Một bài giảng có giá trị
Tông huấn đầu tiên của
Đức Giáo hoàng Phanxicô, Evangelii gaudium (Niềm vui Phúc Âm), được Đức Giáo
hoàng Phanxicô ký vào ngày 24-11-2013, ngày lễ Chúa Kitô Vua, ngày bế mạc Năm
Đức Tin, và được công bố vào ngày 26-11-2013. Tông huấn gồm 5 chương và 288 số.
Đức Giáo hoàng đã trình bày Tông huấn bằng một giọng văn đơn sơ, dễ hiểu, và
đôi khi dí dỏm. Ngài cho thấy rằng Tin Mừng của Đức Giêsu là một Tin Mừng về
tình yêu, Tin Mừng này rất dễ hiểu.
Ngài đã dành hẳn một
chương (chương III, từ số 111 đến số 173) để nói về việc “loan báo Tin Mừng”;
và trong chương này, ngài dành một phần dài để nói về “việc rao giảng trong
phụng vụ”, nghĩa là “bài giảng và việc chuẩn bị”, bởi vì “có rất nhiều người
than phiền về tác vụ quan trọng này” (135). Chúng ta có thể đọc từ số 135 đến
số 159 (hoặc đến tận số 175) để đón nhận giáo huấn của Đức Giáo hoàng về bài
giảng.
Đối với Đức Phanxicô, “bài
giảng có một giá trị đặc biệt vì phát sinh từ bối cảnh Thánh Thể, là điều làm cho
bài giảng vượt trên mọi hình thức dạy giáo lý bởi vì đây là một cuộc đối thoại
tuyệt vời nhất giữa Thiên Chúa và dân Ngài, trước khi hiệp thông Bí tích”
(137).
Do tầm quan trọng của
bài giảng, Đức Giáo hoàng phác ra cả một lộ trình cho việc dọn bài giảng
(145-159). Ngài khuyên các mục tử “dành nhiều thì giờ để học hỏi, cầu nguyện,
suy niệm và sáng tạo mục vụ”: “mỗi tuần dành riêng một phần thì giờ cá nhân và
cộng đồng đủ dài cho công tác này” (145). Ngài không chấp nhận bất cứ lý do
nào, kể cả bận quá nhiều công việc, để không dọn bài giảng cho kỹ; trái lại,
phải bớt một số công việc, cho dù quan trọng, để chuẩn bị bài giảng. Ngài nhấn
mạnh rằng một mục tử mà không dọn bài giảng cho kỹ thì không “thuộc linh”,
không làm việc dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, và “thiếu trách nhiệm đối
với những hồng ân mà mình đã nhận được” (145). Ngài dạy: “Ai muốn giảng dạy,
trước tiên phải sẵn sàng để cho Lời chạm đến mình và làm cho Lời nhập thể trong
cuộc sống cụ thể của mình.” (150; x. 153).
Đức Giáo hoàng khuyến cáo
là các bài giảng phải ngắn gọn, vì đây không phải là “một bài diễn văn hoặc một
bài thuyết trình”, hay là một bài học chú giải về Kinh Thánh (138, 142), càng
không phải là một công việc “quảng cáo”: các bài giảng phải “đốt cháy lòng
người”, và không được giới hạn vào việc khuyên răn luân lý (142).
Ngài nói thêm: “Bài
giảng không thể là một hình thức trình diễn để giải trí, như được trình bày
trên các phương tiện truyền thông, nhưng phải đem lại sự nhiệt thành và ý nghĩa
cho buổi lễ”, rồi ngài xác định rằng lời của nhà giảng thuyết “không được chiếm
một chỗ quá đáng, để Chúa toả sáng hơn nhà giảng thuyết” (138). Đây là lãnh vực
của Chúa Thánh Thần, nên cần cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, lắng nghe Chúa
Thánh Thần là Thầy dạy sự thật, và để Người dẫn dắt (151).
Khi đó, “một bài giảng
hay phải có một ý tưởng, một tâm tình và một hình ảnh” (157), bài giảng luôn
luôn có tính tích cực, đem lại hy vọng, chứ không giam hãm các tín hữu trong “những
điều tiêu cực” (159). “Bài giảng có thể thực sự là một kinh nghiệm mãnh liệt và
hạnh phúc về Chúa Thánh Thần, một cuộc gặp gỡ đầy an ủi với Lời Chúa, một nguồn
mạch không ngừng đưa đến việc canh tân và tăng trưởng” (135; x. 151).
Bài giảng cũng phải
diễn tả “tinh thần mẫu tử và Hội Thánh”: đây là điều khiến chúng ta ngỡ ngàng
đến độ xúc động khi nghe Đức giáo hoàng diễn tả người rao giảng như người mẹ
chuẩn bị bữa cơm cho gia đình. Người giảng phải sống tình mẫu tử, đặc biệt bằng
“thái độ gần gũi, giọng nói ấm áp, cách nói dịu dàng, các cử chỉ diễn tả niềm
vui” (140), bởi vì “bài giảng tiếp tục cuộc đối thoại đã được mở ra giữa Thiên
Chúa và dân Ngài” (137).
Nhưng muốn “đón nhận
kho báu cao siêu của Lời được mặc khải”, cần “phải mở cánh cửa học hỏi Kinh
Thánh ra cho tất cả các tín hữu”. Đức Giáo hoàng đã dạy như vậy, rồi ngài kêu
gọi “các giáo phận, các giáo xứ và các nhóm Công giáo đề ra một chương trình
học hỏi Kinh Thánh nghiêm túc và kiên trì” (175).
UB Kinh Thánh