LUẬT DỰ LỄ NGÀY CHÚA NHẬT VÀ CÁC NGÀY LỄ BUỘC
ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO?
Điều răn thứ nhất trong “Sáu điều răn Hội Thánh” đã quy
định: “Xem lễ ngày chúa nhật cùng các ngày lễ buộc”.
1. CÁC NGÀY CHÚA NHẬT VÀ CÁC NGÀY LỄ BUỘC CHÍNH YẾU KHÁC
Bộ giáo luật hiện hành đã ấn định các ngày lễ buộc (dies
festus de precepto) như sau (Điều 1246 §1):
- Tất cả các ngày Chúa nhật là ngày cử hành Mầu nhiệm Vượt
Qua theo truyền thống Tông đồ, ngày đó phải được giữ như là ngày lễ buộc chính
yếu trong Giáo Hội toàn cầu.1
- Bốn lễ kính mầu nhiệm của Đức Kitô: lễ Sinh Nhật Đức Giêsu
Kitô, lễ Hiển Linh, lễ Thăng Thiên, lễ Mình và Máu Rất Thánh Đức Kitô;
- Ba lễ kính Đức Maria: lễ Thánh Maria Mẹ Thiên Chúa, lễ Đức
Mẹ Vô Nhiễm và lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời;
- Ba lễ dành cho các Thánh: lễ Thánh Giuse, lễ hai Thánh
Tông đồ Phêrô và Phaolô, lễ Các Thánh.
Tuy nhiên, Hội Đồng Giám Mục có thể xin Tông Toà huỷ bỏ hoặc
chuyển một số lễ buộc sang ngày Chúa Nhật (điều 1246 §2)
Tại Việt
- Tại Giáo tỉnh Hà Nội, ngoài các ngày Chúa Nhật, chỉ buộc
giữ “Tứ Quý”, tức là 4 ngày lễ trọng: lễ Giáng Sinh, lễ Chúa Thăng Thiên, lễ
Đức Mẹ Lên Trời và lễ các Thánh Nam Nữ.
- Tại các Giáo tỉnh Huế và Giáo tỉnh Thành Phố Hồ Chí Minh,
ngoài các ngày Chúa nhật, chỉ buộc giữ lễ Chúa Giáng Sinh.2
Ngoài ra, Giáo luật còn cho phép các Giám Mục giáo phận cũng
có thể ấn định các ngày lễ buộc cho giáo phận hay một vài nơi trong giáo phận,
nhưng chỉ từng lần mà thôi (Điều 1244 §2)
2. THAM DỰ THÁNH LỄ
Theo điều 1247 của Bộ Giáo luật, các tín hữu buộc phải tham
dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc khác.
2.1.Đối tượng bị buộc
Theo Điều 11, buộc những tín hữu (đã được rửa tội trong Giáo
Hội Công giáo hay đã được nhận vào Giáo Hội Công Giáo) đã sử dụng đủ trí khôn
và đã được 7 tuổi trọn.
2.2.Mức độ ràng buộc
Luật tham dự thánh lễ buộc người Công giáo tận trong lương
tâm.
“Luật buộc theo lương tâm đặt nền tảng trên một nhu cầu nội
tâm mà các Kitô hữu thuộc các thế kỷ đầu đã cảm nhận cách mạnh mẽ, Giáo Hội đã
không ngừng xác nhận bổn phận đó, mặc dù Giáo Hội đã nghĩ rằng không cần phải
bắt buộc ngay từ đầu. Chỉ sau này khi thấy một số người nguội lạnh hoặc khinh
thường bổn phận đó, thì Giáo Hội mới phải xác định rõ rệt bổn phận phải tham dự
thánh lễ Chúa Nhật: thông thường nhất là Giáo Hội khuyến khích họ làm tròn bổn
phận, nhưng thỉnh thoảng Giáo Hội cũng phải dùng cả những biện pháp do giáo
luật ấn định rõ ràng. Đó là điều Giáo Hội đã làm qua những công đồng riêng khác
nhau kể từ thế kỷ thứ tư (thí dụ như ở công đồng Elvire năm 300: công đồng này
không nói đến bổn phận, nhưng lại nói đến những hình phạt nếu vắng mặt ba Chúa
nhật), nhất là kể từ thế kỷ thứ sáu trở đi (như công đồng Adge vào năm 506 quy
định điều đó). Tất cả những sắc lệnh này của các công đồng riêng đã dấn đến một
thói quen chung có tính cách bắt buộc như một bổn phận, như một sự việc hoàn
toàn bình thường.
Lần đầu tiên Bộ Giáo luật năm 1917 đã làm cho truyền thống
này thành một luật phổ quát. Bộ Giáo luật hiện hành đã giữ lại khoản luật đó
khi quy định: “Vào ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc khác, người tín hữu có
bổn phận phải tham dự thánh lễ”. Luật này thường được hiểu là một luật buộc
nặng: đây cũng là lời dạy bảo của Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, và người ta dễ
dàng hiểu tại sao Chúa nhật lại có tầm quan trọng đối với đời sống tín hữu như
vậy”.3
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2181, quy định:
“Thánh lễ Chúa nhật đặt nền tảng và xác định toàn bộ cuộc
sống người tín hữu. Do đó, mọi tín hữu phải tham dự thánh lễ vào ngày buộc, trừ
khi có một lý do quan trọng (như bệnh hoạn, chăm sóc trẻ sơ sinh) hay được cha
sở miễn chuẩn (x. Điều 1245). Ai cố tình vi phạm sẽ mắc tội trọng”.
2.3. Cách thức tham dự Thánh Lễ
2.3.1. Tham dự trọn vẹn
Người tín hữu có bổn phận phải tham dự trọn vẹn thánh lễ
trong các ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc.
Thánh lễ gồm hai phần, phần phụng vụ Lời Chúa và phần phụng
vụ Thánh Thể, được liên kết với nhau một cách chặt chẽ đến nỗi chỉ làm thành
một hành vi thờ phượng duy nhất (x. Hiến chế SC 56). Cho nên người tín hữu phải
tham dự đầy đủ cả hai phần.
2.3.2 Hiện diện và có ý thức
Tham dự thánh lễ có nghĩa là phải có mặt tại chỗ và phải có
ý thức:
- Các tín hữu phải có mặt với cả thân xác để cử hành thánh
lễ trong các ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc.
- Các tín hữu phải tham dự thánh lễ với lòng sùng kính với
sự chú ý.
“Mẹ Giáo Hội tha thiết ước mong toàn thể tín hữu được hướng
dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn ý thức và linh động. Do
chính bản tính, Phụng Vụ đòi hỏi việc tham dự như thế;” (Hiến chế SC số 14).
2.4 Tham dự thánh lễ chiều hôm trước ngày lễ buộc và ngày
thứ bảy
Điều 1248 §1 quy định:
“Người nào tham dự Thánh Lễ được cử hành theo nghi thức Công
giáo trong chính ngày lễ hoặc chiều ngày áp lễ ở bất cứ nơi nào, thì đã giữ
trọn luật buộc phải tham dự Thánh Lễ”.
Bộ Giáo luật hiện hành cho phép tham dự Thánh Lễ “ở bất cứ
nơi nào”4 không còn hạn chế như Bộ Giáo luật cũ (x. CIC/17, Điều 1249).
Giáo luật chỉ nói là “tham dự Thánh Lễ được cử hành theo
nghi thức Công giáo”, chứ không ấn định loại Thánh Lễ, cho nên tín hữu có thể
tham dự bất cứ Thánh Lễ nào (lễ cưới, lễ an táng, lễ giỗ, lễ tạ ơn) miễn là
được cử hành theo nghi thức Công giáo.5
Mặc dù nguyên tắc chung theo Giáo Luật tính một ngày bắt đầu
từ nửa đêm cho đến nửa đêm (x. Điều 202 §1), nhưng việc cử hành ngày Chúa nhật
và các ngày lễ trọng bắt đầu ngay từ chiều hôm trước (vespere6 diei praecedentis)7
“Vì luật buộc người tín hữu phải tham dự thánh lễ Chúa nhật,
trừ khi có ngăn trở trầm trọng, nên các vị mục tử có nghịa vụ phải tạo mọi điều
kiện thuận lợi để họ có thể giữ trọn điều luật này. Chính theo chiều hướng này
mà có những quy định theo luật Giáo Hội, chẳng hạn như linh mục có quyền được
cử hành hơn một lễ vào Chúa nhật và các ngày lễ buộc, sau khi được phép của vị
Giám mục giáo phận, việc lập ra các thánh lễ vào buổi chiều và việc ấn định
thời giờ thích hợp để giữ trọn luật buộc – bắt đầu từ chiều thứ Bảy, vào lúc
đọc Kinh Chiều I của Chúa nhật. Thật vậy, theo quan điểm phụng vụ, ngày lễ bắt
đầu từ Kinh Chiều I này. Vì thế, phụng vụ thánh lễ đó thỉnh thoảng được gọi là:
“lễ vọng”, thật ra là “ngày lễ Chúa nhật”, mà vị Chủ tế buộc phải giảng và đọc
lời nguyện tín hữu.
Ngoài ra, các vị mục tử nên nhắc nhở cho các tín hữu hiểu
rằng: trong trường hợp họ vằng mặt ở nơi thường trú vào ngày Chúa nhật, họ phải
lo tham dự thánh lễ ở nơi họ đến, và như thế làm phong phú cho cộng đoàn tín
hữu địa phương bằng chứng tá cá nhân của mình. Đồng thời, các cộng đoàn địa
phương ấy nên nhiệt tình đón các anh chị em đến từ bên ngoài cộng đoàn. Đặc
biệt, trong những nơi thu hút được nhiều du khách và khách hành hương đến viếng
thăm, cần phải cung cấp sự trợ giúp tôn giáo đặc biệt”.8
2.5. Miễn tham dự thánh lễ
2.5.1. Trường hợp bất khả kháng vì những lý do tương đối
nghiêm trọng.
Được miễn dự lễ những ai không thể tham dự vì những lý do
tương đối nghiêm trọng: như gặp những khó khăn quá lớn hay có khả năng gây hại cho
mình hay cho người khác về thể xác hay tinh thần, hoặc do bản chất đặc biệt của
công việc.
“Cách riêng, những người sau đây được miễn dự lễ:
- Người bệnh và người đang dưỡng bệnh, mà nếu dự lễ có thể
gây thiệt hại;
- Người ở xa nhà thờ (đi bộ mất một giờ nến là người khoẻ…)
- Người quá nghèo không có y phục tươm tất hay không thể trả
phí tổn đi lại;
- Người bị ngăn trở do nghĩa vụ nghề nghiệp hoặc nghĩa vụ
của bậc sống, do nghĩa vụ phải cấp cứu hay do các công tác bác ái khẩn cấp;
- Con cái, vợ hay người làm thuê có thể bị thất sủng nặng nề
với cha mẹ, chồng hay chủ nếu đi dự lễ”.9
2.5.2. Trường hợp giáo quyền miễn chuẩn tham dự thánh lễ
Điều 1245 quy định:
“Miễn là vẫn giữ nguyên quyền của Giám mục giáo phận được
nói đến ở điều 87, vì một lý do chính đáng, và theo quy định của Giám Mục giáo
phận, cha sở, trong từng trường hợp, có thể miễn chuẩn nghĩa vụ phải giữ một
ngày lễ hay một ngày sám hối hoặc thay thế nghĩa vụ ấy bằng một việc đạo đức
khác; Bề Trên của một hội dòng hay của một tu đoàn tông đồ cũng có những quyền
ấy đối với những người thuộc quyền mình và những người khác đêm ngày cư ngụ
trong nhà mình, nếu hội dòng và tu đoàn thuộc luật giáo hoàng”.
Để xin miễn chuẩn, có thể đích thân đến xin, hoặc sử dụng
thư từ, điện thoại, điện tín, hoặc qua trung gian người thứ ba.
2.6. Cử hành phụng vụ Lời Chúa
Điều 1248 §2 quy định:
“Nếu không thể tham dự việc cử hành Thánh Lễ vì thiếu thừa
tác viên có chức thánh hay vì bất cứ một lý do nghiêm trọng nào khác, tha thiết
khuyên nhủ các tín hữu nên tham dự phụng vụ Lời Chúa được cử hành theo những
quy định của Giám Mục giáo phận trong nhà thờ giáo xứ, nếu có, hoặc tại một nơi
thánh nào khác, hoặc nên cầu nguyện trong một thời gian thích hợp, cách riêng
tư hoặc với gia đình, hoặc với các nhóm gia đình, tùy dịp”.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Tông thư “Ngày của
Chúa” Dies Domini, số 53, đã đề cập đến vấn đề này như sau:
“Hiện nay, vẫn còn có nhiều xứ đạo không có linh mục cử hành
Lễ Tạ Ơn Chuá nhật. Điều này thường xảy ra trong các Giáo Hội non trẻ, nơi có
một linh mục duy nhất nhưng lại có trách nhiệm mục vụ đối với các tín hữu sống
tản mác trong một miền rộng lớn. Tuy nhiên, ta cũng gặp thấy những hoàn cảnh
cấp bách tương tự trong các giáo xứ có truyền thống Kitô giáo lâu đời, vì số
các linh mục giảm sút nghiêm trọng khiến mỗi giáo xứ không thể có một linh mục
được. Trong những trường hợp không thể cử hành lễ tạ ơn, Giáo Hội vẫn khuyến
khích việc tụ họp các tín hữu vào Chúa nhật dù vắng bóng linh mục, nhưng phải
tuân theo những chỉ thị và hướng dẫn do Toà Thánh đưa ra, mà việc thực hiện
được giao cho các Hội Đồng Giám Mục. Tuy nhiên, mục tiêu vẫn phải theo đuổi là
cử hành hy tế của thánh lễ, cách thứ duy nhất hiện tại hóa đích thực cuộc Vượt
Qua của Chúa Giêsu, là sự hiện tại hoá duy nhất và trọng vẹn của cộng đoàn tạ
ơn, mà vị linh mục chủ toạ nhân danh Đức Kitô, khi bẻ tấm bánh Lời Chúa và Bánh
Thánh Thể. Vì thế trên bình diện mục vụ, ta phải dùng mọi biện pháp cần thiết
để các tín hữu, thường xuyên thiếu thốn cuộc cử hành tạ ơn này, có thể được
hưởng lợi ích tối đa, bằng cách sắp xếp để một linh mục có mặt định kỳ, hoặc
tận dụng tối đa các dịp thuận tiện để quy tụ vào một chỗ trung tâm có thể tiếp
đón các nhóm khác nhau ở xa đến”.
--------------------------
1. Hiến chế về Phụng vụ thánh, số 106: “Theo tông truyền bắt
nguồn từ chính ngày Chúa Kitô sống lại, Giáo Hội cử hành mầu nhiệm phục sinh
vào mỗi ngày thứ tám, ngày thật đáng gọi là ngày của Chúa hay ngày Chúa Nhật.
Thực vậy, trong ngày đó các Kitô hữu phải họp nhau lại để nghe Lời Chúa và tham
dự Lễ Tạ Ơn, để kính nhớ cuộc Thương Khó, sự sống lại và vinh quang của Chúa
Giêsu, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã dùng sự Phục Sinh của Chúa Giêsu
Kitô từ trong kẻ chết sống lại mà tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động” (1
Pr 1,3). Vì vậy, ngày Chúa Nhật là ngày lễ độc đáo phải được đề cao và in sâu
vào lòng đạo đức của các tín hữu, để ngày ấy trở thành ngày vui mừng và ngày
nghỉ việc. Các cuộc lễ khác, nếu không thật sự là lễ rất quan trọng thì không
được lấn át ngày Chúa nhật, vởi vì ngày Chúa Nhật là nền tảng và trung tâm của
cả năm phụng vụ”.
2. x. Thông cáo Uỷ Ban Phụng Tự/ HĐGMVN. Tháng 4/1991.
3. GIOAN PHAOLÔII, Tông thư “Ngày của Chúa” Dies Domini, ban
hành ngày 31-5-1998, số 47.
4. Xin lưu ý, cuốn “những ngày lễ Công Giáo 2007-2008”,
trang 6, trích dẫn Điều 1248 §1 như sau: “Ai tham dự thánh lễ vào chính ngày lễ
hay vào chiều ngày trước lễ, thì người ấy đã chu toàn việc buộc dự lễ”. Trích
dẫn này còn thiếu hai chi tiết quan trọng: Thánh Lễ “được cử hành theo nghi
thức Công Giáo” và “ở bất cứ nơi nào”.
5. x. JOHN M. HUELS, “Book IV: The Sanctifying function of
the Church (cc. 834-1253)”, in The Code of canon Law: A Text and a Commentari,
commissioned by The Canon Law Society of America, edited b Jemes A. Corriden,
Thomas J. Green, Donald E, Heintschel, New York-Mahwah, Paulist Press, 1985,
tr. 1445.
6. Bộ giáo luật dùng từ “vesper” (evening) chứ không nói là
“post meridiem” (afternoon). Nếu như thế thì “chiều” phải tính từ 16 giờ (4:00
P.M). Tuy nhiên trong Tông thư “Ngày của Chúa” Dies Domini, ban hành ngày
31-5-1998, số 49, ngày lễ bắt đầu từ Kinh Chiều 1, nghĩa là vào khoảng 14 giờ
(2:00 P.M).
7. Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch, số
3.
8. GIOAN PHAOLÔ II, Tông thư “Ngày của Chúa” Dies Domini,
ban hành ngày 31-5-1998, số 49.
9. KARL H. PESCHKE, “Special Moral Thelogy” Vol. II, bản
dịch tiếng Việt “Thần học luân lý chuyên biệt”, Tập Một, Tủ sách chuyên đề, tr.
225-226.
Tác giả bài viết: Lm. Luy Huỳnh Phước Lâm
Nguồn tin: Gplongxuyen.com