Ơn Toàn Xá và Văn Hoá Việt
(dongten.net) 05/02/2014
Đức TGM phó Phaolô Bùi Văn Đọc ban phép lành Tòa thánh với
ơn Toàn xá trong Thánh lễ khai mạc Năm thánh kỷ niệm 400 năm Dòng Tên đến loan
báo Tin mừng trên Đất Việt
Trong suốt Năm Thánh
mừng kỷ niệm 400 các tu sĩ Dòng Tên đầu tiên đặt chân lên đất Việt, có nhiều
dịp cho những ai tham dự Thánh Lễ và viếng các nhà thờ, nhà nguyện thuộc Dòng
Tên được lãnh nhận Ơn Toàn Xá (còn gọi là Ơn Đại Xá). Thiết tưởng đây là dịp để
chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa đích thực của Ơn Toàn Xá để việc lãnh nhận ơn
này thực sự đẹp lòng Chúa và mang lại ơn ích thiêng liêng cho chúng ta.
Hơn nữa, Năm Thánh này
cũng được tổ chức nhằm cổ võ suy tư về cách thức loan báo Tin Mừng ngày nay cho
dân tộc Việt
1. Vấn nạn
Giáo dân Việt
Vấn nạn thường hay được
đặt ra nhất là: Tại sao tội đã được tha mà hình phạt vẫn còn? Tại sao Chúa “hà
khắc” hoặc “keo kiệt” đến nỗi không tha luôn hình phạt?
Rồi đối với những người
quan tâm tới giáo lý và ý nghĩa sâu xa của các việc nhà đạo thì các vấn nạn sau
hay được đặt ra: Tại sao phải chờ những dịp lễ quan trọng, có sắc lệnh của Toà
Thánh, giáo dân mới có thể đón nhận Ơn Toàn Xá? Nếu ơn Chúa là thiêng liêng và
Chúa luôn sẵn sàng ban ơn, thì bất kể lúc nào giáo dân thành tâm cũng có thể
lãnh nhận được Ơn Toàn Xá chứ?
Hơn nữa, việc lãnh Ơn
Toàn Xá có thực sự hữu ích cho đời sống đạo không khi mà việc đó có vẻ máy móc?
Việc lãnh nhận Ơn Toàn Xá có thay đổi đời sống tín hữu không khi mà họ quan
niệm rằng cứ lãnh phép lành, đọc một số kinh, xưng tội, rước lễ là được tha mọi
hình phạt của tội? Rồi có cả những thắc mắc đơn sơ, mang tính “luật lệ”, có vẻ
hơi “vật chất” nhưng rất “thực tiễn”: Lãnh bao nhiêu Ơn Toàn Xá thì đủ? Lãnh
nhiều quá có bị “dư” không? Ơn Toàn Xá dư (ngay cả khi đã áp dụng cho người quá
cố) thì đi đâu?
2. Định nghĩa
Trước khi cố gắng giải
đáp các vấn nạn trên, chúng ta cần tìm hiểu xem ân xá nói chung là gì. Sách Giáo Lý Của Hội
Thánh Công Giáo (GLHTCG) có một định nghĩa xúc tích về ân xá trong số 1471
[Bản dịch của Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin, thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt
Theo GLHTCG, ân xá là các ơn từ
kho tàng ân phúc của Đức Kitô và các thánh mà
- Giáo Hội dùng
quyền Chúa Giêsu ban để áp dụng
- cho những ai
thật tâm (ao ước, sám hối) và chu toàn các điều kiện được Giáo Hội quy định.
- Ơn này có tác
dụng xoá các hình phạt tạm do các tội (đã xưng và đã được tha) gây ra.
GLHTCG còn nói thêm rằng các
tín hữu có thể áp dụng các ân xá cho những người đã qua đời, và rằng có hai
loại ân xá: ơn tiểu xá xoá một phần hình phạt tạm, ơn đại xá xoá toàn bộ hình
phạt tạm. Trong bài viết này, chúng tôi xin bàn đến ân xá nói chung mà không đi
vào sự phân biệt giữa Đại Xá với Tiểu Xá.
3. Diễn giải
Chúng tôi xin diễn giải
chi tiết hơn để làm sáng tỏ định nghĩa trên. Chúng tôi xin diễn giải 3 yếu tố
quan trọng trong định nghĩa ân xá, với ý hướng làm sáng tỏ cho 3 nhóm vấn nạn
tương ứng nêu ở trên:
- Có sự phân biệt giữa
hình phạt tạm của tội và tội được tha. Tội đã được tha, nhưng hình phạt tạm vẫn
còn. GLHTCG, số 1472 còn nói về sự
phân biệt giữa hình phạt vĩnh cửu do tội trọng gây nên và hình phạt tạm do tội
nhẹ gây nên. GLHTCG, số 1473 nói rằng khi
tha tội, Chúa tha những hình phạt vĩnh cửu, nhưng hình phạt tạm thì vẫn còn.
- Giáo Hội đóng vai trò
thiết yếu trong tiến trình tha hình phạt tạm này. Với vai trò là chủ thể cai
quản “kho tàng ân phúc”, là thừa tác viên ơn cứu độ, Giáo Hội có năng quyền áp
dụng các ân phúc của Đức Kitô và của các thánh để xoá các hình phạt tạm cho các
cá nhân tín hữu (x. GLHTCG 1478). Kho tàng ân phúc là gì? Và tại sao phải cần tác động của
Giáo Hội để mở kho tàng ấy, thì ơn ích thiêng liêng mới tới được các tín hữu?
Đó là kho tàng ơn thánh vô biên do Đức Kitô mang lại cho nhân loại qua cuộc
sống, cái chết và sự phục sinh của Người. Kho tàng này cũng bao gồm lời cầu
nguyện và công phúc của các thánh. Kho tàng này được trao ban cho toàn nhân
loại và ai cũng có thể được hưởng từ kho tàng này nhờ mối thông công (x. GLHTCG 1476-1477). Nhưng Giáo
Hội, với quyền trói buộc và tháo cởi do Đức Kitô ban, có thể can thiệp để mở
kho tàng và áp dụng cho các cá nhân tín hữu.
- Để được tha hình phạt
tạm, tín hữu cần phải có tâm tình xác đáng. Họ phải có ý muốn cởi bỏ con người
cũ để mặc lấy con người mới bằng việc làm các việc lành bác ái, cầu nguyện và
thực hành việc hãm mình, đền tội, v.v. (x. GLHTCG 1473).
4. Lý giải
Các diễn giải trên, dựa
vào ngôn ngữ và ý tưởng của giáo huấn Giáo Hội như được diễn tả trong sách giáo
lý, có thể làm sáng tỏ phần nào các vấn nạn nêu trên. Tuy nhiên, có thể độc giả
tuy thấy mình đã hiểu về ân xá, nhưng chưa thấy được thuyết phục bởi các điểm
mà giáo lý đưa ra. Vấn nạn thứ nhất vẫn còn y nguyên, chưa giải đáp được: Tại
sao Chúa tha hình phạt vĩnh cửu mà không tha được hình phạt tạm? Vấn nạn thứ
hai vẫn chưa được giải đáp rõ ràng lắm: Tại sao mối thông công giữa các thánh
(trong các ơn thánh) lại cần sự can thiệp của Giáo Hội?
Ở phần này, chúng tôi
xin thử trình bày một lý giải thần học về ân xá, bằng ngôn ngữ của kinh nghiệm
nhân sinh [Trong
phần lý giải này, chúng tôi xin dựa vào ý của Karl Rahner trong mục
“Indulgences”, trong cuốn Sacramentum Mundi – An Encyclopedia of Theology, biên tập bởi Karl
Rahner, Vol.3 (New York: Herder and Herder; London: Burns & Oates, 1969),
123-129], với ý hướng là mang giáo lý lại gần đời sống hơn, để chúng ta không
chỉ chấp nhận các chân lý đạo bằng trí óc mà thôi, mà còn bằng cả tâm tình xác tín,
yêu mến và thực hành nữa.
a. Hình phạt do tội
Trước hết, phải nói
rằng cụm từ “hình phạt” có thể gây hiểu lầm như là cái gì áp đặt từ bên ngoài
theo nghĩa pháp lý, và vì thế làm chúng ta không thể hiểu nổi tại sao Chúa
“không thể” tha hình phạt tạm của tội. Nhưng thực ra, theo kinh nghiệm nhân
sinh, hình phạt do tội được kinh nghiệm dưới hai chiều kích như hai mặt của một
thực tại: như là hậu quả của tội và như là tiến trình thoát ly khỏi hậu quả đó [Ở đây, chúng
tôi chỉ xin nói những điều liên quan đến tội như được phản ánh trong kinh
nghiệm nhân sinh, chứ không đi sâu vào bản chất thần học của tội xét như là
hành vi tự do của con người trong tương quan với Thiên Chúa].
Theo kinh nghiệm nhân
sinh, mọi ý nghĩ, hành vi của chúng ta đều để lại hậu quả ngoại tại lẫn nội tại
trên đời sống và con người chúng ta. Điều này cũng đúng cho những ý nghĩ, hành
vi xấu; chúng có tác hại lên thói quen, cách sống, cách nghĩ, cách cảm nghiệm
và cả thể trạng của ta. Các tác hại này làm cho chúng ta đau khổ, phá vỡ sự hài
hoà trong các tương quan và làm chúng ta lệ thuộc vào các thói quen xấu. Chúng
ta đều có kinh nghiệm rằng hành vi xấu càng nghiêm trọng hoặc càng được lặp lại
nhiều lần thì hậu quả của nó trên con người và đời sống (bao gồm các tương quan
với thế giới và với người khác) ta càng nặng nề và lâu dài. Ví dụ: hành vi giết
người sẽ để lại những dấu ấn tai hại, đậm và bền trên tính cách, tâm lý và các
tương quan của kẻ sát nhân hơn một lời nói dối. Tuy thế, lời nói dối, nhất là
khi nó được lặp lại nhiều lần, cũng để lại dấu ấn xấu trên thói quen của người
nói và trên sự tin tưởng của người khác đối với người ấy. Điều này được minh
hoạ trong kinh nghiệm rằng chúng ta rất khó bỏ hoặc rất khó khắc phục hậu quả
của các thói xấu nặng và các thói xấu được lặp lại nhiều lần.
Chúng ta có thể hiểu
các tác hại này là một khía cạnh của “hình phạt” do tội vậy. Như vậy, hình phạt
do tội là do chính hành vi tội lỗi của chúng ta gây ra, hay nói cách khác, chính
chúng ta tự phạt mình khi phạm tội. Và rất nhiều lúc chúng ta “hoan hỉ”, “háo
hức” và tìm đủ mọi cách để tự phạt mình bằng cách phạm tội, dẫu biết rằng tội
dẫn chúng ta tới các tác hại và cuối cùng là cái chết. Đó chính là sự mâu thuẫn
nội tại của tội và của sự dữ nơi kinh nghiệm của chúng ta, như thánh Phaolô nói
“tôi làm điều tôi không muốn” (Rm 7, 16), tức tôi làm điều có hại cho tôi và
cho người thân của tôi, và tôi rất thích làm điều đó.
Khi xưng tội là khi
chúng ta ý thức sự tai hại của tội và muốn dứt bỏ nó. Nhưng tất cả chúng ta đều
có kinh nghiệm rằng rất nhiều lúc chúng ta xưng, thật lòng sám hối và dốc lòng
chừa một tội nào đó, nhưng rồi, sau một thời gian, lại tái phạm tội đó. Ai
trong chúng ta cũng có kinh nghiệm “lực bất tòng tâm” trong việc bỏ các thói
xấu và các hậu quả tai hại của tội và kêu lên như thánh Phaolô: “Thật khốn thân
tôi! ai cứu tôi khỏi thân xác đáng chết này?” (Rm 7, 24). Khi ban Bí Tích Hoà
Giải qua thừa tác viên của Giáo Hội, Chúa dùng quyền năng vô biên của lòng từ
ái Ngài và của cái chết và sự sống lại của Đức Kitô để tha tội cho chúng ta và
một cách lạ lùng như một phép lạ, bảo đảm rằng chúng ta sẽ không bị vướng vào
các hậu quả của tội cách vĩnh cửu (tức xoá hình phạt vĩnh cửu). Đây là niềm hy
vọng Kitô giáo, niềm hy vọng của sự sống lại. Thiên Chúa đảm bảo chắc chắn đã
cứu chúng ta khỏi vòng vây hãm và trói buộc của tội và các hậu quả tai hại của
nó. Điều mà chúng ta thấy mình không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm cho
chúng ta, nhờ tình yêu vô biên và cái chết và sự sống lại của Đức Kitô, Con
Ngài.
Nhưng đây là niềm hy
vọng cánh chung, tức rất thực tế chứ không hão huyền; niềm hy vọng này tôn
trọng và phù hợp với tiến trình lớn lên của chúng ta trong không gian thời
gian. Là những chủ thể có tự do, chúng ta xây dựng và định hình vĩnh cửu của
mình trong không gian và thời gian này. Mặt khác, thường thì ơn Thánh của Chúa
hoạt động cách thực tiễn, vẫn được xây dựng trên các quy luật tự nhiên, tuy
siêu vượt trên các quy luật đó. Thế nên, tuy trong Ngày Sau Hết, chúng ta chắc
chắn sẽ được chữa lành khỏi mọi hậu quả tai hại của tội cách vĩnh viễn, nhưng
trong lúc này, là những chủ thể có chiều kích thể lý, chúng ta cần trải qua một
tiến trình thanh luyện, để gột rửa từ từ các hậu quả đó, để dần cởi bỏ con
người cũ và mặc lấy con người mới. Tiến trình này đòi hỏi không chỉ lòng sám
hối, quyết tâm, mà còn cả sự khổ luyện, chiến đấu, tu tập, cầu nguyện, hãm
mình, v.v. nữa. Tiến trình thanh luyện này là một khía cạnh khác trong kinh
nghiệm nhân sinh về hình phạt do tội, và chúng ta có thể gọi đó là hình phạt
tạm. Tiến trình thanh luyện này, vừa là biểu hiện kéo dài, vừa là hệ quả mà đôi
khi cũng là nguyên nhân sinh ra lòng sám hối, cũng còn lệ thuộc vào thiện chí,
ý muốn của chúng ta nữa. Nếu chúng ta không muốn và không nỗ lực để được
thanh luyện, tức là không thật sự sám hối, thì Ơn Thánh cũng không phát huy
được tác dụng trên con người và đời sống chúng ta. Chính vì thế sự thanh luyện
vẫn còn “diễn ra” ngay cả sau khi chết (giáo lý gọi là Lửa Luyện Tội, hay
Luyện Ngục), vì hậu quả của tội vẫn còn, tuỳ vào thiện chí và nỗ lực của chúng
ta khi còn sống.
Như vậy chúng ta đã
hiểu tại sao trong Bí Tích Hoà Giải, tội tuy đã được tha, nhưng hình phạt tạm
vẫn còn. Vì Bí Tích đó không phải là một nghi thức phù chú suông (chỉ là dăm
bảy phút nơi Toà Giải Tội), mà cần phải được trải rộng và tiếp diễn trong cuộc
sống chúng ta ngoài Toà Giải Tội nữa. Tội đã được tha, Chúa đã đảm bảo cứu
chúng ta cách vĩnh cửu, nhưng tiến trình gột rửa, thoát ly khỏi tội và hậu quả
của nó vẫn cần phải diễn ra trong cuộc sống. Tiến trình đó diễn ra nhanh hay
chậm tuỳ vào mức độ thiện chí và nỗ lực trong thực tế cuộc sống của chúng ta.
b. Vai trò của Giáo Hội
Thế nhưng, tiến trình
đó không diễn ra riêng lẻ cách cá nhân. Tất cả chúng ta có mối liên hệ thiêng
liêng với nhau (giáo lý gọi là mối thông công); mọi phúc đức cũng như tội vạ
của mỗi người đều có tác động lên những người khác. Sự tác động này là thiêng
liêng, nên vô hình, nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn cảm thấy được nó qua những
biểu hiện thể lý, xã hội, văn hoá của nó. Một câu chửi thề, một hành vi trả lại
của đánh rơi, v.v. tất cả đều có âm vang và ảnh hưởng trên xã hội chúng ta,
trên thế hệ trẻ và trên những người khác.
Tiến trình gột rửa,
thoát ly khỏi sự trói buộc và hậu quả của tội, tuy là nỗ lực của mỗi cá nhân,
cũng diễn ra trong mối hiệp thông rộng lớn với toàn thể Giáo Hội (kể cả Giáo
Hội chiến thắng lẫn Giáo Hội đang thanh luyện, tức với cả các thánh lẫn các
linh hồn trong Lửa Luyện Tội). Công phúc vô biên của Đức Kitô và phúc đức của
các thánh cổ võ và thúc đẩy tiến trình đó (chẳng hạn, qua gương sáng và gợi
hứng hướng về sự thánh thiện), trong khi tội của những người khác cũng tác động
gây cản trở tiến trình thanh luyện của chúng ta (chẳng hạn, qua gương xấu và
làm nhụt ý chí tốt lành của chúng ta).
Như vậy, qua những lần
ban ân xá, Giáo Hội thể hiện cách hữu hình và cụ thể mối hiệp thông đó vẫn có
trong toàn Giáo Hội, để nâng đỡ và thúc đẩy tiến trình thanh luyện của mỗi
người chúng ta diễn ra cách suông sẻ, dễ dàng hơn. Là những chủ thể sống trong
không gian thời gian, chúng ta cần những hình thức hữu hình và cụ thể đó để cảm
nghiệm và tiếp nhận sự cổ võ và đồng hành của Giáo Hội và các thánh. Như vậy,
khi nói “ân xá tha hình phạt tạm của tội” là có ý nói rằng Giáo Hội, qua lời
cầu nguyện chính thức của mình, đồng hành, cổ võ và thúc đẩy tiến trình thanh
luyện của các cá nhân, để giúp họ vượt qua các hậu quả của tội và trở nên con
người mới cách suông sẻ và dễ dàng hơn.
c. Tiểu kết
Tóm lại, việc Giáo Hội
ban ân xá nói lên rằng:
- Chúng ta, vốn là những
chủ thể sống trong không gian và thời gian, cần trải qua một tiến trình để
thanh luyện khỏi tội và hậu quả của nó.
- Chúng ta không chiến
đấu với tội cách cô đơn, nhưng trong mối hiệp thông với toàn thể Giáo Hội,
trong đó chúng ta nhận được sự giúp đỡ và đồng hành của các thánh là những
người đã cộng tác đắc lực với ơn thánh vô biên của Đức Kitô.
- Việc lãnh ân xá không
phải là phép ma thuật, nhưng tự nó bao gồm và đòi chúng ta phải có tâm tình
hoán cải và nỗ lực sống tiến trình lột bỏ con người cũ để mặc lấy con người
mới.
5. Lý giải theo văn hoá
Việt
Trong mục này, chúng
tôi thử diễn tả những tâm tình nằm sâu trong ý thức tôn giáo của người Việt
Chúng ta đã quá quen
với nét văn hoá “tặng quà” củ a ngư?i Việt
Việc bóp méo ý nghĩa
của hành vi tặng quà đã làm cho nó trở nên giả dối và nặng nề. Chúng ta dần cảm
thấy sợ những dịp Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán, đám cưới, đám hỏi, v.v. chính
vì những méo mó và lạm dụng của nét văn hoá tặng quà. Trong trường hợp này,
những món đồ có giá trị vật chất cao không còn là biểu hiện của sự quan tâm,
trìu mến và hy sinh nữa mà thể hiện sự đòi hỏi, yêu sách và trở thành sợi dây
vô hình ràng buộc và lạm dụng người khác.
Tuy nhiên, nét văn hoá
tặng quà, nếu được duy trì trong sự tinh tuyền của nó thì sẽ rất đẹp và quan
trọng cho việc xây dựng các tương quan xã hội đầy tính nối kết liên vị. Để thấy
rõ hơn giá trị của nét văn hoá này, chúng ta có thể kể đến các khái niệm vẫn
còn được trân trọng nơi tâm khảm người Việt: đó là các khái niệm Thảo và Lộc.
Vào những dịp lễ như Tết Nguyên Đán chẳng hạn, con cháu đến viếng thăm ông bà
cha mẹ với tâm tình thảo hiền, và thể hiện tâm tình đó qua những món quà đơn
sơ, cụ thể cùng những lời chúc chân thành. Đó là Thảo. Đáp lại, ông bà cha mẹ
cũng trao cho con cháu những bao lì xì cùng những lời chúc tốt đẹp. Đó là Lộc.
Các món quà, các bao lì xì là những biểu hiện cụ thể, không thể thiếu của tâm
tình Thảo nơi con cháu và của Lộc từ ông bà cha mẹ. Vào những dịp lễ như thế,
con cháu không thể không diễn tả chữ Thảo và bậc cha mẹ cũng không thể không
trao ban Lộc. Mối tương quan giữa Thảo và Lộc này còn được thấy rõ nơi những
cuộc giáo dân thăm viếng đền đài, chùa chiền, nhà thờ ở Việt Nam vào dịp đầu
Xuân. Không kể những lạm dụng và mê tín, những cuộc thăm viếng đó có thể được
xem là việc diễn tả chữ Thảo của giáo dân, bổn đạo, và họ cũng mong chờ Lộc từ
các bậc thánh nhân, và từ Thiên Chúa.
Thiết tưởng, Thảo và
Lộc cũng là những nét được tìm thấy nơi tâm tình tôn giáo của giáo dân Việt
Như vậy, chúng ta thấy
có một mối liên hệ nào đó giữa tâm tình tôn giáo của người Việt
Kết luận
Từ những gì được trình
bày ở trên, chúng ta có thể rút ra những tâm tình cần phải có để việc lãnh nhận
ân xá được thực sự ý nghĩa, đẹp lòng Chúa và mang lại hiệu quả cứu độ.
Trước hết, việc lãnh ân
xá là dịp để chúng ta trở về với Bí Tích Hoà Giải, không như một thủ tục, mà
với tâm tình sám hối và ý chí hoán cải đích thực, được cụ thể hoá bằng một tiến
trình hành động, tập dứt bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới.
Thứ đến, việc lãnh ân
xá còn là dịp để chúng ta ý thức hơn và sống mối hiệp thông trong toàn bộ Giáo
Hội, để cảm nghiệm sự đồng hành, cổ võ, nâng đỡ của Giáo Hội, khuyến khích
chúng ta cùng tiến lên trên con đường nhân đức thánh thiện.
Cuối cùng, nét văn hoá
Việt Nam, đặc biệt là những tâm tình xoay quanh hai chữ Thảo và Lộc, ngoài việc
thể hiện rõ tâm tình hiệp thông với Giáo Hội cách cụ thể qua và nơi giáo hội
địa phương, còn cổ võ chúng ta nên nhìn ân xá theo nghĩa đích thực như là ơn –
món quà, tức là biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa. Nét văn hoá đó mời gọi chúng
ta không quan niệm việc lãnh ân xá như một thủ tục pháp lý hay mang tính vật
chất (vốn là các đặc tính của trả nợ, hối lộ và tham nhũng). Nhìn ân xá như là
một ơn, chúng ta chú ý tới chính Người Tặng với lòng biết ơn và cảm mến, chứ
không tập trung vào món quà để tính toán, so sánh. Có thế, việc lãnh ân xá mới
thực sự trở nên một dịp lễ mừng, thổi bùng lên trong tâm hồn chúng ta một sức
sống đổi mới.
04.02.2014
FX. Nguyễn Hai Tính, SJ