Tại sao phải rước lễ
trong mùa Phục sinh?
(conggiao.info) 5/6/2014 7:43:34 AM – Điều 920 của bộ giáo luật
hiện hành buộc các tín hữu phải rước lễ một năm ít là một lần, vào mùa Phục
sinh. Tại sao có điều luật đó?
Khoản giáo luật
vừa trưng dẫn còn được lặp lại trong sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 1389.
Tuy nhiên nguồn gốc của nó đã có từ xa xưa, nghĩa là từ công đồng Latêranô IV
năm 1215.
Tại sao phải
ra luật đó?
Có rất nhiều lý
do đôi khi tương phản nhau: có người nguội lạnh, chẳng mấy khi đi nhà thờ, vì
thế cần phải ra luật thúc đẩy họ tối thiểu một năm hãy liệu xưng tội rước lễ một
lần. Ngược lại, có người quá đạo đức, đi lễ thường xuyên nhưng không dám lên rước
lễ vì cảm thấy mình bất xứng. Do đó, cần phải thúc đẩy họ lên rước lễ ít là một
năm một lần. Để hiểu rõ vấn đề này hơn, chúng ta nên đi ngược lại dòng lịch sử
từ những thế kỷ đầu tiên của Hội thánh.
Các tín hữu tiên khởi rước lễ
bao nhiêu lần một năm?
Thực khó nói
cách chính xác. Tuy nhiên có thể suy đoán dựa theo vài dữ kiện. Chúng ta biết rằng
ngay từ đầu tiên, các Kitô hữu đã có thói quen họp nhau cử hành Thánh Thể hằng
tuần vào ngày Chúa nhật, (ngày của Chúa, ngày mừng Chúa Kitô Phục sinh). Chúng
ta thấy chứng tích nơi sách Tông đồ công vụ, chương 20 câu 7, kể lại việc thánh
Phaolô chủ sự lễ nghi bẻ bánh tại Troa. Sách Điđakhê chương 14 diễn tả việc
tham dự lễ bẻ bánh ngày Chúa nhật thành một quy luật. Từ đó ta cũng có thể kết
luận được rằng họ cũng rước lễ ít là mỗi tuần một lần. Lý do dễ hiểu, bởi vì việc
tham dự Thánh lễ đương nhiên bao hàm việc rước lễ. Thánh lễ được gọi là
"việc bẻ bánh", hàm ngụ ý tưởng một bữa tiệc thánh. Do đó không ai đi
dự tiệc mà ra về với bụng trống rỗng.
Từ khi Giáo hội cử hành phụng vụ
vào các ngày trong tuần lễ, thì các tín hữu cũng tăng mức độ rước lễ nữa hay
sao?
Lịch sử không
tiến triển theo đường thẳng, nhưng thường là theo đường ngoằn ngoèo. Xét về kỷ
luật chung của Giáo hội thì quả là có sự tiến triển trong việc cử hành Thánh lễ.
Vào thời đầu, có lẽ mỗi tuần Giáo hội chỉ cử hành Thánh lễ một lần vào ngày
Chúa nhật. Nhưng con số đó tăng lên dần dần, tuỳ theo địa phương. Hồi đầu thế kỷ
V, thánh Augustinô (Epistola 54, ad Ianuarium, c.2) viết như sau: "việc
dâng lễ thay đổi tùy theo địa phương. Có nơi thì hiệp lễ hàng ngày, có nơi thì
chỉ hiệp lễ vào một vài bữa. Có nơi thì không ngày nào bỏ việc dâng Hy lễ; có
nơi thì chỉ dâng Thánh lễ vào thứ bảy và Chúa nhật; thậm chí có nơi chỉ dâng lễ
vào ngày Chúa nhật". Như vậy, cho đến thời thánh Augustinô, không phải đâu
đâu cũng có Thánh lễ hàng ngày, và thậm chí có nơi chỉ có Thánh lễ ngày Chúa nhật
mà thôi.
Điều này không
chỉ tuỳ thuộc vào số linh mục nhiều hay ít, nhưng còn bị chi phối bởi nhiều yếu
tố khác nữa. Chẳng hạn như bên các Giáo hội Đông phương, các buổi cử hành Thánh
lễ rất long trọng, vì thế không lạ gì mà thường chỉ giới hạn vào ngày Chúa nhật,
với sự tham gia đông đảo của cộng đoàn và ca đoàn. Đang khi đó, bên Tây phương,
do việc các đan sĩ thụ phong linh mục, cho nên việc cử hành Thánh lễ cũng gia
tăng tại các đan viện, không những là Thánh lễ cử hành cho cộng đoàn mỗi ngày,
mà mỗi linh mục còn cử hành Thánh lễ kể cả khi không có cộng đoàn tham dự. Hơn
thế nữa, việc tăng gia các buổi cử hành Thánh lễ không nhất thiết kèm theo sự
tăng gia việc rước lễ.
Tại sao vậy?
Lúc nãy tôi đã
nói rằng lịch sử không tiến theo đường thẳng nhưng theo đường ngoằn ngoèo. Một
cách tổng quát, ta thấy rằng ở những thế kỷ đầu tiên, việc hiệp lễ gắn liền với
việc tham dự Thánh lễ (gọi là lễ bẻ bánh), nhưng dần dần thì hai hành vi được
tách rời. Có người rước lễ tuy không tham dự Thánh lễ: điều này xảy ra cho những
người đau ốm không thể đi nhà thờ được, hoặc những người bị giam tù trong kỳ bắt
đạo. Ngược lại, có người thì tham dự Thánh lễ mà không rước lễ. Điều này xảy ra
vì nhiều lý do. Một lý do vừa mới nhắc đến là trường hợp các đan sĩ cử hành
Thánh lễ mà không ai tham dự (và do đó không có ai rước lễ); như thế việc rước
lễ không còn phải là thành phần của Thánh lễ nữa. Đang khi đó, tại các giáo xứ,
thì tuy các tín hữu buộc phải tham dự Thánh lễ hàng tuần, nhưng không hẳn là ai
cũng dám lên rước lễ, xét vì cảm thấy lương tâm không ổn.
Như vậy, họ không lên rước lễ
vì thấy mình mắc tội trọng, phải không?
Đúng vậy. Dựa
theo lời của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, chương 11 câu
28-29: "Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy,
ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt
mình", Giáo hội đòi hỏi các tín hữu phải sạch tội trọng thì mới được phép
rước Mình Thánh Chúa. Thế nhưng, trong lịch sử không thiếu những khuynh hướng
giải thích chặt chẽ hơn nữa về sự chuẩn bị tâm hồn. Họ đòi hỏi không những chỉ
sạch tội trọng, mà cả tội nhẹ cũng như các mối quyến luyến với thế trần. Thậm
chí, họ buộc các đôi vợ chồng phải kiêng cữ ái ân thì mới được lên rước lễ.
Nói thế thì chỉ có các tu sĩ mới
được xứng đáng rước lễ hay sao?
Các tu sĩ cũng
chẳng xứng đáng rước lễ nữa. Mãi cho đến đầu thế kỷ XX, nhiều hiến pháp Dòng tu
chỉ cho phép các tu sĩ rước lễ một tháng một lần, nghĩa là 12 lần một năm. Ai
muốn rước lễ hàng ngày thì phải có phép của cha giải tội. Vị này có bổn phận trắc
nghiệm trình độ đạo đức của linh hồn, rồi mới dám cho phép tu sĩ rước lễ thường
xuyên. Thực ra, cha linh hồn không chỉ xét xem linh hồn có mắc tội trọng hay tội
nhẹ hay không, nhưng còn muốn biết hiệu quả của việc rước lễ như thế nào: đương
sự có tiến triển trên đường nhân đức hay không? Việc rước lễ có phát sinh hoa
trái như lòng mong ước hay không?
Nếu việc rước lễ không phát
sinh hoa trái, thì tu sĩ chỉ được rước lễ mỗi tháng một lần thôi phải không?
Có lẽ còn ít
hơn nữa là đàng khác. Nói như thế chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của sắc lệnh
công đồng Latêranô IV năm 1215. Có thể giải thích tầm mức áp dụng sắc lệnh vừa
cho các tín hữu biếng nhác (chẳng mấy khi đi nhà thờ) vừa cho những tu sĩ nữa!
Theo các sử gia, nghĩa vụ buộc rước lễ mỗi năm ít là một lần bắt nguồn từ các
đan sĩ sống trong sa mạc (như thánh Ambrôsiô giải thích: De sacramentis, 5,25).
Dù sao thì về sau này giáo luật nhắm tới các người nguội lạnh nhiều hơn.
Từ thế kỷ IX,
nhiều công đồng điạ phương buộc các tín hữu phải rước lễ ba lần một năm vào dịp
lễ Giáng sinh, Phục sinh và Hiện xuống. Công đồng Latêranô IV thì chỉ buộc rước
lễ mỗi năm một lần, ít là vào lễ Phục sinh. Dần dần nghĩa vụ này được kéo dài
ra suốt mùa Phục sinh. Bộ giáo luật hiện hành thì giữ lại luật buộc phải rước lễ
mỗi năm một lần; nhưng không nhất thiết là trong mùa Phục sinh. Bộ giáo luật hiện
hành cũng bỏ những chế tài của công đồng Latêranô, theo đó ai không rước lễ
trong tuần lễ Phục sinh thì sẽ bị trục xuất khỏi Giáo hội, và không được an
táng theo nghi thức phụng vụ.
Tại sao phải rước lễ mỗi năm một
lần?
Như đã nói ở đầu,
ta có thể đọc nghĩa vụ này theo hai chiều hướng đối nghịch. Với người thờ ơ
lãnh đạm thì luật này thúc đẩy họ hãy nuôi dưỡng lòng đạo, nhờ việc lãnh bí
tích Thánh Thể: thân xác cần được nuôi dưỡng thì mới sống được. Ai mà không ăn
thì dù chưa chết cũng thấy kiệt lực. Linh hồn cũng cần được bồi dưỡng nhờ bí
tích để có sức mạnh chống lại tội lỗi và tăng cường nhân đức. Vì thế mà việc rước
lễ mỗi năm một lần là mức tối thiểu. Xuống dưới mức tối thiểu thì có nguy cơ hấp
hối.
Mặt khác, nghĩa
vụ này cũng nhắc nhớ những người quá bối rối sợ hãi rằng: Chúa Giêsu đã thiết lập
bí tích này không chỉ để cho ta thờ lạy tôn kính, nhưng còn để trở thành lương
thực cho ta nữa. Ngài muốn trở nên bánh cho ta ăn, ngõ hầu ta được sống và sống
dồi dào. Đành rằng Ngài là Đấng cực thánh, còn ta là kẻ tội lỗi, không xứng
đáng cho Ngài ngự vào linh hồn ta, nhưng chúng ta đừng quên phần thứ hai của lời
nguyện trước khi rước lễ: "Lạy Chúa, con chẳng đáng rước Chúa ngự vào nhà
linh hồn con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh".
Tuy dù chúng ta bất xứng, nhưng chính vì thế mà chúng ta cần Chúa đến thăm, như
bệnh nhân cần đến lương y đến chữa lành. Vì thế chúng ta đừng ngại ngùng lên rước
lễ khi thấy mình còn nhiều thiếu sót.
Dù sao, có lẽ
ngày nay ít người ngại lên rước lễ vì cảm thấy mình bất xứng. Chúng ta chỉ sợ
rơi vào tình trạng trái ngược. Cho đến đầu thế kỷ XX, trung bình các tu sĩ được
rước lễ mỗi tháng một lần. Bộ giáo luật hiện hành ở số 917 dự liệu những trường
hợp được phép rước lễ nhiều lần trong một ngày. Nguy cơ có thể xảy ra là sự thiếu
chuẩn bị xứng đáng, không chỉ theo nghĩa là chưa thanh tẩy linh hồn đúng mức,
nhưng còn theo nghĩa là chúng ta không lưu ý đến việc để cho Mình Thánh phát
sinh những hoa trái mong muốn, đặc biệt là lòng mến Chúa yêu người.
Lm. Giuse Phan Tấn Thành