Thông cáo của Hội Đồng
Giám Mục Việt
(conggiao.info) 11/2/2014 10:36:09 PM – Ngày 20-10-1964, Tòa Thánh,
qua Bộ Truyền giáo đã chấp thuận đề nghị của Hàng Giám Mục Việt Nam xin áp dụng
huấn thụ Plane compertum est (8-12-1939), về việc tôn kính tổ tiên cho giáo dân
Việt Nam.
Để hiểu rõ tinh thần Giáo Hội trong việc chấp
thuận này, và để có những chỉ thị hướng dẫn trong khi áp dụng, Hội đồng Giám
mục muốn nêu lên mấy điểm sau đây:
I. Giáo hội Công Giáo đối với nền văn hóa và
truyền thống các dân tộc
1) Giáo Hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha
thiết thực hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập, để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng
Phúc Âm cho mọi người. Cố gắng đầu
tiên của Giáo Hội là giúp sao cho con người được nên hình ảnh đích thực của
Thiên Chúa và được trung thực với sứ mệnh Kitô hữu của mình, để đạt cứu cánh
sau hết là hạnh phúc đời đời. Công trình đó được thực hiện
trong nội khảm của mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn diện cuộc
đời và trong mỗi khu vực sinh hoạt của con người (Đức Piô XII: Huấn dụ tại Cơ
Mật Viện, ngày 20-2-1946).
2) Mặt khác, từ nguyên thủy cho đến ngày nay,
Giáo Hội Công Giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó, Giáo Hội không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo,
liêm chính, chân thành của các dân tộc. Âu cũng vì bản tính nhân loại,
dù còn mang dấu vết sự sa ngã của tổ tông, song vẫn giữ trong nội tâm một căn
bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh dưỡng và
nâng lên tới một mức độ đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích thực. Cũng vì vậy mà Giáo Hội không bao giờ miệt thị, khinh chê tư tưởng
cũng như nghệ thuật hoặc văn hóa của người không Công giáo. Trái lại, Giáo Hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi
đến chỗ hoàn hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo Hội đã
thánh hóa những phong tục cũng như những truyền thống chân chính của các dân
tộc. Giáo Hội cũng đã nhiều lần đem nghi lễ của miền này xứ nọ sát nhập
vào nền phụng vụ của mình, sau khi đã tu chỉnh cả tinh thần và hình thức, để
ghi nhớ mầu nhiệm hoặc để tôn kính các bậc thánh nhân hay các vị tử đạo (Đức
Piô XII: Thông điệp Evangeli praecones,
2-6-1951; Đức Gioan XXIII trích dẫn tư tưởng này trong thông điệp Princeps Pastorum, 28-11-1959).
3) Đối với các tôn giáo khác, Giáo Hội Công Giáo
cũng chủ trương một lập trường rõ rệt. Dĩ nhiên Giáo Hội không thể tham dự vào
các nghi lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào,
và lãnh đạm để mặc ai muốn hay không muốn tìm xem Thiên Chúa có mạc khải một
đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và phụng thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội không từ chối công nhận một cách kính cẩn những
giá trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, thông điệp
Ecclesiam suam, 6-8-1964). Giáo Hội không phủ nhận
điều gì vốn là chân lý và thánh thiện của bất cứ tôn giáo nào. Giáo Hội luôn luôn rao truyền Đức Kitô là “đường đi, là chân lý và
là nguồn sống” và, trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm hòa với muôn vật.
Tuy nhiên Giáo Hội thành tâm và lưu ý cứu xét
những hành động và sinh hoạt, những luật pháp và lý thuyết của các tôn giáo
khác tuy có sai biệt với những điểm Giáo Hội đề ra, song vẫn mang lại một tia
sáng nào đó của chính cái chân lý hằng soi sáng mọi người. Vì thế, Giáo Hội
khuyên giục con cái mình tuy vẫn phải giữ đức tin Công giáo tuyền vẹn, nhưng
phải làm thế nào để nắm giữ và phát triển những của cải thiêng liêng, luân lý
và những giá trị xã hội, văn hóa, gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những buổi
hội thảo, sự học hỏi và sự cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này (Công
đồng Vatican II, khóa III: Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ngày
20-11-1964)
Chính lập trường đó của Giáo Hội được đúc kết
trong tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng và trong đệ nhị Công đồng Vatican, đã
giải thích lý do của quyết định Tòa Thánh, khi cho áp dụng huấn thị Plane compertum est tại Việt Nam ngày
nay. Và cũng chiếu theo tinh thần đó, các Giám mục hội
nghị tại Đà Lạt trong những ngày 12, 14-06-1965 đã cho công bố thông cáo này.
II. Thể thức áp dụng Huấn thị Plane compertum est
1) Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có
tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình, tập
quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo
tôn kính đối với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ,
nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo Hội Công Giáo chẳng
những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng
những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp.
Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó
hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc,
lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ
(như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn,
tổ chức ngày kỵ, giỗ...) thì được thi hành và tham dự cách chủ động.
2) Trái lại, vì có nhiệm vụ bảo vệ đức tin Công
Giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu có những
hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với
giáo lý mình dạy.
Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không
phù hợp với giáo lý Công Giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng phục tùng và
sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay
những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành
riêng cho việc tế tự... thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động
như đã ấn định trong giáo luật, khoản 1258 (GL 1917).
3) Đối với những việc mà không rõ là thế tục hay
tôn giáo, thì phải dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó, theo dư
luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn
giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm tình tự nhiên, thì được coi như
không trái với đức tin Công Giáo, nên được thi hành và tham dự. Trong trường
hợp chưa hết nghi nan, thì có thể hành động theo tiếng
lương tâm lúc ấy: nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo
léo, hợp cảnh, hợp thời. Sự tham dự cũng chỉ được có tính
cách thụ động.
Đó là những nguyên tắc chung,
giáo hữu cần phải dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường
hợp hồ nghi, mọi người liên hệ không được theo ý riêng
mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của Tòa Thánh và bàn hỏi với các giáo sĩ
thành thạo.
Yêu cầu quý cha phổ biến rộng rãi và giải
thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mà cả mỗi khi có
dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cả cho người ngoài Công Giáo. Các vị phụ
trách Công Giáo Tiến Hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho
các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện.
Làm tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965
Sacerdos-Linh Mục Nguyệt San, số 43, tháng
7-1965, trang 489-492
§1 Người tín hữu không được phép tham dự cách
chủ động bằng bất cứ cách nào, hoặc tham dự một phần trong các nghi thức của
người không Công giáo.
§2 Có thể chước chuẩn cho người tín hữu hiện
diện cách thụ động, hay chỉ có tính cách bề ngoài vì trách nhiệm dân sự hoặc vì
danh tiếng, bởi có lý do quan trọng, trường hợp nghi ngờ đã được Giám mục xác
nhận. Trong các lễ an táng người không Công giáo, các đám cưới và những cuộc lễ
long trọng tương tự, miễn là không có nguy hiểm làm gương mù và sinh lợi.