NHỮNG QUY LUẬT TỔNG
QUÁT
VỀ NĂM PHỤNG VỤ VÀ LỊCH
CHUNG RÔMA
CHƯƠNG I
NĂM PHỤNG VỤ
1. Bằng việc tưởng niệm linh thánh,
vào những ngày ấn định trong suốt năm, Hội Thánh cử hành công trình cứu độ của
Chúa Kitô. Mỗi tuần lễ, vào ngày gọi là Chúa nhật, Hội Thánh tưởng niệm sự Phục
sinh của Chúa. Mỗi năm một lần, vào Đại lễ Phục sinh, Hội Thánh cũng họp mừng
biến cố này cùng với sự Thương Khó hồng phúc của Người. Trong chu kỳ một năm,
Hội Thánh triển khai toàn thể mầu nhiệm của Chúa Kitô và kính nhớ ngày sinh
trên trời của các Thánh.
Vào các mùa khác nhau của năm phụng vụ, theo những
kỷ luật truyền thống, Hội Thánh thực hiện việc huấn luyện các tín hữu những
thực hành thiêng liêng và ngoài thân xác, nhờ việc giáo huấn, sự cầu nguyện,
nhờ hãm mình đền tội và công việc bác ái.[1]
2. Những nguyên tắc sau đây có thể và phải được áp
dụng cho cả Nghi lễ Rôma cũng như mọi Nghi lễ khác. Nhưng những quy luật thực hành
phải được coi như chỉ liên quan đến Nghi lễ Rôma, trừ phi đề cập tới những vấn
đề, xét theo bản chất của chúng, cũng liên hệ đến những Nghi lễ khác.[2]
I. NHỮNG NGÀY PHỤNG VỤ
I.
Ngày phụng vụ nói chung
3. Mỗi ngày được thánh hóa nhờ những cử hành
phụng vụ của dân Chúa, cách riêng nhờ hy tế Thánh Thể và thần vụ.
Ngày phụng vụ kéo dài từ nửa đêm cho đến nửa đêm.
Nhưng việc cử hành ngày Chúa nhật và các ngày lễ trọng bắt đầu từ chiều ngày
hôm trước.
II.
Chúa nhật
4. Ngày đầu mỗi tuần, gọi là ngày của Chúa hay Chúa
nhật, Hội Thánh họp mừng mầu nhiệm vượt qua, do truyền thống các Tông đồ bắt
nguồn từ chính ngày Chúa Kitô sống lại. Vì thế, Chúa nhật phải được coi là ngày
lễ quan trọng hàng đầu.[3]
5. Vì tầm quan trọng đặc biệt đó, Chúa nhật chỉ nhường
chỗ cho các lễ trọng và các ngày lễ kính Chúa. Nhưng các Chúa nhật mùa Vọng,
mùa Chay và mùa Phục sinh chiếm vị trí ưu tiên trên mọi lễ kính Chúa và mọi lễ
trọng. Khi gặp các Chúa nhật này, các lễ trọng sẽ mừng vào ngày thứ hai, trừ
phi các lễ đó trùng với Chúa nhật Lễ Lá hay Chúa nhật Phục sinh.
6. Tự nó, trong ngày Chúa nhật không mừng lễ nào
khác cách vĩnh viễn. Nhưng :
a)
Chúa nhật trong tuần Bát nhật Giáng sinh,
mừng lễ Thánh Gia Thất ;
b)
Chúa nhật sau mồng 6 tháng giêng, mừng
lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa ;
c)
Chúa nhật sau lễ Chúa Thánh Thần hiện
xuống, mừng lễ trọng kính Chúa Ba Ngôi ;
d)
Chúa nhật cuối cùng Mùa Thường Niên,
mừng lễ trọng kính Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ.
7. Nơi nào các lễ Hiển Linh, Thăng Thiên, Mình và
Máu Thánh Chúa Kitô không phải là lễ buộc, thì mừng vào Chúa nhật như ngày riêng
của các lễ đó như sau :
a) Lễ Hiển Linh mừng vào Chúa nhật từ mồng
2 đến mồng 8 tháng giêng ;
b) Lễ Thăng Thiên mừng vào Chúa nhật VII
Phục sinh ;
c) Lễ trọng kính Mình và Máu Thánh Chúa
Kitô vào Chúa nhật sau lễ Chúa Ba Ngôi.
III.
Các lễ trọng, lễ kính và lễ nhớ
8. Trong chu kỳ một năm, khi họp mừng mầu nhiệm Chúa
Kitô, Hội Thánh cũng mừng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, với lòng yêu mến đặc
biệt, và cũng thúc giục các tín hữu sốt sắng kính nhớ các thánh Tử Đạo và các
Thánh khác.[4]
9. Sẽ kính nhớ bắt buộc trong Hội Thánh toàn cầu
các vị Thánh có tầm quan trọng phổ quát ; các vị Thánh khác thì được ghi trong lịch
nhưng để tự do kính nhớ, hoặc được tôn kính riêng trong Hội Thánh địa phương
trong một quốc gia hay một dòng tu.[5]
10. Tùy theo tầm quan trọng, các lễ cử hành sẽ được
phân biệt với nhau và phân chia thành : lễ trọng, lễ kính và lễ nhớ.
11. Lễ trọng là những ngày đặc biệt, được cử hành từ
Kinh Chiều I ngày hôm trước. Có vài lễ trọng có lễ vọng riêng cử hành chiều ngày
hôm trước, nếu cử hành thánh lễ ban chiều.
12. Có hai lễ trọng đặc biệt là lễ Phục sinh và lễ Giáng
sinh. Hai lễ này kéo dài trong tám ngày liên tục. Cả hai tuần Bát nhật đều được
tổ chức theo những quy luật riêng.
13. Lễ kính sẽ mừng trong giới hạn một ngày ; vì thế,
không có kinh Chiều I, trừ phi những ngày lễ kính Chúa gặp Chúa nhật Thường
niên và Chúa nhật mùa Giáng sinh và thần vụ của các ngày lễ kính đó thay thế
thần vụ của các Chúa nhật vừa kể.
14. Lễ nhớ gồm có lễ nhớ bắt buộc và lễ nhớ không bắt
buộc. Việc cử hành các lễ nhớ được dung hòa với việc cử hành các ngày trong tuần,
theo những quy luật trình bày trong Quy chế
tổng quát về Sách lễ Rôma và trong Quy
chế tổng quát về Các giờ Kinh Phụng vụ.
Những lễ nhớ bắt buộc gặp ngày thường trong mùa
Chay thì chỉ có thể mừng như lễ nhớ không bắt buộc thôi.
Nếu trong một ngày có ghi trong lịch nhiều lễ nhớ
không bắt buộc, thì chỉ mừng một lễ nhớ thôi và bỏ các lễ nhớ khác.
15. Các ngày thứ bảy mùa Thường Niên không có lễ nhớ
bắt buộc, có thể mừng lễ nhớ không bắt buộc kính Đức Mẹ.
IV.
Những ngày trong tuần
16. Những ngày sau Chúa nhật của mỗi tuần gọi là ngày
trong tuần. Những ngày đó được cử hành khác nhau, tùy tầm quan trọng riêng của
mỗi ngày :
a)
Ngày thứ Tư Lễ Tro và các ngày trong Tuần Thánh từ thứ Hai đến chiều thứ Năm chiếm
vị trí ưu tiên trên mọi cử hành khác.
b)
Các ngày trong tuần thuộc mùa Vọng từ ngày 17 đến ngày 24 tháng 12, và mọi ngày
trong tuần thuộc mùa Chay chiếm vị trí ưu tiên trên các lễ nhớ bắt buộc.
c)
Các ngày trong tuần thuộc các Mùa khác sẽ nhường bước cho mọi lễ trọng, mọi lễ kính
và sẽ dung hòa với các lễ nhớ.
II. CHU KỲ NĂM PHỤNG VỤ
17. Trong chu kỳ năm phụng vụ, Hội Thánh tưởng niệm
toàn thể mầu nhiệm Chúa Kitô, từ mầu nhiệm Nhập Thể cho đến ngày Hiện Xuống và
cho đến việc trông đợi Chúa quang lâm.[6]
A.
Tam Nhật Vượt Qua
18. Chúa Kitô đã hoàn tất công trình cứu chuộc nhân
loại và tôn vinh Thiên Chúa cách hoàn hảo, nhất là nhờ mầu nhiệm Phục sinh của
Người. Nhờ đó, Người đã chết để tiêu diệt sự chết của chúng ta và sống lại để
khôi phục sự sống cho chúng ta. Chính Tam nhật Phục sinh, nhằm tưởng niệm cuộc
thương khó và Phục sinh của Chúa, sáng chói lên như tột đỉnh của cả năm phụng vụ.[7]
Cũng như trong tuần lễ, Chúa nhật là ngày trọng đại, thì trong năm phụng vụ, lễ
Phục Sinh là lễ trọng đại nhất.[8]
19. Tam nhật Vượt Qua tưởng niệm cuộc Thương Khó và
Phục sinh của Chúa, bắt đầu từ Thánh lễ chiều ngày thứ Năm Tuần Thánh, tưởng niệm
Bữa Tiệc Ly của Chúa và kết thúc bằng giờ Kinh Chiều Chúa nhật Phục sinh ; trung
tâm của Tam nhật là đêm Canh Thức Vượt Qua.
20. Trong ngày thứ sáu tưởng niệm cuộc Thương Khó của
Chúa [9]
và tùy nghi cả ngày thứ bảy cho tới lễ Canh thức Phục sinh,[10] khắp nơi đều giữ
chay thánh Phục sinh.
21. Lễ Canh Thức Phục sinh, trong đêm thánh Chúa sống
lại, được coi là "Mẹ
của mọi lễ Canh Thức".[11] Trong
lễ Canh thức này, Hội Thánh canh thức để mong đợi Chúa Kitô sống lại và cử hành
mầu nhiệm Phục sinh ấy trong các bí tích. Vì thế, tất cả buổi lễ Canh thức này
phải được cử hành ban đêm : khởi sự khi đêm tối đã bắt đầu và kết thúc trước
rạng đông ngày Chúa nhật.
B.
Mùa Phục sinh
22. Năm mươi ngày từ Chúa nhật Phục sinh đến Chúa nhật
Hiện xuống, được cử hành trong niềm hân hoan phấn khởi, như một ngày lễ duy
nhất, hơn thế, như một "Đại
Chúa nhật".[12]
Đặc biệt trong những ngày này hát Alleluia.
23. Các Chúa nhật mùa này được coi là những Chúa nhật
Phục sinh, và các ngày Chúa nhật sau Chúa nhật Phục sinh gọi là Chúa nhật II,
III, IV, V, VI, VII Phục sinh. Ngày Chúa nhật Hiện xuống kết thúc thời gian
thánh năm mươi ngày này.
24. Tám ngày đầu mùa Phục sinh là tuần Bát nhật Phục
sinh và được cử hành như là các ngày lễ trọng kính Chúa.
25. Lễ Thăng thiên cử hành ngày thứ bốn mươi sau lễ
Phục sinh ; nơi nào lễ này không phải lễ buộc, thì cử hành vào Chúa nhật VII Phục
sinh (x. số 7).
26. Những ngày sau lễ Thăng thiên cho đến hết ngày
thứ bảy trước lễ Hiện xuống là những ngày chuẩn bị đón mừng Chúa Thánh Thần ngự
đến.
C.
Mùa Chay
27. Mùa Chay nhằm chuẩn bị cử hành lễ Phục sinh. Phụng
vụ mùa Chay giúp các dự tòng và các tín hữu cử hành mầu nhiệm Phục sinh. Các dự
tòng được chuẩn bị qua những giai đoạn khác nhau của việc khai tâm kitô giáo ;
còn các tín hữu thì qua việc tưởng niệm bí tích Thánh Tẩy và việc sám hối.[13]
28. Mùa Chay bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc ngay
trước Thánh lễ Tiệc Ly.
Không đọc Alleluia từ đầu mùa Chay cho tới lễ Canh
Thức Phục sinh.
29. Ngày thứ Tư đầu mùa Chay có xức tro ; ngày đó khắp
nơi ăn chay.[14]
30. Các Chúa nhật mùa này gọi là Chúa nhật I, II, III,
IV, V mùa Chay. Chúa nhật thứ sáu, bắt đầu Tuần Thánh, gọi là Chúa nhật Lễ Lá
tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa.
31. Tuần Thánh nhằm tưởng niệm cuộc Thương Khó của
Chúa Kitô từ lúc Người vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia.
Sáng thứ Năm Tuần Thánh, Đức Giám mục đồng tế với
linh mục đoàn, làm phép dầu thánh và cung hiến dầu hiến thánh.
D.
Mùa Giáng sinh
32. Sau việc cử hành hàng năm mầu nhiệm Phục sinh,
Hội Thánh không có việc cử hành nào cổ xưa bằng việc kính nhớ Chúa Giáng sinh và
kính nhớ những lần tỏ mình đầu tiên của Người : đó là mùa Giáng Sinh.
33. Mùa Giáng sinh bắt đầu từ giờ Kinh Chiều I lễ Chúa
Giáng sinh cho đến hết Chúa nhật lễ Hiển Linh, hoặc Chúa nhật sau ngày 6 tháng
giêng.
34. Thánh lễ Vọng Giáng sinh cử hành vào ban chiều
ngày 24 tháng 12 trước hoặc sau giờ Kinh Chiều I.
Trong ngày lễ Chúa Giáng sinh, theo truyền thống
cổ xưa của Rôma, có thể cử hành ba thánh lễ nghĩa là lễ đêm, lễ rạng đông và lễ
ban ngày.
35. Lễ Chúa Giáng Sinh có tuần Bát nhật được sắp xếp
như sau :
a)
Chúa nhật trong tuần Bát Nhật, hoặc nếu không có Chúa nhật này, thì ngày 30
tháng 12, là lễ Thánh gia Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse.
b)
Ngày 26 tháng 12 là lễ kính thánh Stêphanô, tử đạo tiên khởi.
c)
Ngày 27 tháng 12 là lễ kính thánh Gioan tông đồ, tác giả sách Tin Mừng.
d)
Ngày 28 tháng 12 là lễ kính các thánh Anh Hài.
e) Ngày 1 tháng giêng, Bát nhật lễ Giáng
Sinh là lễ trọng mừng Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời ; trong ngày này cũng kính
nhớ việc đặt tên cho Chúa Giêsu.
36. Chúa nhật từ ngày 2 đến ngày 5 tháng giêng là Chúa
nhật II sau lễ Giáng sinh.
37. Lễ Hiển Linh cử hành vào ngày 6 tháng giêng, nơi
nào lễ này không phải là lễ buộc, thì cử hành vào Chúa nhật từ 2 đến 8 tháng
Giêng (x. số 7).
38. Chúa nhật sau ngày 6 tháng giêng là lễ kính Chúa Giê-su
chịu phép rửa.
E.
Mùa Vọng
39. Mùa Vọng có hai đặc tính : vừa là mùa chuẩn bị
mừng lễ trọng Giáng sinh, trong lễ này, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ
nhất với loài người ; vừa là mùa mà qua việc kính nhớ này, các tín hữu hướng
lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì hai lý do này,
mùa Vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi.
40. Mùa Vọng bắt đầu từ giờ Kinh Chiều I ngày Chúa
nhật nhằm ngày 30 tháng 11, hoặc nhằm ngày nào gần nhất, và kết thúc trước giờ Kinh
Chiều I lễ Chúa Giáng sinh.
41. Các Chúa nhật mùa này gọi là Chúa nhật I, II, III,
IV Mùa Vọng.
42. Các ngày trong tuần từ 17 đến hết ngày 24 tháng
12 là những ngày nhằm cách trực tiếp hơn việc chuẩn bị lễ Chúa Giáng Sinh.
F.
Mùa Thường niên
43. Ngoài những mùa có đặc tính riêng biệt, còn lại
ba mươi ba hoặc ba mươi bốn tuần trong chu kỳ năm phụng vụ. Trong các tuần lễ
này, không có cử hành một khía cạnh nào đặc biệt về mầu nhiệm
Chúa Kitô ; nhưng lại tôn kính toàn bộ mầu nhiệm Chúa Kitô, nhất là trong
các ngày Chúa nhật, thời gian này gọi là mùa Thường niên.
44. Mùa Thường niên bắt đầu từ thứ hai kế tiếp Chúa
nhật sau ngày 6 tháng giêng, và kéo dài đến hết thứ ba trước mùa Chay ; rồi lại
bắt đầu từ thứ hai sau Chúa nhật lễ Hiện xuống và kết thúc trước giờ Kinh Chiều
I Chúa nhật I mùa Vọng.
Vì thế, có một loạt công thức trong sách Các Giờ
Kinh Phụng vụ cũng như trong Sách Lễ dành cho các Chúa nhật và các ngày trong
tuần mùa này.
G.
Các ngày Cầu mùa và Bốn mùa
45. Các ngày Cầu Mùa và Bốn Mùa trong năm, Hội Thánh
thường cầu xin Chúa cho những nhu cầu khác nhau của con người, nhất là cho
ruộng đất sinh hoa quả, cho công ăn việc làm của con người, đồng thời công khai
tạ ơn Chúa.
46. Để những ngày Cầu Mùa và Bốn Mùa trong năm có thể
thích ứng với nhu cầu địa phương và tín hữu, các Hội đồng Giám mục phải quy định
thời gian và cách thức cử hành những ngày đó.
Vì thế, các vị có thẩm quyền cần lưu tâm đến nhu
cầu địa phương, mà đặt ra những quy tắc cho việc cử hành các ngày nói trên :
kéo dài một hay nhiều ngày, làm một hay nhiều lần trong năm.
47. Để cử hành mỗi ngày lễ nói trên, thì chọn thánh
lễ nào trong những lễ cho các nhu cầu khác nhau, thích hợp hơn với ý cầu nguyện.
CHƯƠNG
II
LỊCH PHỤNG VỤ
I. LỊCH VÀ NHỮNG CỬ HÀNH PHỤNG
VỤ
ĐƯỢC GHI TRONG LỊCH
48. Niên lịch điều hành và tổ chức việc cử hành năm
phụng vụ. Có niên lịch chung và niên lịch riêng tùy như đã được ấn định để dùng
cho toàn thể Hội Thánh theo Nghi lễ Rôma hay cho một Hội Thánh địa phương hoặc
cho một tu hội nào đó.
49. Lịch chung ghi toàn bộ chu kỳ các lễ liên quan
tới mầu nhiệm cứu độ trong Phần riêng về Mùa, các lễ liên quan tới các Thánh có
tầm quan trọng phổ quát buộc mọi người phải mừng kính và liên quan tới các Thánh
khác biểu lộ được đời sống thánh thiện vừa phổ quát vừa liên tục trong Dân
Chúa.
Còn những Lịch riêng gồm những lễ có tính cách
riêng tư hơn được sắp xếp một cách hợp lý và chặt chẽ với chu kỳ chung,[15]
vì mỗi Hội Thánh, mỗi hội dòng phải đặc biệt tôn kính những vị Thánh thuộc riêng
của mình vì lý do đặc biệt.
Các lịch riêng phải do Giới thẩm quyền biên soạn
và được Tông Tòa chuẩn nhận.
50. Khi biên soạn những niên lịch riêng, cần lưu ý
những điều sau :
a) Phần
riêng về mùa tức là chu kỳ các mùa, các lễ trọng và các lễ kính, nhằm diễn giải
và suy tôn mầu nhiệm cứu độ trong năm phụng vụ. Chu kỳ này phải luôn được giữ
trọn vẹn và chiếm vị trí ưu tiên trên các lễ riêng.
b) Những
lễ riêng phải được sắp xếp chặt chẽ với những lễ chung. Cần phải để ý tới thứ
tự và ưu tiên được chỉ trong bảng ghi những ngày phụng vụ. Để các niên lịch riêng
đừng quá nhiều lễ, thì mỗi vị Thánh chỉ được kính một lần trong năm mà thôi.
Còn nơi nào vì lý do mục vụ đòi buộc thì kính một lần khác theo công thức lễ
nhớ tự do, vào dịp kỷ niệm ngày di chuyển, hoặc tìm thấy hài cốt của Thánh Bổn
mạng hoặc của Vị sáng lập các giáo đoàn hay các hội dòng.
c) Những lễ được phép riêng để cử hành không
được mừng trùng với các lễ đã sẵn có trong chu kỳ mầu nhiệm cứu độ, cũng không
được tăng số quá mức cần thiết.
51. Mặc dầu thuận tiện để mỗi giáo phận có lịch riêng
và phần riêng về Các Giờ Kinh Phụng Vụ và thánh lễ. Tuy nhiên vẫn không có gì
ngăn trở, nếu dùng lịch và phần riêng đã được các người liên hệ cộng tác biên
soạn chung cho toàn giáo tỉnh, hoặc một miền quốc gia hay một địa hạt rộng lớn
hơn.
Cũng thế, có thể giữ nguyên tắc trên đây trong
các niên lịch của các hội dòng dùng cho nhiều tỉnh thuộc cùng một địa hạt dân sự.
52. Niên lịch riêng được soạn thảo bằng cách đưa xen
vào những lễ riêng : lễ trọng, lễ kính và lễ nhớ, nghĩa là :
a) Trong niên lịch giáo phận, đưa xen vào : lễ Bổn
Mạng, lễ Cung hiến nhà thờ chính tòa, lễ các Thánh và Chân phúc có liên hệ đặc
biệt với giáo phận, ví dụ liên hệ về nguồn gốc vì cư trú lâu ngày hay qua đời
tại đó.
b) Trong niên lịch hội dòng, đưa xen vào : lễ Tước
hiệu, lễ Đấng sáng lập, lễ Bổn Mạng, lễ các Thánh và Chân phúc đã là thành phần
hay có liên hệ đặc biệt với hội dòng ấy.
c) Trong niên lịch mỗi nhà thờ, đưa vào : các lễ riêng
của giáo phận hay của hội dòng, lễ riêng của chính nhà thờ được kê khai trong
bảng ghi các ngày phụng vụ, lễ các Thánh có xác được giữ trong nhà thờ. Thành
phần các hội dòng hợp với cộng đoàn Hội Thánh địa phương, để cử hành lễ giáp
năm cung hiến nhà thờ chính tòa, và lễ các Thánh Bổn Mạng chính của địa phương
và của địa hạt rộng lớn hơn nơi các ngài cư trú.
53. Khi giáo phận hay hội dòng nào có nhiền Thánh và
Chân phúc, thì nên tránh đừng để cho niên lịch toàn giáo phận hay toàn tu hội
có quá nhiều lễ. Bởi đó :
a) Trước
hết, có thể cử hành lễ chung mọi Thánh và Chân phúc của giáo phận hay hội dòng,
hay lễ một loại Thánh nào trong các vị đó.
b) Chỉ ghi vào niên lịch để kính riêng các Thánh hay
Chân phúc có tầm quan trọng đặc biệt đối với toàn giáo phận hay hội dòng.
c) Chỉ phải kính các Thánh và Chân phúc khác ở những
nơi các ngài có liên hệ khá mật thiết, hay ở những nơi có giữ xác các ngài.
54. Phải ghi những lễ riêng vào niên lịch như các lễ
nhớ bắt buộc hay không bắt buộc, trừ khi có tiên liệu thể khác, trong bảng ghi
các ngày phụng vụ, đối với một số trong các lễ đó, hoặc khi có những lý do lịch
sử hay mục vụ đặc biệt. Nhưng không cấm cử hành cách trọng thể hơn trong một số
nơi, sánh với toàn giáo phận hay tu hội
55. Những ai buộc dùng niên lịch riêng, đều phải giữ
những lễ ghi trong niên lịch đó và không được bỏ hoặc thay đổi bậc lễ, nếu không
được Tông Tòa chuẩn nhận.
II. NGÀY RIÊNG CỦA CÁC CỬ
HÀNH
56. Hội Thánh quen mừng kính các Thánh vào ngày sinh
trên trời của các ngài, tức là ngày các ngài khởi đầu cuộc sống trên thiên quốc
; nên giữ điều đó cả trong những lễ riêng được ghi trong niên lịch riêng.
Tuy những lễ riêng có tầm quan trọng đặc biệt đối
với Hội Thánh địa phương hay đối với hội dòng, nhưng, để có sự thống nhất ngần
nào có thể, rất nên cử hành lễ trọng, lễ kính, lễ nhớ bắt buộc, ghi trong niên
lịch chung.
Bởi đó, khi ghi những lễ riêng vào niên lịch riêng,
phải giữ những điều sau đây :
a) Những
lễ nào có sẵn trong niên lịch chung, phải được ghi trong niên lịch riêng đúng
cùng một ngày như niên lịch chung ; nếu cần có thể đổi bậc lễ.
Còn về niên lịch giáo phận hay hội dòng, cũng phải
giữ như thế, khi ghi các lễ chỉ là lễ riêng của nhà thờ.
b) Nếu
trong niên lịch chung không thấy có lễ mừng kính các Thánh, thì mừng kính vào
ngày riêng có liên hệ với vị Thánh, như ngày thụ phong, ngày tìm thấy hay di
chuyển hài cốt : bằng không, thì mừng kính vào ngày không có lễ nào khác trong lịch
riêng.
c) Nếu
ngày sinh trên trời hay ngày dành riêng kính vị Thánh bị ngăn trở vì một lễ buộc
khác ghi trong niên lịch chung hay riêng, dù ở bậc thấp hơn, thì mừng kính vào
ngày gần nhất không bị ngăn trở như thế.
d) Nếu
là trường hợp những lễ không thể dời sang ngày khác vì những lý do mục vụ, thì
phải dời lễ gây cản trở đó đi.
đ) Các
lễ khác gọi là lễ được phép riêng, thì phải ghi vào ngày thích hợp hơn, xét theo
khía cạnh mục vụ.
e) Để chu kỳ năm phụng vụ thật sáng ngời, và để các
lễ mừng kính các Thánh không bị ngăn trở vĩnh viễn, thì đừng ghi những lễ riêng
vào các ngày thường gặp mùa Chay và tuần Bát nhật Phục sinh, cũng đừng ghi vào
những ngày từ 17 đến 31 tháng Mười Hai ; nhưng được phép ghi vào những ngày có
lễ nhớ không bắt buộc, hay những lễ kính trong bảng ghi ngày phụng vụ nói trong
số
Các Hội Đồng Giám Mục có thể dời lễ trọng mừng
thánh Giuse (19/3) sang một ngày khác ngoài mùa Chay, trừ khi đó là lễ buộc.
57. Nếu những Thánh hay Chân phúc nào được ghi trong
niên lịch cùng một lúc, thì luôn luôn được mừng chung với nhau, mỗi khi phải
mừng ở cùng bậc lễ, mặc dầu một hay ít nhiều vị được mừng kính cách đặc biệt
hơn. Nhưng nếu một hay ít nhiều vị phải được mừng ở bậc lễ cao hơn, thì chỉ đọc
Các Giờ Kinh Phụng Vụ về vị Thánh ấy, và không mừng các vị khác, trừ khi thấy
nên mừng các vị đó vào một ngày khác dưới hình thức lễ nhớ bắt buộc.
58. Để phục vụ lợi ích mục vụ cho giáo dân, trong các
Chúa nhật Thường niên, được phép mừng các lễ nào gặp trong tuần mà được giáo
dân sùng mộ, miễn là những lễ ấy cao hơn chính ngày Chúa nhật theo bảng ghi thứ
tự ưu tiên. Có thể mừng các lễ ấy trong mọi thánh lễ có đông giáo dân tham dự.
59. Về việc cử hành theo thứ tự ưu tiên giữa các ngày
phụng vụ, chỉ có một bảng điều hành duy nhất sau đây :
BẢNG
GHI NGÀY PHỤNG VỤ
sắp
xếp theo thứ tự ưu tiên
I
1. Tam nhật Phục Sinh tưởng niệm cuộc Thương Khó và sự Phục
sinh của Chúa.
2. Lễ Giáng sinh, Hiển linh, Thăng thiên và Hiện xuống.
Các Chúa nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục
sinh.
Thứ tư lễ Tro.
Các ngày trong Tuần Thánh, từ thứ hai đến hết thứ
năm.
Các ngày trong tuần Bát nhật Phục sinh.
3. Các lễ trọng kính Chúa, Đức Mẹ và các thánh có ghi trong
lịch chung.
Lễ cầu cho mọi tín hữu đã qua đời.
4. Các lễ trọng riêng, tức là :
a) Lễ trọng thánh Bổn mạng chính của địa phương,
thành phố hay quốc gia ;
b) Lễ trọng Cung hiến thánh đường, hay ngày kỷ
niệm Cung hiến thánh đường đó ;
c) Lễ trọng mừng tước hiệu của nhà thờ ;
d) Lễ trọng của dòng hay hội dòng mừng tước hiệu,
hoặc Đấng sáng lập dòng, hay Bổn mạng chính của dòng.
II
5. Các lễ kính Chúa có ghi trong lịch chung.
6. Các Chúa nhật mùa Giáng sinh và mùa Thường niên.
7. Các lễ kính Đức Mẹ và các Thánh có ghi trong lịch
chung.
8. Các lễ kính riêng, tức là :
a) Lễ Bổn Mạng chính của địa phận.
b) Lễ
kỷ niệm Cung hiến nhà thờ chính tòa.
c) Lễ kính Bổn mạng chính của miền, tỉnh, nước
hay một vùng rộng lớn.
d) Lễ
kính của dòng tu hay tu hội và tỉnh dòng mừng tước hiệu, Đấng sáng lập, Thánh
Bổn mạng, trừ những điểm đã nói trong số 4.
đ) Các
lễ kính riêng của một vài nhà thờ.
e) Các
lễ kính khác có ghi trong lịch địa phận, dòng hay hội dòng
9. Các ngày trong tuần thuộc mùa Vọng, từ ngày 17 đến hết
24 tháng 12.
Các ngày trong tuần Bát nhật Giáng sinh.
Các ngày trong tuần thuộc mùa Chay.
III
10. Các lễ nhớ bắt buộc có ghi trong lịch chung.
11. Các lễ nhớ bắt buộc riêng, tức là :
a) Các
lễ nhớ Bổn mạng phụ của địa phương, địa phận, miền hay tỉnh, quốc gia, một vùng
rộng lớn, của dòng hay hội dòng và tỉnh dòng.
b) Ít
nhiều lễ nhớ bắt buộc riêng của một vài nhà thờ.
c) Các
lễ nhớ bắt buộc khác có ghi trong lịch địa phận, dòng hay hội dòng.
12. Các lễ nhớ không
bắt buộc đã được nói tới một cách đặc biệt trong Quy chế tổng quát về thánh lễ
và thần vụ, thì có thể xảy ra vào cả những ngày đã nói ở số 9. Cũng vì lý do
đó, khi những lễ nhớ bắt buộc trùng với những ngày trong tuần thuộc mùa Chay,
thì có thể được cử hành như lễ nhớ không bắt buộc.
13. Các ngày trong tuần, từ đầu mùa Vọng cho đến hết ngày
16 tháng 12.
Các
ngày trong tuần thuộc mùa Giáng Sinh, từ ngày 2 tháng Giêng đến ngày thứ bảy sau
lễ Hiển linh.
Các
ngày trong tuần thuộc mùa Phục sinh, từ thứ hai sau tuần Bát nhật Phục sinh, cho
đến hết thứ bảy trước lễ Hiện xuống.
Các
ngày trong tuần thuộc mùa Thường niên.
60. Nếu gặp nhiều lễ phải kính trong cùng một ngày,
thì đọc thần vụ về lễ nào có địa vị cao hơn trong bảng ghi ngày phụng vụ. Nhưng
trường hợp một lễ trọng bị ngăn trở vì gặp một ngày phụng vụ ưu tiên, thì lễ
trọng ấy được chuyển sang một ngày nào gần nhất, không vướng phải những ngày đã
nói trong bảng thứ tự ưu tiên, từ số 1 đến số 8, nhưng phải giữ những điều đã
quy định ở số 5 trong Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ (x. Quy chế tổng quát
ở đầu Sách Lễ Rôma). Các lễ còn lại, thì năm đó bỏ luôn.
61. Còn nếu trong cùng một ngày mà Kinh Chiều II của
lễ đang mừng trùng với Kinh Chiều I của ngày lễ hôm sau, thì cứ dựa theo bảng
ghi ngày phụng vụ trên, mà cử hành Kinh Chiều của lễ nào có ưu tiên ; trường
hợp hai lễ ngang nhau, thì đọc Kinh Chiều II của lễ đang mừng.
LỊCH PHỤNG VỤ CỦA HỘI THÁNH RÔMA
THÁNG GIÊNG
1 |
Cuối tuần bát nhật lễ Giáng sinh THÁNH MARIA, MẸ THIÊN
CHÚA. |
Lễ trọng |
2 |
Thánh Basiliô Cả và thánh Grêgôriô
Nazianzênô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. |
Lễ nhớ |
3 |
Kính
Danh rất thánh Chúa Giêsu |
([16]) |
4 |
|
|
5 |
|
|
6 |
|
|
7 |
Thánh Raimunđô Penyafort,
linh mục. |
|
8 |
|
|
9 |
|
|
10 |
|
|
11 |
|
|
12 |
|
|
13 |
Thánh Hilariô, giám mục,
tiến sĩ Hội Thánh. |
|
14 |
|
|
15 |
|
|
16 |
|
|
17 |
Thánh Antôn, viện phụ. |
Lễ nhớ |
18 |
|
|
19 |
|
|
20 |
Thánh Fabianô, giáo hoàng,
tử đạo. Thánh Sêbastianô, tử đạo. |
|
21 |
Thánh Anê, trinh nữ, tử đạo. |
Lễ nhớ |
22 |
Thánh Vinh Sơn, phó tế, tử
đạo. |
|
23 |
|
|
24 |
Thánh Phanxicô Salêsiô, giám mục, tiến
sĩ Hội Thánh. |
Lễ nhớ |
25 |
THÁNH PHAOLÔ, TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI. |
Lễ kính |
26 |
Thánh Timôthêô và thánh Titô, giám mục. |
Lễ nhớ |
27 |
Thánh Angiêla Mêrici, trinh
nữ. |
|
28 |
Thánh Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ
Hội Thánh. |
Lễ nhớ |
29 |
|
|
30 |
|
|
31 |
Thánh Gioan Bôscô, linh mục. |
Lễ nhớ |
|
CN trong khoảng từ mồng 2 đến mồng 8
tháng Giêng CHÚA HIỂN LINH. |
Lễ trọng |
|
Chúa nhật sau mồng 6 tháng Giêng CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA. |
Lễ kính |
THÁNG HAI
1 |
|
|
2 |
DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH. |
Lễ kính |
3 |
Thánh Blasiô, giám mục, tử
đạo. Thánh Ansgariô, giám mục. |
|
5 |
Thánh Agatha, trinh nữ, tử đạo. |
Lễ nhớ |
6 |
Thánh Phaolô Miki và các bạn, tử đạo. |
Lễ nhớ |
7 |
|
|
8 |
Thánh Giêrônimô
Êmilianô. Thánh
Josephina Bakhita, trinh
nữ |
|
9 |
|
|
10 |
Thánh Scôlastica, trinh nữ. |
Lễ nhớ |
11 |
Đức Mẹ Lộ Đức. |
|
12 |
|
|
13 |
|
|
14 |
Thánh Cyrillô, đan sĩ và thánh Mêthôđiô,
giám mục. |
Lễ nhớ |
15 |
|
|
16 |
|
|
17 |
Bảy thánh lập dòng Tôi tớ
Đức Mẹ. |
|
18 |
|
|
19 |
|
|
20 |
|
|
21 |
Thánh Phêrô Đamianô, giám
mục, tiến sĩ Hội Thánh. |
|
22 |
LẬP TÔNG TÒA THÁNH PHÊRÔ. |
Lễ kính |
23 |
Thánh Pôlicarpô, giám mục, tử đạo. |
Lễ nhớ |
24 |
|
|
25 |
|
|
26 |
|
|
27 |
|
|
28 |
|
|
29 |
|
|
THÁNG BA
1 |
|
|
2 |
|
|
3 |
|
|
4 |
Thánh
Casimirô. |
|
5 |
|
|
6 |
|
|
7 |
Thánh nữ Perpêtua và thánh nữ Fêlicita,
tử đạo. |
Lễ nhớ |
8 |
Thánh Gioan Thiên Chúa, tu
sĩ. |
|
9 |
Thánh
Phanxica Rômana, nữ tu. |
|
10 |
|
|
11 |
|
|
12 |
|
|
13 |
|
|
14 |
|
|
15 |
|
|
16 |
|
|
17 |
Thánh Patriciô, giám mục. |
|
18 |
Thánh Cyrilô, giám mục Giêrusalem,
tiến sĩ Hội Thánh. |
|
19 |
THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM
ĐỨC TRINH NỮ MARIA. |
Lễ trọng |
20 |
|
|
21 |
|
|
22 |
|
|
23 |
Thánh Turibiô Môngrôvêjô,
giám mục. |
|
24 |
|
|
25 |
LỄ TRUYỀN TIN CHÚA. |
Lễ trọng |
26 |
|
|
27 |
|
|
28 |
|
|
29 |
|
|
30 |
|
|
31 |
|
|
THÁNG TƯ
1 |
|
|
2 |
Thánh
Phanxicô Paola, ẩn tu. |
|
3 |
|
|
4 |
Thánh Isiđôrô, giám mục,
tiến sĩ Hội Thánh. |
|
5 |
Thánh Vinh Sơn Ferrê, linh
mục. |
|
6 |
|
|
7 |
Thánh Gioan Baotixita Lasalle, linh mục.
|
Lễ nhớ |
8 |
Thánh Stanislaô, giám mục, tử đạo. |
Lễ nhớ |
9 |
|
|
10 |
|
|
11 |
|
|
12 |
|
|
13 |
Thánh Martinô I, giáo hoàng,
tử đạo. |
|
14 |
|
|
15 |
|
|
16 |
|
|
17 |
|
|
18 |
|
|
19 |
|
|
20 |
|
|
21 |
Thánh Anselmô, giám mục,
tiến sĩ Hội Thánh |
|
22 |
|
|
23 |
Thánh Gêorgiô, tử đạo. Thánh
Adalbertô, giám mục, tử đạo |
|
24 |
Thánh
Fiđêlê Sigmaringen, linh mục, tử đạo |
|
25 |
THÁNH MARCÔ, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG. |
Lễ kính |
26 |
|
|
27 |
|
|
28 |
Thánh Phêrô Chanel, linh
mục, tử đạo. Thánh Lu Y Maria Grignion Monfort, linh mục |
|
29 |
Thánh Catarina Siêna, trinh nữ, tiến
sĩ Hội Thánh. |
Lễ nhớ |
30 |
Thánh Piô V, giáo hoàng. |
|
THÁNG NĂM
1 |
Thánh Giuse thợ. |
|
2 |
Thánh Athanasiô, giám mục, tiến sĩ Hội
Thánh. |
Lễ nhớ |
3 |
THÁNH PHILIPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ, TÔNG
ĐỒ. |
Lễ kính |
4 |
|
|
5 |
|
|
6 |
|
|
7 |
|
|
8 |
|
|
9 |
|
|
10 |
|
|
11 |
|
|
12 |
Thánh Nêrêô và thánh Achillêô,
tử đạo. |
|
12 |
Thánh Pancratiô, tử đạo. |
|
13 |
Đức Trinh Nữ Maria Fatima |
|
14 |
THÁNH MATTHIA, TÔNG ĐỒ. |
Lễ kính |
15 |
|
|
16 |
|
|
17 |
|
|
18 |
Thánh Gioan I, giáo hoàng,
tử đạo. |
|
19 |
|
|
20 |
Thánh Bernađinô Siêna, linh
mục. |
|
21 |
Thánh Christôphôrô Magallanes,
linh mục và các bạn, tử đạo. |
|
22 |
Thánh Rita Cascia, nữ tu |
|
23 |
|
|
24 |
|
|
25 |
Thánh Bêđa khả kính, linh
mục, tiến sĩ Hội Thánh Thánh Grêgôriô VII, giáo
hoàng. Thánh
Maria Magdalêna Pazzi, trinh nữ. |
|
26 |
Thánh Philipphê Nêri, linh mục. |
Lễ nhớ |
27 |
Thánh
Augustinô, giám mục Cantuariô. |
|
28 |
|
|
29 |
|
|
30 |
|
|
31 |
ĐỨC MARIA THĂM VIẾNG |
Lễ kính |
|
Chúa nhật I sau Lễ Hiện Xuống : CHÚA
BA NGÔI |
Lễ trọng |
|
Chúa nhật sau Lễ Chúa Ba Ngôi : MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA
KITÔ |
Lễ trọng |
THÁNG SÁU
1 |
Thánh Giustinô, tử đạo. |
Lễ nhớ |
2 |
Thánh Marcellinô và thánh
Phêrô, tử đạo. |
|
3 |
Thánh Carôlô Lwanga và các bạn, tử đạo. |
Lễ nhớ |
4 |
|
|
5 |
Thánh Bônifatiô, giám mục, tử đạo. |
Lễ nhớ |
6 |
Thánh Norbertô, giám mục. |
|
7 |
|
|
8 |
|
|
9 |
Thánh Ephrem, phó tế, tiến
sĩ Hội Thánh. |
|
10 |
|
|
11 |
Thánh Barnaba, tông đồ. |
Lễ nhớ |
12 |
|
|
13 |
Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ
Hội Thánh. |
Lễ nhớ |
14 |
|
|
15 |
|
|
16 |
|
|
17 |
|
|
18 |
|
|
19 |
Thánh Rômualđô, viện phụ. |
|
20 |
|
|
21 |
Thánh
Lu Y Gonzaga, tu sĩ. |
Lễ nhớ |
22 |
Thánh Paulinô, giám mục
Nôla. Thánh Gioan Fisher, giám
mục, và thánh Tôma More, tử đạo. |
|
23 |
|
|
24 |
SINH NHẬT THÁNH GIOAN
BAOTIXITA |
Lễ trọng |
25 |
|
|
26 |
|
|
27 |
Thánh Cyrillô, giám mục Alexandria,
tiến sĩ Hội Thánh. |
|
28 |
Thánh Irênê, giám mục, tử đạo. |
Lễ nhớ |
29 |
THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ,
TÔNG ĐỒ. |
Lễ trọng |
30 |
Các thánh tử đạo tiên khởi
của Hội Thánh Rôma. |
|
|
Thứ sáu sau Chúa nhật II sau Lễ Hiện
Xuống : THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU |
Lễ trọng |
|
Thứ bảy sau Chúa nhật II sau Lễ Hiện
Xuống : Trái tim Vô
nhiễm Đức Trinh Nữ Maria |
Lễ nhớ |
THÁNG BẢY
1 |
|
|
2 |
|
|
3 |
THÁNH TÔMA, TÔNG ĐỒ. |
Lễ kính |
4 |
Thánh nữ Êlisabeth Bồ
Đào Nha. |
|
5 |
Thánh
Antôn Maria Zaccaria, linh mục. |
|
6 |
Thánh
Maria Goretti, trinh nữ, tử đạo. |
|
7 |
|
|
8 |
|
|
9 |
Thánh
Augustinô Zhao Rong, linh mục và các bạn, tử đạo |
|
10 |
|
|
11 |
Thánh Bênêđictô, viện phụ. |
Lễ nhớ |
12 |
|
|
13 |
Thánh Henricô. |
|
14 |
Thánh Camillô Lellis, linh
mục. |
|
15 |
Thánh Bônaventura, giám mục, tiến sĩ
Hội Thánh. |
Lễ nhớ |
16 |
Đức Mẹ núi Carmelô |
|
17 |
|
|
18 |
|
|
19 |
|
|
20 |
Thánh
Apôlinarê, giám mục tử đạo |
|
21 |
Thánh Laurensô Brindisi,
linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. |
|
22 |
Thánh nữ Maria Magđalêna. |
Lễ nhớ |
23 |
Thánh Birgitta, nữ tu. |
|
24 |
Thánh
Sarbêliô Makhluf, linh mục |
|
25 |
THÁNH GIACÔBÊ, TÔNG ĐỒ. |
Lễ kính |
26 |
Thánh Gioakim và thánh Anna, song thân
Đức Trinh Nữ Maria. |
Lễ nhớ |
27 |
|
|
28 |
|
|
29 |
Thánh nữ Martha. |
Lễ nhớ |
30 |
Thánh Phêrô Kim Ngôn, giám
mục, tiến sĩ Hội Thánh. |
|
31 |
Thánh
Ignatiô Loyôla, linh mục. |
Lễ nhớ |
THÁNG TÁM
1 |
Thánh
Alfonsô Maria Liguori , giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. |
Lễ nhớ |
2 |
Thánh Êusêbiô, giám mục
Vercelli. Thánh Phêrô Julianô Eymard,
linh mục |
|
3 |
|
|
4 |
Thánh
Gioan Maria Vianney, linh mục. |
Lễ nhớ |
5 |
Cung hiến vương cung thánh
đường Đức Maria. |
|
6 |
CHÚA HIỂN DUNG |
Lễ kính |
7 |
Thánh Xystô II, giáo hoàng
và các bạn, tử đạo. Thánh Cajêtanô, linh mục. |
|
8 |
Thánh Đaminh, linh mục. |
Lễ nhớ |
9 |
Thánh
Têrêsa Bênêđicta Thánh giá, trinh nữ , tử đạo |
|
10 |
THÁNH LAURENSÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO. |
Lễ kính |
11 |
Thánh Clara, trinh nữ. |
Lễ nhớ |
12 |
Thánh Gioanna Phanxica Chantal, nữ tu |
|
13 |
Thánh Pontianô, giáo
hoàng, và Thánh Hippôlytô, linh mục, tử đạo. |
|
14 |
Thánh Maximilianô Maria Kôlbê, linh mục,
tử đạo. |
Lễ nhớ |
15 |
ĐỨC MẸ LÊN TRỜI |
Lễ trọng |
16 |
Thánh Stêfanô Hungari. |
|
17 |
|
|
18 |
|
|
19 |
Thánh Gioan Êuđê, linh mục. |
|
20 |
Thánh Bernarđô, viện phụ, tiến sĩ Hội
Thánh. |
Lễ nhớ |
21 |
Thánh Piô X, giáo hoàng. |
Lễ nhớ |
22 |
Đức Trinh Nữ Maria Nữ vương. |
Lễ nhớ |
23 |
Thánh
Rôsa Lima, trinh nữ. |
|
24 |
THÁNH BARTHÔLÔMÊÔ, TÔNG ĐỒ. |
Lễ kính |
25 |
Thánh Lu Y. Thánh Giuse Calasanz, linh
mục. |
|
26 |
|
|
27 |
Thánh nữ Mônica. |
Lễ nhớ |
28 |
Thánh Augustinô, giám mục, tiến sĩ Hội
Thánh. |
Lễ nhớ |
29 |
Thánh Gioan Baotixita bị trảm quyết. |
Lễ nhớ |
30 |
|
|
31 |
|
|
THÁNG CHÍN
1 |
|
|
2 |
|
|
3 |
Thánh Grêgôriô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ
Hội Thánh. |
Lễ nhớ |
4 |
|
|
5 |
|
|
6 |
|
|
7 |
|
|
8 |
SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MARIA. |
Lễ kính |
9 |
Thánh
Phêrô Claver, linh mục |
|
10 |
|
|
11 |
|
|
12 |
Kính
Danh rất thánh Đức Maria |
|
13 |
Thánh Gioan Kim Khẩu, giám mục, tiến
sĩ Hội Thánh. |
Lễ nhớ |
14 |
SUY TÔN THÁNH GIÁ. |
Lễ kính |
15 |
Đức
Trinh Nữ Maria sầu bi. |
Lễ nhớ |
16 |
Thánh Cornêliô, giáo hoàng và thánh Cyprianô,
giám mục, tử đạo. |
Lễ nhớ |
17 |
Thánh Rôbertô Bellarminô,
giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. |
|
18 |
|
|
19 |
Thánh Januariô, giám mục,
tử đạo. |
|
20 |
Thánh Anrê Kim Tae-gon, Phaolô Chong-Ha-sang
và các bạn, tử đạo. |
Lễ nhớ |
21 |
THÁNH MATTHÊÔ, TÔNG ĐỒ, TÁC GIẢ SÁCH
TIN MỪNG |
Lễ kính |
22 |
Thánh
Pio de Pietralcina, linh mục |
Lễ
nhó |
23 |
|
|
24 |
|
|
25 |
|
|
26 |
Thánh Cosma và thánh Đamianô,
tử đạo. |
|
27 |
Thánh Vinh Sơn Phaolô, linh mục. |
Lễ nhớ |
28 |
Thánh Venceslaô, tử đạo. Thánh Laurensô Ruiz và các
bạn , tử đạo. |
|
29 |
CÁC TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICHAEL,
GABRIEL, RAPHAEL |
Lễ kính |
30 |
Thánh Giêrônimô, linh mục, tiến sĩ Hội
Thánh. |
Lễ nhớ |
THÁNG MƯỜI
1 |
THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU, trinh nữ,
tiến sĩ Hội Thánh. BỔN MẠNG CÁC NƠI TRUYỀN GIÁO |
Lễ kính |
2 |
Các Thiên thần hộ thủ. |
Lễ nhớ |
3 |
|
|
4 |
Thánh Phanxicô Assisi. |
Lễ nhớ |
5 |
|
|
6 |
Thánh Brunô, linh mục. |
|
7 |
Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi. |
Lễ nhớ |
8 |
|
|
9 |
Thánh Điônysiô , giám mục,
và các bạn, tử đạo. Thánh Gioan Lêônarđô, linh
mục. |
|
10 |
|
|
11 |
Thánh Gioan XXIII, giáo
hoàng |
|
12 |
|
|
13 |
|
|
14 |
Thánh Callistô I, giáo hoàng,
tử đạo. |
|
15 |
Thánh Têrêsa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ
Hội Thánh. |
Lễ nhớ |
16 |
Thánh
Hedvigis, nữ tu. Thánh
Margarita Maria Alacoque, trinh nữ. |
|
17 |
Thánh Ignatiô Antiôchia, giám mục, tử
đạo. |
Lễ nhớ |
18 |
THÁNH LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG. |
Lễ kính |
19 |
Thánh Gioan Brêbeuf, và Thánh
Isaác Jôgues, linh mục và các bạn, tử đạo. Thánh Phaolô Thánh giá, linh
mục. |
|
20 |
|
|
21 |
|
|
22 |
Thánh Gioan-Phaolô II,
giáo hoàng |
|
23 |
Thánh Gioan Capestranô, linh
mục. |
|
24 |
Thánh Antôn Maria Claret,
giám mục |
|
25 |
|
|
26 |
|
|
27 |
|
|
28 |
THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUĐA, TÔNG ĐỒ. |
Lễ kính |
29 |
|
|
30 |
|
|
31 |
|
|
THÁNG MƯỜI MỘT
1 |
CÁC THÁNH NAM NỮ |
Lễ trọng |
2 |
CẦU
CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI |
|
3 |
Thánh
Martinô Porres, tu sĩ. |
|
4 |
Thánh Carôlô Borrômêô, giám mục. |
Lễ nhớ |
5 |
|
|
6 |
|
|
7 |
|
|
8 |
|
|
9 |
CUNG HIẾN ĐỀN THỜ LATÊRANÔ |
Lễ kính |
10 |
Thánh Lêô Cả, Giáo hoàng, tiến sĩ Hội
Thánh. |
Lễ nhớ |
11 |
Thánh Martinô, giám mục Tours |
Lễ nhớ |
12 |
Thánh Jôsaphat, giám mục, tử đạo. |
Lễ nhớ |
13 |
|
|
14 |
|
|
15 |
Thánh Albertô Cả, giám mục, tiến sĩ Hội
Thánh. |
Lễ nhớ |
16 |
Thánh nữ Margarita
Scotland. Thánh Gertruđê, trinh nữ. |
|
17 |
Thánh nữ Êlisabeth Hungari |
Lễ nhớ |
18 |
Cung hiến đền thờ thánh
Phêrô |
|
19 |
|
|
20 |
|
|
21 |
Đức Trinh Nữ Maria dâng mình trong đền
thờ. |
Lễ nhớ |
22 |
Thánh Cêcilia, trinh nữ, tử đạo. |
Lễ nhớ |
23 |
Thánh Clêmentê I, giáo hoàng,
tử đạo. Thánh Côlumbanô, viện phụ. |
|
24 |
THÁNH
ANRÊ DŨNG LẠC, LINH MỤC VÀ CÁC BẠN, TỬ ĐẠO |
Lễ trọng |
25 |
Thánh Catarina Alexandria, trinh nữ, tử đạo |
|
26 |
|
|
27 |
|
|
28 |
|
|
29 |
|
|
30 |
THÁNH ANRÊ, TÔNG ĐỒ. |
Lễ kính |
|
Chúa nhật cuối cùng mùa Thường niên
: CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ. |
Lễ trọng |
THÁNG MƯỜI HAI
1 |
|
|
2 |
|
|
3 |
THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, LINH MỤC, |
Lễ kính |
4 |
Thánh Gioan Đamascênô, linh
mục, tiến sĩ Hội Thánh. |
|
5 |
|
|
6 |
Thánh Nicôla, giám mục. |
|
7 |
Thánh Ambrôsiô, giám mục, tiến sĩ Hội
Thánh. |
Lễ nhớ |
8 |
ĐỨC TRINH NỮ MARIA VÔ NHIỄM
NGUYÊN TỘI |
Lễ trọng |
9 |
Thánh
Gioan Diego Cuauhtlatoatzin |
|
10 |
|
|
11 |
Thánh Đamasô I, giáo
hoàng. |
|
12 |
Đức
Trinh Nữ Maria Guadalupe |
|
13 |
Thánh Lucia, trinh nữ, tử đạo. |
Lễ nhớ |
14 |
Thánh Gioan Thánh giá, linh mục, tiến
sĩ Hội Thánh. |
Lễ nhớ |
15 |
|
|
16 |
|
|
17 |
|
|
18 |
|
|
19 |
|
|
20 |
|
|
21 |
Thánh Phêrô Canisiô, linh
mục, tiến sĩ Hội Thánh. |
|
22 |
|
|
23 |
Thánh Gioan Kêty, linh mục. |
|
24 |
|
|
25 |
CHÚA GIÁNG SINH |
Lễ trọng |
26 |
THÁNH STÊFANÔ, TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI. |
Lễ kính |
27 |
THÁNH GIOAN, TÔNG ĐỒ, TÁC GIẢ SÁCH TIN
MỪNG. |
Lễ kính |
28 |
CÁC THÁNH ANH HÀI, TỬ ĐẠO. |
Lễ kính |
29 |
Thánh Tôma Bécket, giám mục,
tử đạo. |
|
30 |
|
|
31 |
Thánh Silvestrô I, giáo
hoàng. |
|
|
Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng
sinh, hoặc nếu không có Chúa nhật, thì ngày
30 tháng mười hai : THÁNH GIA : CHÚA GIÊSU, ĐỨC MARIA VÀ
THÁNH GIUSE |
Lễ kính |
[1] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng vụ
thánh, Thánh Công đồng chung (Sacrosanctum
Concilium), số 102-105.
[2] Sđd., số 3.
[3] Sđd., số 106.
[4] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng vụ
thánh, Thánh Công đồng chung (Sacrosanctum
Concilium), số 103-104.
[5] Sđd.,
số 111.
[6] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng vụ
thánh, Thánh Công đồng chung (Sacrosanctum
Concilium), số 102.
[7] Sđd., số 5.
[8] Sđd., số 106.
[9] x. PHAOLÔ VI, Tông hiến Hảy thống hối (Poenitemini, ngày 17.02.1966, II §3) :
AAS 58 (1966), tr. 184.
[10] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng vụ
thánh, Thánh Công đồng chung (Sacrosanctum
Concilium), số 110
[11] Thánh AUGUSTINÔ, Bài giảng (Sermo) 219
: PL 38,1088.
[12] Thánh AUGUSTINÔ, Epist. fest. 1
: PG 26,1366.
[13] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng vụ
thánh, Thánh Công đồng chung (Sacrosanctum
Concilium), số 109.
[14] x. PHAOLÔ VI, Tông hiến Hãy thống hối (Poenitemini, ngày
17.02.1966, II §3) : AAS 58 (1966), tr. 184.
[15] x. THÁNH BỘ PHỤNG TỰ, Huấn thị Lịch riêng (Calendaria Particularia), ngày 24.06.1970 : AAS 62 (1970), tr. 651-663.