III. Toà thánh Roma can
thiệp
Khi các thừa sai phương
Tây vào Trung Hoa và Việt Nam, đều vô cùng bỡ ngỡ về các nghi lễ, phong tục ở đây
quá khác lạ với những gì quen thuộc ở châu Âu, nhiều vị còn cho là mê tín dị
đoan, cần phải được tẩy rửa thì mới hợp với đức tin. Cho nên nhiều báo cáo gửi
về châu Âu, xin giải quyết. Vì ở xa, Toà thánh khó mà hiểu hết sự việc, nên đã
ra lệnh nghiêm cấm, nhất là vào năm 1715 và 1742. Tuy nhiên, ngay từ cuối thế
kỷ XVI cũng có những nhà truyền giáo ra sức nghiên cứu tìm hiểu sâu xa vấn đề.
Chẳng hạn như cha Matteo Ricci [34] để hết tâm sức vào việc học chữ Hán, tập
suy tư và sống như người Trung Hoa, không phải chỉ bề ngoài mà bằng cả tâm hồn,
nghiên cứu ngôn ngữ, văn học, triết học và các phong tục, nghi lễ… cùa Trung Hoa;
hơn nữa, Ricci còn viết sách giáo lý, thiên văn, toán học, triết học, từ điển
bằng tiếng Hoa. Ricci đã cố gắng hội nhập, hay hơn nữa là hoà mình vào văn hoá,
xã hội Trung Hoa trong suốt cuộc đời truyền giáo ở đây, mở đầu cho nhiều nhà
truyền giáo khác theo.
Sau đầy chúng tôi bàn về
việc Toà thánh Roma can thiệp bằng cách cấm các nghi lễ tôn kính tổ tiên, Khổng
Tử và nhiều nghi lễ tương tự ở Trung Hoa [35], nhưng cũng hiểu là ở cả những nước chung
quanh, nhiều ít ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa, như Việt Nam chẳng hạn, mà thời
xưa Giáo hội Việt ta quen gọi là cuộc tranh tụng “lễ phép nước Ngô”.
Năm 1633, bắt đầu châm ngòi
cho cuộc tranh tụng kéo dài ít nhất hơn 100 năm (1633-1742) do hai cha Juan
Bautista Moralez, OP, và Antonio de Santa Maria Caballero, OFM, từ Philippin
vào nước Đại Minh. Hai cha đã chứng kiến ở Mai Dương (huyện lỵ huyện Phước Ninh
trong tỉnh Phước Kiến), các cha DT cho phép giáo hữu Trung Hoa được kính lễ Đức
Khổng và người qua đời như nghi thức người Hoa quen thi hành đối với tổ tiên và
các triết gia của họ.
Hai cha nhận thấy giáo hữu
Mai Dương làm như thế là hành vi mê tín dị đoan, nên các ngài lên tiếng phản
đối. Do đó năm 1635, hai cha viết thư cho cha Phó Giám tỉnh DT Trung Hoa là
Manuel Dias [36] hỏi cho ra lẽ, nhưng không nhận được
câu trả lời. Hai cha càng phản đối mạnh hơn, làm cho nhà cầm quyền địa phương
nổi giận với các cha Đa Minh và Phanxicô, vì chống lại phong tục văn hoá trong
nước, gây nguy hại cho an ninh trật tự xã hội. Vì vậy cha Moralez và một cha Đa
Minh khác là Francisco Diaz bị tống giam vào ngục, bị cùm, bị đánh đòn, sau
cùng bị ra toà rồi bị trục xuất sang Áo Môn.
Tại Áo Môn, năm 1639 cha
Moralez gửi văn thư cho cha Manuel Dias lúc đó là Giám sát hai tỉnh DT Trung
Hoa, Nhật Bản, một danh sách, yêu cầu cha Dias giải thích tại sao các cha DT đã
chấp thuận như vậy; sau đây là một số câu hỏi:
2. Những quvết đinh đầu
tiên của Toà thánh
Vì thấy cha Giám sát DT
không trả lời những câu hỏi trên đây, nên cha Clementê Gan, Giám tỉnh Dòng Đa Minh
viết thư cho cha Giám sát DT yêu cầu cha phải làm sáng tỏ những điểm thắc mắc
trên, sau khi đã bàn hỏi với những người thông thạo vấn đề được chọn ra từ các
Dòng tu. Vẫn im lặng! Vì vậy, bó buộc các cha phải đưa vấn đề gai góc này trình
bày cùng Toà thánh. Hai cha được cử đi, đó là cha Dòng Đa Minh Juan Bautista
Moralez và cha Dòng Phanxicô Antonio de Santa Maria Caballero được các Bề trên
phái về Roma. Tại đây hai cha tâu trình với Toà thánh 17 vấn đề.
Thế là năm 1645 ĐTC
Innocentê X ra sắc lệnh cấm người tín hữu thi hành các nghi lễ cúng bái tổ tiên
và đức Khổng Tử. Sắc lệnh được công bố tại Goa, Manila và Áo Môn. Cha Moralez
trở lại Áo Môn, Trung Hoa, đích thân thông báo cho cha Giám sát DT Dias, nhưng
Dias trả lời rằng DT sẽ trình bày lại với ĐTC rõ ràng hơn.
Năm 1648, cha Francisco
Capillas, O.P. chịu tử đạo vì chống lại việc kính thờ tổ tiên và Đức Khổng Tử.
Tám năm sau, ngày 23-3-1656,
Cha Martino Martini, S.J., sau khi trình bày nghi lễ kính bái tổ tiên với Thánh
Bộ Thánh vụ, ĐTC Alexander VII lại cho phép. Bởi vì, cứ theo trình bày của
Martini, người Trung Hoa hoàn toàn chẳng dâng cúng gì cho Đức Khổng (nihil
omnino offerendo), mà chỉ tỏ bày cách tôn kính như thói thường các môn đệ tôn
kính thầy mình; đàng khác những nghi thức ấy hoàn toàn có tính cách dân sự,
không nhuốm màu sắc tôn giáo. Các giáo sĩ DT hiểu biết được như vậy là nhờ những
cuộc tiếp xúc với mọi giới, đặc biệt giới trí thức Trung Hoa thời đó, chứ không
phải chỉ nhìn vào những hình thức bề ngoài trong việc cúng bái của giới bình
dân đôi khi pha trộn màu sắc mê tín.
Phái “Giăng-sen” (Jansenistes)
ở Pháp được dịp công kích DT hơn nữa, cho rằng DT ở Đông Á tán thành những việc
tôn thờ sặc mùi mê tín, dị đoan của dân ngoại. Pascal, nhà khoa học, cũng là
nhà Triết học nổi tiếng của Pháp, càng mạnh mẽ lên án DT hơn, nên trong Lettres
provinciales, thư thứ 5 đề ngày 20-3- 1658, ông công kích DT nhiều mặt, kể cả
vấn đề nghi lễ cúng bái tổ tiên của Đông Á; Pascal cho rằng, các giáo sĩ DT ở
Đàng Trong dám cho phép giáo hữu thờ tà thần Quan Âm và Đức Khổng Tử với điều
kiện giấu ảnh Chúa Giêsu trong mình mà thầm thĩ kêu xin! Thế là các Giêsu hữu
càng bị người ta cho là những kẻ đạo đức giả hình bằng từ ngữ “jésuitiques”,
“Morale des Jésuites”!
Những người tán thành quyết
định 1656 của ĐTC Alexander VII, xem ra giải thích rộng rãi hơn, coi quyết định
năm 1645 trước đó của Đức Innocentê X không còn giá trị. Ngược lại, nhiều người
vẫn theo quyết định của Toà thánh năm 1645, nhất là phái “Giăng-sen” và Đại học
Sorbonne. Rõ ràng là lúc đó xuất hiện hai phái trong Giáo hội về vấn đề tôn
kính tổ tiên.
Vậy, sắc lệnh năm 1656 có
huỷ bỏ sắc lệnh 1645 không? Cha Juan de Polanco, O.P., một vị thừa sai tông toà
(missionnaire apostolique), xin Thánh Bộ Thánh vụ giải quyết, thì ngày 20-11-1669
Thánh Bộ trả lời: cả hai sắc lệnh trên đây vẫn hoàn toàn có giá trị và phải
được tuân giữ tuỳ theo các vấn đề, tuỳ theo các hoàn cảnh và tuỳ theo tất cả
những gì chứa đựng trong các nghi vấn được nêu ra.
Từ đó xem ra hai phe phái,
nhất là tại Đông Á có vẻ như cùng hoà hợp nhau hơn, vì nhóm nào cũng thấy sắc
lệnh 1645 hay 1656 có giá trị. Hơn nữa, một sự kiện làm hai phái thừa sai ở Trung
Hoa ngay từ 1665 đã xích lại gần nhau hơn, vì tất cả thừa sai các Dòng bị giam
lỏng cùng một nhà tại Quảng Châu trong năm năm kể từ 1665, có dịp “rảnh rỗi”
trao đổi về nền văn hoá Trung Hoa và Giáo hội phải thích nghi với văn hoá vùng
này.
Nguyên đối với vấn đề kính
lễ Đức Khổng và người quá cố, các vị đồng ý với nhau là, phải tuyệt đối tuân
theo những câu trả lời của Bộ Thánh vụ, tức Bộ Tra vấn, đã được ĐTC Alexander
VII chấp thuận năm 1656; vì những câu trả lời ây được dựa trên nền tảng khá
chắc chắn này mà chẳng có gì hiểu trái ngược lại được. Đó là không được đóng
cửa việc cứu độ đối với vô số người Hoa, khi không cho họ bước vào Kitô giáo,
chỉ vì cấm họ thi hành những việc họ có thể làm hợp pháp và với thiện tâm, là
những việc nếu họ không thi hành sẽ gây ra nhiều thiệt hại lớn lao.
3. Quyết định của Đc
Maigrot[37]
Đc Charles Maigrot, một
vị thừa sai Paris, được bổ nhiệm làm Gm tông toà Phước Kiến từ 1687, kế vị Đc Pallu,
thể theo ý Toà thánh công bố quyết định “chết người” sau đây [38] (xin ghi lại
tóm tắt):
“Theo các Hiến chương và
sắc lệnh của Toà thánh, thì một trong những bổn phận của các Đại diện tông toà
là phải lo liệu cho việc tôn thờ Thiên Chúa và sự tinh tuyền về các phong tục
trong những vùng lớn lao do các ngài chịu trách nhiệm. Vì vậy, tôi truyền lệnh
cho mọi thừa sai cách chung, cũng như từng vị thừa sai cách riêng, trong giáo
phận tôi, phải tuân giữ tất cả những điều sau đây cho đến khi Toà thánh định
liệu thể khác:
“Thứ nhất, bởi vì, nếu người ta viết hoặc nói sang tiếng Hoa các từ Tây phương chỉ
cho Thiên Chúa, thì thấy kỳ cục; vậy chúng ta phải dùng từ Trung Hoa Thiên Chủ
là từ đã được sử dụng lâu đời, có nghĩa là: Chủ của Trời. Nhưng phải loại bỏ
hoàn toàn hai từ Thiên và Thượng Đế, dù cho rằng vẫn có một số người Hoa hiểu hai
từ này chỉ cho Thiên Chúa mà người Kitô giáo thờ lạy.
“Thứ hai, trong bất cứ nhà
thờ nào, cũng không được phép treo tấm hoành phi (bảng treo ngang trong nhà có
khắc chữ sơn son thếp vàng) trên đó viết hai chữ Kính Thiên; nơi nào đã treo,
thì hạn trong 2 tháng phải tháo gỡ. Chẳng những thế, mà bất kỳ tấm bảng nào hay
những câu thơ nào trong các nhà thờ có chữ Thiên hay Thượng Đế dù có ý để chỉ
cho Thiên Chúa, cũng phải gỡ bỏ, vì tôi thâm tín rằng những từ đó và đặc biệt
từ Kính Thiên có ý nghĩa tà thần.
“Thứ ba, tôi tuyên bố rầng,
trước đây người ta đã trình bày với ĐTC Alexander VII những điểm tranh cãi giữa
các thừa sai, liên quan tới việc tôn kính tổ tiên và Đức Khổng không đúng với
sự việc ở đây, cho nên không thể dựa vào đó mà bỏ qua những quyết định khác của
Toà thánh.
“Thư bốn, tôi cấm các thừa
sai không được vì lý do nào hoặc bằng cách nào, cho phép người tín hữu lãnh
nhiệm vụ tế tự, hoặc các công việc khác của tế tự, cũng chẳng được hiện diện
trong các cuộc tế tự long trọng người ta quen tổ chức hai lần một năm kính nhớ
Đức Không và tôn kính người đã khuất, vì nó đầy dẫy mê tín.
“Thứ năm, tôi hết sức ca
tụng những thừa sai đã nhiệt thành ra lệnh huỷ bỏ trong vùng truyền giáo của mình,
những tấm bảng quen ghi các câu kính nhớ người qua đời.
“Thứ sáu, nhận thấy rằng,
người ta đã công khai viết một số điều gây nguy hại cho những người chất phác,
và mở đường cho mê tín dị đoan, ví dụ:
Nếu người ta hiểu đúng triết
học Trung Hoa, thì triết học này chẳng có gì trái ngược với đức tin Kitô giáo;
Việc Đức Khổng kính lễ các
thần, có tính cách chính trị hơn là tôn giáo;
Sách Kinh dịch là một toát
yếu hay một tổng luận học thuyết trổi vượt về vật lý và luân lý;
“Vậy, tôi cấm tất cả những
cách trình bày như thế hoặc giống như thế trong giáo phận này, vì sai lạc, càn
dỡ và gây gương xấu.
“Thứ bảy, yêu cầu các thừa
sai lưu ý để các thầy giáo là người giáo hữu đừng đọc hoặc giải thích các sách
Trung Hoa trong trường học nghiêng về mê tín hay vô thần, mà phải giải thích
cách nào cho thấy một Thiên Chúa cao cả dựng lên trời đất muôn vật”.
4. Đại học Sorbonne lêu
án nghi lễ Trung Hoa
Ngày 18-10-1700, Phân khoa
Thần học Sorbonne cũng lên án việc tôn kính tổ tiên vả Đức Khổng, đặc biệt lên
án những quan điểm sau đây:
- Dân tộc Trung
Hoa đã bảo tồn ưên 2000 năm nay, trước khi Chúa Giêsu ra đời, về nhận thức một
Thiên Chúa chân thật và đã tôn kính Người đến mức có thể làm gương mẫu cho
nhiều dân tộc.
- Dân tộc Trung
Hoa đã tế lễ Đấng Tạo hoá trong ngôi Đền cổ kính nhất của thế giới [có lẽ muốn
nói về tế Đàn
- Dân tộc Trung
Hoa đã sống một nền luân lý cũng tinh tuyền như Tôn giáo.
5. Sứ thần de Tournon
đi Trung Hoa
Trước hết nên biết rằng,
ngày 20-11-1704, ĐTC Clementê XI [39] ra sắc lệnh chấp thuận những điểm sau đây do
Bộ Thánh vụ công bố:
- Cấm dùng từ
ngữ Thiên, Thượng Đế để chỉ cho Thiên Chúa;
- Cấm trưng
bày trong nhà thờ tấm hoành phi có hai chữ Kính Thiên;
- Cấm làm chủ tế hoặc tham
dự lễ tế Đức Khổng hoặc người quá cố, vì đó là nghi lễ đầy dị đoan;
- Cấm tế Đức Khổng
trong ngày một và rằm mỗi tháng;
- Cấm đặt bài vị
trong nhà.
Tuy nhiên, sắc lệnh trên
đây chỉ được Sứ thần Carlo Tommaso Maillard de Tournon công bố tại Nam Kinh
ngày 25-1-1707, theo đó ai không tuân lệnh, tức khắc bị vạ tuyệt thông. Đức cha
de Tournon được ĐTC Clementê XI cử đi Trung Hoa để giải quyết vấn đề nghi lễ
Trung Hoa, với những chức tước: Thượng phụ Giáo chủ Antiocô, Tổng Uỷ viên và
Khâm sai Toà thánh ở Đông Ấn, Trung Hoa và những vương quốc kế cận với quyền
hành Đặc sứ Toà thánh (Patriarche d’Antioche, Commissaire et Visiteur apostolique
général dans les Indes orientales, dans la Chine et autres royaumes adjacents,
avec les pouvoirs de légat à latere)[40]. Sứ thần de Tournon rời châu Âu cuối
năm 1704, tới Bắc Kinh 4-12-1705. Sau khi de Tounon công bố sắc lệnh của ĐTC Clementê
XI tại Nam Kinh (lúc đó vừa được công bố làm Hồng y), thì những thừa sai nào
tuân theo sắc lệnh của ĐTC, bị vua Khang Hy trục xuất khỏi Trung Hoa, trong số
này có Đc Maigrot. Còn các thừa sai dòng Tên, Đc Francis, OFM, Gm Bắc Kinh và
Đc Alvare de Benavente, dòng Augutinh, Gm Quảng Tây, cố gắng giải thích cho
giáo hữu và nhà cầm quyền, hầu tránh gây thiệt hại cho công cuộc truyền giáo
bao nhiêu có thể. Vua Khang Hy cũng ra lệnh trục xuất Sứ thần de Tournon vì đã
dám đi ngược với phong tục Trung Hoa, giao cho người Bồ Đào Nha ở Áo Môn canh
giữ. Sứ thần qua đời ngày 8-6- 1710 trong lúc còn bị quản thúc tại Áo Môn.
6. Hiến chế Ex
ilia die năm 1715
Roma càng cương quyết giữ
vững lập trường cấm việc tôn kính tổ tiên theo nghi lễ Trung Hoa. Vì thế ngày
19-3-1715, Đức Clementê XI công bố Hiến chế Ex ilia die, mục đích là xác minh
hơn sắc lệnh năm 1704 và buộc mọi người phải vâng phục hoàn toàn, còn các thừa
sai thì phải long trọng tuyên thệ tuân giữ. Sau đây xin tóm lược những điểm
chính của Hiến chế:
- Dùng từ Kính
Thiên trên các bức hoành phi treo ở nhà thờ hoặc nhà tư;
- Cấm tế Đức
Khổng và tổ tiên trong các dịp: thứ nhất, một năm hai lần mặt trời ở chính đường
hoàng đạo; thứ hai, khi các quan lớn nhỏ thi đậu, vào văn miếu cúng tế bái tạ
Đức Khổng; thứ ba, đơm cúng ông bà trong nhà tổ (từ đường); thứ bốn, đơm cúng
ông bà trước bài vị (thần chủ), trong nhà riêng, nơi mồ mả, trước khi mai táng;
thứ năm, giữ thần chủ trong nhà.
“Tôi là N. thầy cả giảng
đạo, do Toà thánh hay do đấng bề trên tôi bởi phép Toà thánh, sai tôi đi, hay
đã định cho tôi làm các phép cho bổn đạo trong nước N. hay là xứ N., thì tôi sẽ
vâng phép Toà thánh truyền dạy về các lễ phép dối trá nước Trung Hoa trong Hiến
chế của ĐTC Clementê XI, đã lệnh phải tuyên thệ theo mẫu lời thề này. Tôi đă
đọc trọn Hiến chế ấy cách kỹ càng, tôi xin vâng giữ trọn vẹn, cách chính xác,
tuyệt đối và bất khả xâm phạm đúng như Hiến chế dạy, mà chẳng dám thoái thác
cách nào. Nếu tôi không giữ như vậy, thì hễ lần nào tôi lỗi phạm, tôi cam đoan
chịu phạt vạ như Hiến chế qui định. Vậy tôi xin đặt tay trên sách Phúc âm này
mà hứa (promitto), khấn (voveo) và thề (juro). Xin Thiên Chúa cùng sách Phúc âm
của Chúa phù hộ cho tôi”.
Tôi là N., chính tay
tôi ký.
Tại Đàng Trong, cha G.B.
Sanna, SJ., giải thích Hiến chế trên cách rộng rãi, gần như là phản ứng lại,
nên ngày 21-2-1717 đã công bố những điều giáo hữu được làm liên quan tới vấn đề
người qua đời, như chúng tôi đã trình bày ở trên.
Còn Đc Perez-Gm Đại diện
tông toà Đàng Trong, cũng chần chừ công bố Hiến chế 1715 sau khi nhận được Hiến
chế vào cuối tháng 11-1716. Đc Perez là người lai Âu Á, không phải lai Pháp,
cũng chẳng phải là thành viên của Hội thừa sai Paris, mặc dù được chính Đc
Lambert và mấy cha thừa sai Paris khác trực tiếp huấn luyện trong Chủng viện thánh
Giuse tại Ajuthia. Lúc đầu Đc Perez rất ngạc nhiên, không tin Hiến chế Ex ilia
die là đích thực của ĐTC Clementê XI. Sau khi biết rõ, Đc vẫn ngại công bố;
nhưng do sự thúc ép của ba cha thừa sai
Ngày 10-7-1717, Đc Perez
ra thư luân lưu buộc giáo hữu tuân theo lệnh Toà thánh, nhưng Đc không dám đóng
mộc vào thư vì sợ chính quyền ĐT cho là đi ngược với phong tục VN. Dưới đây,
chúng tôi xin theo bản Latinh mà chúng tôi đã dịch ra trước đây trong cuốn sách
lưu hành nội bộ Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773[43] vì không có bản văn gốc chữ
Việt:
“Ta là Cha Cả Phanxicô,
vít vồ Bugi [giám mục hiệu toà Bugie], thay mặt Đức Giáo tông ở Đàng Trong, Chiêm
Thành và Cao Mên, xin Đức Chúa Trời ban cho anh chị em bổn đạo được ơn giữ đạo
thánh và phần phúc đơi đời.
“Trên thế gian này hiện
có nhiều sự tối tăm, song ơn Đức Phiritô Sangtô hằng soi chiếu cho chúng ta; vậy
kẻ nào đi theo ánh sáng trên đây, không thể lầm lạc được. Trong nước này có nhiều
điều gây ra khó khăn, rắc rối, song Đức Giáo tông đã xét định mọi việc. Vậy
chúng ta phải vâng lệnh Đức Giáo tông và phải giải định (definire) mọi sự theo
lệnh của Người.
“Vì thế trong những ngày
đầu năm mới và các ngày mà bổn đạo quen làm cỗ, thì không được đặt mâm cỗ trên
giường thờ tổ tiên;
“Không được tế. Không được
phủ phục sát đất trước giường thờ này;
“Không được làm bồi tế trong
các cuộc cúng tế trên;
“Không được mang cờ gia
triau [gia triệu].
“Chúng ta phải tử bỏ mọi
thứ mê tín dị đoan; chẳng những chúng ta không được làm những việc ấy, mà hơn
nữa, còn phải xa tránh những công việc ma quỉ xấu xa, tức là việc thờ tà thần:
như là thề thốt bua ba [vua chúa phạt vạ] là việc làm nhân danh quỉ thần; vậy,
hoàn toàn không được phép làm việc đó.
“Anh chị em thân mến,
“Xin anh chị em hãy tuân
giữ cặn kẽ các lời trên đây, để anh chị em khỏi đi vào đường lầm lạc, là điều
bất lợi cho anh chị em. Tất cả chúng ta dù là thầy cả, hay là bổn đạo, đều phải
một lòng một ý vâng phép Đức Giáo tông; như vậy chúng ta sẽ là những người con
ngoan ngoãn của thánh Ighêrêgia; ai không tuân phép, không phải là con của thánh
Ighêrêgia và mất phần phúc đã hứa ban trên ười.
“Xin Đức Chúa Trời gìn giữ
anh chị em khỏi mọi vết nhơ và che chở anh chị em đời đời.
” Làm ngày 29 tháng 5 [Đinh
Dậu], tức 10-7-1717″.
Chúng ta thấy, ngày 30-10-1717,
Đc Phó ĐT là Marin Labbé, 5 vị thừa sai Paris ở ĐT là Sennemand, Heutte, Flory,
Godefroy, Gouge và linh mục Mauro Trần Thế Lộc người ĐT, cũng tuyên thệ theo
bản mẫu Hiến chế, nhưng không thấy ghi tên Đc Perez, cha Sanna, S.J. hay cha
Phanxicô nào. Tại kinh đô Huế, cha Lorensô (Huỳnh Lâu?) họp chừng 300 giáo hữu
trong nhà thờ để thuyết phục họ phải vâng phục tuân theo Hiến chế[44]. Cha
Heutte thì cho rằng, thư luân lưu của Đc Perez còn “yếu”, chưa nói mạnh mẽ hơn
như đáng phải nói
7. Tám điều được phép
làm
Hiến chế Ex ilia die vẫn
không dập tắt được các cuộc tranh luận về lễ phép nước Ngô, dù Hiến chế bó buộc
các thừa sai phải tuyên thệ vâng phục, thậm chí còn phạt vạ, nếu dám đi ngược
lại với Hiến chế. Ở Đông Á đã vậy, mà ngay tại Roma vẫn còn nhiều ý kiến khác
nhau. Những thừa sai và giáo hữu ủng hộ văn hoá địa phương, càng bỡ ngỡ khi
thấy Roma áp đặt một lối nhìn của phương Tây cho phương Đông có tính cách độc
đoán như vậy, thì càng khó chịu hơn nữa, vì thấy cái nhìn như vậy là “cái nhìn
thực dân văn hoá”, dù Roma không hề có ý đó, mà chỉ nghĩ là để bảo toàn tính
tinh tuyền tôn giáo và phong hoá theo Kitô giáo.
Đứng trước “thảm kịch” đang
diễn ra trong lòng Giáo hội, ĐTC Clementê XI lại phái Đc Carolo-Ambrogio Mezzabarba
làm Khâm sai Toà thánh với chức Đặc Sứ thần (Legatus à latere), đồng thời phong
cho ngài làm Thượng phụ Giáo chủ Alexandria. Sứ thần Mezzabarba lên tàu tại
Lisbõa ngày 23-3- 1720, đặt chân lên Áo Môn ngày 20-9-1720, vào Quảng Châu ngày
11-10, lên Bắc Kinh triều yết Hoàng đế Khang Hy. Trở lại Áo Môn, Sứ thần công
bố ngày 4-11-1721 Tám điều được phép làm (Octo permissiones) [45], miễn là phải
coi những việc đó thuôc nghi lẽ dân sư. không có tính cách tôn giáo, và phải
tránh mọi hình thức dị đoan:
Khi cử hành các nghi lễ
nói trong số 1,3,4,6, thì phải viết mấy chữ đặt bên cạnh, hầu giải thích việc mình
làm chỉ có tính cách hiếu thảo, dân sự, không hề mang ý nghĩa tôn giáo.
Sứ thần Mezzabarba muốn
đưa ra một lối nhìn cởi mở, tôn trọng các nền văn hoá, nhìn sự việc theo đúng ý
nghĩa của nó, nên đã công bố những điều trên. Ngay khi vừa tới Áo Môn ngày 20-9-1720,
Sứ thần đã giải vạ cho Đức Gm Áo Môn và cho cha José Monteiro, Giám tỉnh DT Phụ
tỉnh Trung Hoa, vì cả hai đã bị vạ tuyệt thông do không tuân lệnh Hiến chế Ex
ilia die.
Tám điều được phép làm vẫn
chưa giải quyết xong vấn đề: được lòng phương Đông thì lại mất lòng phương Tây!
Quả thật, chính Roma do bị nhiều phía thúc ép, không chấp thuận việc làm của Sứ
thần. Vì thế, ngày 26-9-1735, ĐTC Clementê XII ra đoản sắc Apostolicae sollicitudinis
hủv bỏ hai bức thư muc vu của Đc Francis, OFM, Đại diện tông toà Bắc Kinh (Đc
qua đời vài ngày trước khi ĐTC ra đoản sắc. Nội dung của hai bức thư này là
tuyên bô Tám điều được phép làm, để giáo hữu an tâm mà thực hành. Nhưng đoản
sắc trên đây lên án Tám điều được phép làm là “hoàn toàn vô giá trị, bất thành
sự và phải được huỷ bỏ” (penitus et omnino nulla, invalida et irrita) [46].
Ở Đàng Trong, Đc Elzéar-Franẹois
des Achards de La Baume, Gm hiệu tòa Halicarnasse, sinh năm 1679 tại Avignon,
được Toà thánh cử làm Kinh lý tông toà (Visiteur apostolique), thay mặt Toà
thánh giải quyết các cuộc tranh chấp về vùng hoat đông của các nhóm thừa sai,
đồng thời lênh cho giáo đoàn nàv phải tuân theo Hiến chế Ex ilia die và không
đươc làm theo Tám điều đươc phép Đc Mezzabarba đã công bố.
Đc La Baume tới Áo Môn 15-7-1738,
thì bị Thống đốc bán đảo này giam lỏng mấy ngày, vì chưa có phép vua Bồ Đào Nha
để tới đây; may nhờ có cha Giám tỉnh DT can thiệp với Thống đốc, nên mới được
tự do. Sau một tuần lễ phải dừng tại Áo Môn, lại gặp “tai nạn” bị quản thúc mấy
ngày, Đc La Baume và phái đoàn vội vàng rút lui khỏi Áo Môn, vào Quảng Châu,
thuê ghe thuyền của người Hoa chở đi Đàng Trong, mãi đến 30- 4 – 1739 mới có
mặt tại Hội An, nhưng bị ngã bệnh, từ trần tại Phủ Cam trong khoảng từ 15g-16g
ngày 2-4-1741, nhằm chính ngày lễ Phục sinh, khi chưa hoàn thành cuộc kinh lý[47].
8. Hiến chế Ex quo
sinsulari năm 1742
Hơn 100 năm sau kể từ khi
Toà thánh lần đầu tiên, năm 1645, chính thức cấm nghi lễ Trung Hoa, tình hình
vẫn chưa ổn;
nên ngày 11-7-1742, ĐTC
Bênêđitô XIV[48] phải công bố Hiến chế Ex quo singulari providentia [49].
Hiến chế gồm 30 số, nhắc
lại tất cả những chỉ thị, sắc lệnh, Hiến chế của Toà thánh từ 1645 đến 1735 về
vấn đề nghi lễ Trung Hoa và phi bác Tám điều được phép làm do Đc Mezzabarba
công bố năm 1721, đồng thời công bố bản mẫu lời thề mới cho các thừa sai (giống
như trong Hiến chế Ex ilia die), chỉ ghi thêm một điều là thề không áp dụng
những gì Đc Mezzabarba đã cho phép làm năm 1721.
Hiến chế long trọng ghi
lại là vấn đề đã được 7 ĐTC giải quyết từ 1645 đến 1742:
-1645: Innocentê X;
-1656: Alexander XII;
-1669: Clementê IX;
-trước 1700, Innocentê
XII;
-1704, 1710, 1715:
Clementê XI;
-1735: Clementê XII;
-1742: Bênêđitô XIV.
Sau Hiến chế Ex quo singulari,
ngày 26-11-1744 ĐTC Bênêđitô XIV cử Đc Hilario Costa (Đức Thầy Hy), người Ý,
Dòng Augutinh, Gm Đại diện tông toà Đông ký từ năm 1735, làm Khâm sai Toà thánh
ở Đàng Trong. Đức Khâm sai vào ĐT từ 5-1747, công bố Hiến chế Ex quo sineulari
và giải quvết những tranh chấp còn lai giữa các nhóm thừa sai
Dưới đây, chúng tôi xin
ghi lại một bản lời thề ngày 16-8- 1750 tại Kẻ Vĩnh của cha Phan-chi-cô [tên là
Thân?], người Đàng Ngoài, thuộc giáo phận Tây ký, thời Đc Néez. Nguyên bản bằng
chữ Nôm của luật sư Giuse Nguyễn Đức Quý (qua đời 6-3-2004), được phiên dịch sang
chữ Quốc ngữ như sau:
“Tôi là Phan-chi-cô Sa-xê-do-tê
[linh mục, phiên âm từ Bồ Đào Nha sacerdote] Đàng Ngoài, các điều Toà thánh đã
phán, quyết đoán về những thói lễ phép Đại Minh trong vu-la [bulla] Đức Thánh
Pha-pha Kê-lê-men-tê thứ mười một đã ra về sự ấy và Người dạy phải thề, thì tôi
đã đọc và biết tỏ tường, cùng dốc lòng giữ cứ như vậy cho kỹ, cho lọn, cho
chắc, chẳng dám lấy chước móc nào cho khỏi vâng. Vả lại, có khi nào tôi phải
coi sóc những bổn đạo nào về phần linh hồn cách nào mặc lòng, thì tôi sẽ làm
hết sức cho kẻ ấy vâng cứ như vậy nữa. Sau nữa, tôi cũng sẽ làm hết sức mà can
chẳng có khi nào dám chịu cho các bổn đạo ấy giữ và làm những thói lễ phép Đại
Minh Đức Thầy A-tri-a-ca A-lê-xan-di-nô [Thượng phụ Giáo chủ Alexandria, tức là
Đc Mezzabarba] đã tha phép cho bổn đạo giữ trong thư dụ Người đã viết ở thành
Ma-cao, ngày mồng bổn tháng mười một nước người [dương lịch], năm từ Đức Chúa
Giê-su ra đời là một nghìn bảy trăm hai mươi mốt, là những sự Đức Thánh Pha-pha
Biên-tô thứ mười bốn [Bênêđitô XIV, phiên âm từ Bồ Đào Nha Bento] đã cấm rồi.
Bằng tôi chẳng có vâng cứ như vậy, thì tôi xin chịu phạt, cùng tôi biết mình đã
mắc phải các vạ đã đoán phạt trong hai vu-la ấy. Vậy tôi đá đến sách
E-van-giê-li-ô, tôi đã hứa, khấn, cùng thề sẽ cứ như vậy. Tôi xin Đức Chúa Trời
cùng thánh E-van-giê-li-ô này vâng hộ cho tôi như vậy.
“Tôi là Phan-chi-cô,
chính tay tôi ký”.
Bên cạnh bản lời thề trên
đây bằng chữ Nôm, Đc Néez, Gm giáo phận Tây Ký (Hà Nội) đã viết mấy lời bằng
tiếng Latinh xác nhận lời thề này tại làng Kẻ Vĩnh ngày 16-8-1750.
Ở VN cũng như ở Trung Hoa,
người Công giáo đều phải hoàn toàn vâng phục Hiến chế 1742, không ai được viện
bất cứ lý do gì để tranh luận nữa. Qua 187 năm sau đó, tức 8-12-1939 T.Bộ Truyền
giáo mới công bố Huấn thị Plane compertum est, sau khi đã trình bày với ĐTC Piô
XII, cho phép Giáo hội ở Trung Hoa và tại các nước lân cận được phép cúng giỗ
tổ tiên… theo phong tục dân sự địa phương. Riêng ở VN, sau khi được Toà thánh
chấp thuận, ngày 14-6-1965 Hội đồng Giám mục VN công bố tại Đà Lạt một Thông
cáo cho phép cúng gìỗ… mà chúng tôi xin ghi lại chi tiết hơn ngay phần sau:
Tháo gỡ nghi lễ tôn kính tổ tiên.
Chú thích (xin xem trang
sau)