà vua và các quan
là những người tấn công tôi về vấn đề này, nhưng tôi đã làm tròn nhiệm vụ. Sau
nhiều năm suy tư về vấn đề này, tôi không thể chần chừ mà chẳng trình bày lại
với Thánh Bộ [Truyền giáo]. Xin cha hiểu cho rằng, việc bái lạy như thế chẳng
có gì trái ngược với đức tin, tôi luôn luôn tiếp tục bảo vệ quan điểm này, cho
tới khi nào Giáo triều Roma có quyết định khác ngược lại”.
Trong một bức thư viết
ngày 30-5-1798 gửi cha Boiret, MEP, Đc Bá Đa Lộc còn viết:
“Tôi đã nhận được thư
trả lời [viết 29-12-1797] của thư ký Thánh Bộ về vấn đề bái lạy người chết. Như
tôi đã bắt đầu nói trên đây về những suy nghĩ của tôi liên quan tới nghi lễ,
nên lúc này tôi sẽ gửi các nhận xét của tôi sang Thánh Bộ sau các vị Đại diện tông
toà khác. Tôi trông chờ những ý kiến ngược lại. Thật ra, trong số các vị này, ít
người hiểu biết nguyên nhân. Theo trình bày của các vị, thì Thánh Bộ cũng chỉ
xác nhận sắc lệnh cũ của mình.
“Nhưng một điều đích
thực là, nghi lễ này ở Đàng Trong, dù có pha lẫn nhiều mê tín, thì tự nó chỉ là
bày tỏ lòng tôn kính đối với cha mẹ như khi các ngài còn sống. Nếu người ta cắt
bỏ tất cả những gì trái ngược với đức tin, như đồ cúng, lời cầu xin v.v…, thì
tất cả những gì còn lại đều đáng ca tụng, hơn nữa còn cần thiết trong nước này.
“Trong thời kỳ đầu tiên
của Giáo hội, các tông đồ và các thừa sai theo chân các tông đồ, rộng lượng hơn
chúng ta ngày nay. Hầu hết các nghi lễ trong Giáo hội, đã được dân ngoại sử
dụng, thì Giáo hội cải tạo lại, hoặc thánh hoá chúng bằng cách hướng về Thiên
Chúa, chỉ tẩy trừ tất cả những gì trái ngược với đức tin thuần tuý.
“Ngày nay, các thừa
sai, nhất là những vị mới đến, lên án tất cả những những gì trái với thành kiến
của họ, với nền giáo dục họ đã nhận được, mà chẳng nghĩ đến những thiệt hại lớn
lao họ gây ra ở các nước này trong việc truyền giảng đức tin. Cũng giống như
phái “Giăng-sen” khổ hạnh (jansenistes), họ luôn luôn sát cánh với những người
cứng nhắc nhất, cấm đoán nhiều việc bao nhiêu có thể, coi đó là đạo nghĩa hơn,
xác thực hơn. Điều có thể làm cha ngạc nhiên là, các thừa sai đó thường thường
đâu có phải là hạng dốt nát, hơn nữa họ còn được coi là người thông hiểu về tất
cả những gì liên quan đến bậc sống của họ. Nhưng các tục lệ họ thấy bên châu Âu
pha trộn với các nghi lễ tôn giáo, cùng nền giáo dục Âu châu, làm cho họ coi là
tốt, nên muốn được phổ biến khắp nơi. Cho nên họ lên án, hay ít ra là nghi ngờ
tất cả những gì không hợp với họ đều trái với đức tin, do đấy gây ra nhiều tai
hại: người ngoại đạo thì phẫn nộ, chống đối, còn giáo hữu thì chán nản vì bị
khinh chê là đã trở thành người Âu châu.
Hai tuần lễ sau, ngày
15-6-1798, hơn một năm trước khi qua đời, Đc Bá Đa Lộc còn viết một thư cho cha
Boiret nói về vấn đề giáo hữu cần được phép bái lạy trước thi hài cha mẹ, điều
mà trong nghi lễ người Việt gọi là lạy xác [31].
Sau đó trong thư viết
ngày 12-11-1800, Đc Labartette, Gm Đàng Trong, gửi cho Ban Giám đốc Hội thừa
sai Paris, đưa ra nhiều lý lẽ bênh vực nghi lễ lạy xác. Labartette cho rằng
chẳng có gì là mê tín trong việc này, tất cả chỉ có tính cách dân sự, tỏ lòng
kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ, với các bề trên, bạn bè, ân nhân, cấm nghi lễ
này gây ra biết bao thiệt hại cho việc truyền bá đức tin, làm cho người ngoại
đạo chán ghét, khinh bỉ, mà nói rằng: “Người ta vẫn khoe khoang là một đạo tốt
lành khác thường, mà dám coi việc cấm lạy xác là chính đáng; lạy xác chỉ là
nghi thức bên ngoài biểu lộ lòng tôn kính biết ơn đối với cha mẹ, bề trên…; cấm
đoán như thế chẳng phải là tệ bạc với đấng sinh thành ra mình, nuôi dưỡng và
dạy bảo mình sao…”? Đó là điều hàng ngày người Đàng Trong bàn tán. Đc
Labartette cũng nêu ra trường hợp cha Halbout, MEP 221, đã lên tiếng
phản đối những ai là nguyên nhân của việc cấm đoán lạy xác, thì có tội trước
mặt Thiên Chúa [32].
Đc Bá Đa Lộc chẳng
những không tán thành việc cấm đoán nghi lễ tôn kính tổ tiên, mà còn ước ao có
được nghi thức phụng vụ Công giáo Trung Hoa. Ngay năm-1796, Đc Bá Đa Lộc đã
viết cho cha Boiret về vấn đề này, và nêu ra những khó khăn [33]:
“Hãy khoan bàn đến nền
tảng của vấn đề, cứ giả thiết Toà thánh đồng ý ban ơn này, giống như thời kỳ
đầu tiên của Giáo hội, là những gì thuộc đức tin, và những điểm chính yếu thuộc
kỷ luật cho toàn Giáo hội phải được giữ nguyên vẹn, còn bao nhiêu phải thích
hợp với phong tục và giáo dục Trung Hoa.
Nếu chỉ dịch từng chữ
trong nghi thức Latinh sang Trung Hoa, thì ích lợi gì? Liệu người ta có thể làm
cách nào chấp nhận được? Ai dám phiên dịch toàn bộ Kinh thánh sang tiếng Trung
Hoa? Đối với tiếng Trung Hoa, soạn một bộ sách “Phụng vụ các giờ kinh” như của
chúng ta đang đọc hiện thời, có nghĩa lý gì?
“Để cho việc phụng vụ
trên có ích lợi hơn, chẳng những cần phải có những nhà Thần học thông thái,
những người biết sâu rộng về ngôn ngữ, chữ viết và phong tục Trung Hoa, mà còn
phải có những người đã giũ bỏ được mọi thành kiến do nền giáo dục Âu châu. Cha
nghĩ coi, liệu có thể tìm được những người này trong các xứ truyền giáo?
”Để cha hiểu rằng bao
nhiêu cái phải thay đổi, thì tôi chỉ xin nêu ra một cái bình thường nhất và ít
quan trọng, đó là ‘áo các phép’ (surplis). Áo này được mặc trong tất cả các
nghi lễ của Giáo hội, đốì với chúng ta đó là bộ áo chỉnh tề, trang trọng, hơn
nữa có lẽ một số người Âu châu còn cho là uy nghi. Nhưng, cũng thứ áo này, về
hình thức và sắc màu, làm cho dân chúng xứ này phẫn nộ. Điều nói về ‘áo các
phép’ có thể mở rộng sang các thứ khác. Nếu Roma chấp nhận một phụng vụ kiểu
Trung Hoa, thì tất cả mọi nghi lễ, lễ phục, ca hát, phải được thích hợp với
những con người chúng ta đang phục vụ […].
“Cha đừng công phẫn khi
tôi nói thêm: Những nghi thức phụng vụ đối với chúng ta uy nghi, lại chẳng ăn
nhằm gì đối với người Trung Hoa, Đàng Trong và các dân tộc khác; mũ lễ vuông
của chúng ta, lễ phục ngắn cụt và chật hẹp của chúng ta, cách chúng ta xông
hương, những cách cúi lạy ngắn ngủi, để đầu trần [không đội mũ]… người ta đều
cho là hời hợt, nực cười. Vì ở nơi họ các lễ phục đều dài rộng, cùng với nghi
thức bái phục, rất trang trọng, uy nghi. Nếu cha chứng kiến những nghi lễ của
họ trong đền đài vua chúa và các đền thờ, chắc chắn cha cũng nhận thấy những
nghi lễ ấy vừa toát lên sự tôn kính vừa gây chú ý
“Còn về việc dự định
đặt các Thượng phụ giáo chủ hay các Tổng Giám mục để coi sóc các Gm người Ấn
[người địa phương Đông Ân], chỉ cần hiểu biết tình hình chính trị và địa dư các
nước này, thì cũng cảm thấy không thể thi hành điều đó được. Thường thường sự
liên lạc giữa các nước này với nhau còn khó hơn là liên lạc với Roma”.
Trên đây chúng ta đã
nêu một số ý kiến của các thừa sai tại VN về vấn đề tôn kính tổ tiên và các
phong tục địa phương. Một điều làm cho người ta khá ngạc nhiên là, dù Hiến chế
năm 1742 đã cấm ngặt không được bàn cãi gì nữa về vấn đề này, nhưng vào cuối
thế kỷ XVIII, nhiều thừa sai Paris, đặc biệt cả hai Gm Đàng Trong lúc đó là Đc
Bá Đa Lộc và Labartette, lại rất bức xúc, phải nói là do lương tâm thúc đẩy,
nên ra sức khẩn khoản xin Toà thánh xét lại, dù các ngài vẫn tuân theo Toà
thánh, không dám cho phép giáo hữu tôn kính theo phong tục trong nước. Liền sau
đây, chúng tồi xin thuật lại dài dòng hơn về việc Toà thánh can thiêp vào việc
tôn kính tổ tiên, đến đô phải nghiêm cấm; qua đó chúng ta sẽ thấy được mặt tiêu
cực của việc ngăn cấm này.