THINH LẶNG TRONG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
SỰ CẦN THIẾT VÀ QUAN
TRỌNG
CỦA THINH LẶNG TRONG
PHỤNG VỤ
(giaolyductin.org) 25 / 03/ 2015, 10:03:33
Trước Công đồng Vatican II, cử hành phụng vụ là chuyện
riêng của vị tư tế và chú giúp lễ. Mỗi người tham dự vào phụng vụ một cách độc
lập và xa cách như những hòn đảo: tư tế thi hành công việc của tư tế và ngài
làm gần như trọn gói mọi phần trong Thánh lễ, còn giáo dân chỉ lo làm việc đạo
đức bình dân của mình miễn sao không ai làm phiền đến ai cả. Thế rồi, một nhận
thức mới đã hình thành: cử hành phụng vụ thực sự trở thành kinh nguyện chung
của toàn thể Giáo Hội. Người tín hữu muốn cầu nguyện riêng bất cứ lúc nào và
bất cứ nơi đâu thì tùy, nhưng khi bước vào trong giờ phụng vụ, cộng đoàn đức
tin được quy tụ trở thành một thân mình và một tiếng nói chung để cùng nhau
công bố sứ điệp Lời Chúa và phụng thờ Thiên Chúa.
Đó là lý do tại sao một trong những chủ đề hàng đầu của
cuộc canh tân phụng vụ được trình bày trong Hiến chế Phụng vụ Thánh
(Sacrosanctum Concilium = SC) của Công đồng Vatican II là mời gọi các tín hữu
tham gia tích cực (actuosa participatio) vào cử hành phụng vụ. Chủ đề
"tham gia tích cực" đã trở thành mục tiêu được xem xét trước mọi vần
đề khác trong Công đồng. Các nghị phụ của Công đồng nhất trí rằng trong việc
canh tân và cổ võ phụng vụ thánh, cần phải hết sức lưu tâm đến việc tham dự
trọn vẹn và linh động của toàn dân: vì phụng vụ là nguồn mạch trước tiên và
thiết yếu, từ đó các tín hữu múc lấy tinh thần Kitô giáo đích thực.[1]
Tuy nhiên, sự tham gia tích cực không có nghĩa là chạy
theo chủ nghĩa duy hoạt động như thể chúng ta phải hòa nhập vào cộng đoàn phụng
vụ theo cách làm hết điều này đến điều kia một cách liên tục. Cách thực hành
này biến cử hành phụng vụ giống như một "chuyến bay" không trạm dừng
(non-stop) hay một "bản nhạc" không nốt lặng và quãng lặng, hoặc tệ
hơn nữa như một "chương trình văn nghệ" với các tiết mục nối tiếp
nhau không ngưng nghỉ. Trái lại, một trong những cách thức quan trọng nhất để
có thể canh tân chính chúng ta khi tham dự phụng vụ là dễ dàng tập trung vào
tâm hồn mình (cầm lòng cầm trí) cũng như suy niệm trong thinh lặng. Nhờ vậy,
chúng ta có thể nhận rõ những thúc bách của Chúa Thánh Thần nơi thẳm sâu tâm
hồn. Vì giống như mọi cách thức cầu nguyện, cốt yếu của phụng vụ là người tham
dự phải thinh lặng chăm chú hướng về Thiên Chúa để rồi Thiên Chúa chăm chú nhìn
đến chúng ta.[2]
Những lời tung hô, câu đáp, cử chỉ, thánh ca, và tư thế
được coi là những phương tiện qua đó chúng ta tham dự vào phụng vụ. Nhưng chính
sự thinh lặng cũng là một phương thế như vậy. Có thể nói rằng thinh lặng là lời
ca ngợi, là lời chúc tụng đẹp đẽ nhất dâng lên Thiên Chúa. Thinh lặng là một
thành phần thiết yếu của cử hành phụng vụ. Tuy vậy, thinh lặng lại là một trong
những khía cạnh bị bỏ qua nhiều nhất. Lý do là vì nhiều người e sợ thinh lặng
cũng như quên rằng nhịp sống đơn giản mà Thiên Chúa cấy trồng nơi tâm hồn mọi
người lại chính là tiết nhịp thinh lặng được tìm thấy trong thiên nhiên. Mẹ
Têrêsa Cancutta nói: "Hãy nhìn xem thiên nhiên thế nào - cây, cỏ, hoa -
chúng lớn lên trong thinh lặng; hãy nhìn xem tinh tú, mặt trời và mặt trăng,
chúng chuyển vận trong thinh lặng ra sao. Chúng ta cần thing lặng để có thể
chạm đến các linh hồn."[3]
Thinh lặng không phải là một thái độ thụ động, không phải
chỉ là thời khắc không ngôn từ và không hành động nào diễn ra. Trái lại, thinh
lặng đúng nghĩa là vượt trên mọi lời để từ cảm nghiệm ý nghĩa (sense
experience) cũng như từ cảm nghiệm chiều sâu (depth experience) chúng ta có
được cảm nghiệm tôn giáo (religious experience), nghĩa là có thể chạm đến mầu
nhiệm cao cả mà lời không thể diễn tả được: đó là thực tại hiện diện của Thiên
Chúa siêu việt và thánh thiện nhưng cũng thật gần gũi chúng ta.[4]
Phụng vụ là sự bắc cầu giữa con người và siêu việt. Trong
không gian thánh, chúng ta có thể cảm nhận được sự linh thánh qua lời, qua
những bài thánh ca, qua bánh và rượu và cả qua sự thinh lặng. Những khoảnh khắc
thinh lặng trong phụng vụ hết sức quan trọng vì nhờ đó chúng ta mới có thể tìm được
"cảm thức linh thánh" như lòng ước mong và hướng đến, tức là cảm nhận
về sự hiện diện của Thiên Chúa.
"Cảm thức linh thánh" phải là căn bản và bầu khí
cho mọi nỗ lực của chúng ta đến độ tác giả Robert Hovda coi đây như là một điều
kiện cần và đủ (sine qua non) của phụng vụ. Robert Hovda đặt ra vấn đề: nếu
không đạt được "cảm thức linh thánh" thì thử hỏi chúng ta tìm thấy gì
trong phụng vụ, phải chăng là sự an ủi hay những thứ không liên quan gì đến đức
tin hoặc có khi chẳng tìm thấy chi cả. Điều này liên quan đến vấn đề thinh
lặng, vì nếu không đủ thinh lặng, cảm thức này có thể bị bóp méo hay giảm sút.[5] Còn nếu chăm chút và thực hành thinh
lặng vào những thời điểm thích hợp trong phụng vụ chắc chắn chúng ta sẽ nhận
được hệ quả tuyệt vời là cảm thức tôn kính và cảm thức về siêu việt trong cử
hành phụng vụ.[6]
Có những nhà tu đức quả quyết: Thiên Chúa nói với chúng ta
không những qua Kinh Thánh và lời kinh khẩu nguyện mà còn qua thing lặng; Thinh
lặng là quê hương của Thượng Đế; Thiên Chúa là sự thinh lặng vĩnh cửu và cư ngụ
nơi thinh lặng; Thiên Chúa là bạn hữu của thinh lặng (Mẹ Têrêsa Cancutta);
Thinh lặng là ngôn ngữ đầu tiên của Thiên Chúa; Ngôn ngữ mà Thiên Chúa nghe rõ
nhất là tình yêu thinh lặng (thánh Gioan Thánh giá). Những ý tưởng này không
khác gì với những lời của nhà thần bí Meister Eckart: tôi đã không nói Thiên
Chúa yêu thích sự thinh lặng hay yêu thích những người phụng thờ thầm lặng, mà
là Thiên Chúa giống như sự thinh lặng.[7] Bởi
thế, nếu con người muốn tìm gặp và cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa thì
điều kiện thiết yếu là thinh lặng. Phụng vụ là một trong những môi trường thuận
tiện nhất cho việc tìm gặp và cảm nhận Thiên Chúa. Do vậy, rất cần dành chỗ cho
sự thinh lặng trong giờ cử hành phụng vụ.
Những khoảnh khắc thinh lặng trong phụng vụ đối với các
tín hữu tham dự quan trọng như thế nào thì đối với các thừa tác viên cử hành
cũng quan trọng không kém. Bởi vì, thinh lặng là thành phần không thể thiếu
được của phụng vụ và thuộc về nghệ thuật cử hành (ars celebrandi).
Vì vậy, chúng ta không nên làm cho Thánh lễ, Bí tích hay
Giờ kinh Phụng vụ thành một buổi cử hành ồn ào, vội vã[8] như
một dịch vụ hay làm mất đi cảm thức linh thánh, ý nghĩa huyền nhiệm.[9] Thay vào đó, chúng ta nên tôn trọng
những chỗ thinh lặng cần thiết và giữ sự thinh lặng linh thiêng đúng lúc.[10]
CỘNG ĐOÀN THINH LẶNG
Khi cộng đoàn quy tụ, Kinh Thánh thường đề cập đến việc
khẩu nguyện và ca hát chung. Chẳng hạn, thánh Phaolô khuyên các tín hữu:
"Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần
Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa" (Ep 5,19).
Nhưng cũng có nhiều chỗ khác, Kinh Thánh ám chỉ đến việc cầu nguyện với tấm lòng,
cầu nguyện với trí khôn, tức là tâm nguyện hay cầu nguyện trong thinh lặng (Tv
4,5; Sm 1,13; 1Cr 14,15).
Phụng vụ có bản chất là một nghi lễ thuộc cộng đoàn, là
hành vi hiệp thông và là hành động của toàn thể Thân mình Chúa Kitô gồm Đầu và
các chi thể.[11] Sự thinh lặng là thành phần thiết yếu
của cử hành phụng vụ cho nên cũng mang tính cộng đoàn. Hơn nữa, thinh lặng
chính là một phần trong cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và cộng đoàn đức tin.
Thinh lặng là linh hồn của phụng vụ, vì chỉ trong thinh lặng Thiên Chúa mới dễ
dàng gặp gỡ chúng ta vào trong tình yêu của Người. Do đó, khi cầu nguyện chung
với nhau, mọi thành viên của cộng đoàn đều cần có những giây phút thinh lặng
đồng loạt. Điều này tạo ra một bầu khí thinh lặng chung giúp mỗi người có thể
nghe được lời thì thầm của Thiên Chúa vang lên trong tâm hồn mình giữa muôn vàn
thanh âm khác nhau của một thế giới và thời đại đã quá quen thuộc và thậm chí
nghiện ngập sự ồn ào náo nhiệt, nhưng cũng là một thế giới đang đói khát sự
thinh lặng.[12] Bởi vậy, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô
II đã khuyên nhủ phải nỗ lực chăm chút nuôi dưỡng trong cộng đoàn cảm nghiệm về
sự thinh lặng và không thể lơ là bỏ qua sự thinh lặng trong phụng vụ.[13]
Khác với nghi thức Thánh lễ thời Công đồng Trento trong đó
dân chúng cảm thấy có những điều nhiệm mầu và thiêng thánh đang diễn ra nhưng
dường như Thánh lễ là "tuồng kịch siêu tự nhiên" chẳng mảy may liên
hệ đến cá nhân họ. Hệ quả là, giáo dân đọc kinh của họ, còn tư tế thi hành chức
vụ của tư tế. Ngày nay, sự thinh lặng phụng vụ có tác động lôi kéo cộng đoàn
xích lại gần nhau hơn và giúp họ cùng nhau tập trung tâm trí của mình lắng nghe
lời cũng như tham dự tích cực vào các mầu nhiệm. Theo thánh Ignatio thành
Antiokia (viết cho người Ephêsô), nếu không hiểu được sự thinh lặng của Chúa
Kitô thì không thể hiểu được Lời của Người mà nhờ đó họ được trở nên toàn
thiện. Nhưng chúng ta chỉ có thể hiểu được sự thinh lặng của Chúa Kitô khi cùng
nhau thinh lặng. Vì thế, mầu nhiệm thinh lặng là một trong những yếu tố góp
phần xây dựng cộng đoàn. Sự thinh lặng trong phụng vụ nói chung và trong Thánh
lễ nói riêng phải xuất phát từ kinh nghiệm thiêng liêng về chiều sâu thần bí mà
toàn thể cộng đoàn khám phá và trải qua. Tuy nhiên, sự thinh lặng này cần được
hướng dẫn bởi vị chủ sự trong tư cách là người lãnh đạo cộng đoàn phụng vụ.[14]
THỜI ĐIỂM THINH LẶNG ĐẶC BIỆT (TRONG THÁNH LỄ VÀ GIỜ KINH
PHỤNG VỤ)
I. Thinh lặng trong Nghi thức Thống hối
Quy chế Sách lễ Roma hướng dẫn rằng: "Tiếp theo, vị
tư tế mời mọi người sám hối. Sau một chút thinh lặng, tất cả cộng đoàn đọc công
thức thú tội chung và vị tư tế đọc lời xá giải để kết thúc. Lời xá giải này
không có hiệu quả của Bí tích Thống hối."[15]
Thinh lặng trong nghi thức này không những để hồi tâm suy
niệm về thân phận bất toàn và tội lụy của chúng ta, mà nhất là để hướng đến
tình thương của Chúa, ngợi khen lòng từ bi lân tuất của Người hầu có thể chuẩn
bị tâm hồn mình cử hành sự tha thứ và cảm nhận ơn tha thứ của Chúa qua Bí tích
Thánh Thể.[16]
II. Thinh lặng sau khi nghe công bố Lời Chúa
Trong Cựu Ước, sách các Vua quyển thứ I (19, 9… ) viết về
cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và tiên tri Elia trên núi Hôrep khi vị ngôn sứ này
đang tìm cách trốn tránh sự truy sát của Vua Acáp và hoàng hậu Giêrraben. Thiên
Chúa mặc khải cho tiên tri Elia hiểu rằng: gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá
tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão, Ngài cũng
không ở trong trận động đất, không ở trong lửa nhưng ở trong trong tiếng thì
thào êm nhẹ của ngọn gió hiu hiu. Câu chuyện của Elia chứng tỏ rằng hoàn toàn
trong thinh lặng và chỉ trong thinh lặng Thiên Chúa mới có thể đi vào trong tâm
hồn chúng ta và Lời Chúa được tiếp nhận một cách thanh thản trong thinh lặng.
Bước sang Tân Ước, câu chuyện của thánh Gioan Baotixita
làm chứng rằng “Lời Chúa được vang lên giữa chốn sa mạc” (Lc 3, 2). Còn Chúa
Giêsu lên tiếng dạy “khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện
cùng Cha của anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo” (Mt, 6, 6). Trong cuộc gặp gỡ
với chị em nhà Bêtania, Ngài nói với Matta: "Con băn khoăn lo lắng nhiều
chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và
sẽ không bị lấy đi"(Mt 12, 26). Phần tốt nhất và cần thiết nhất đó là: thinh
lặng để lắng nghe Lời Chúa. Không những dạy bằng lời, Chúa Giêsu còn làm gương
bằng cách thường xuyên cầu nguyện nơi hoang vắng và trong thinh lặng, lúc sáng
sớm, lúc trời còn tối mịt... (Mc 1, 35). Khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa
Giêsu dặn dò các ông “đừng chào hỏi ai dọc đường”(Lc 10, 4): nghĩa là phải
tránh mọi thứ xáo trộn và rờm rà phụ thuộc bên ngoài làm phân tán sự bình lặng
bên trong, làm cho việc rao giảng Lời Chúa trở nên bất lợi, mất đi tính cách
hữu hiệu của công cuộc loan báo Tin Mừng.
Như vậy, phải cử hành Phụng vụ Lời Chúa thế nào để tạo
thuận lợi cho việc suy gẫm. Vì thế, nên tránh mọi hình thức vội vã, ngăn trở
việc hồi tâm. Chúng ta cần lắng nghe tiếng Chúa trong bầu khí thinh lặng. Chính
trong sự thinh lặng của nội tâm mình và nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần mà
chúng ta ý thức được sự cao cả của Lời Chúa, khám phá ra ý nghĩa cùng sức mạnh
của Lời Chúa và làm cho Lời Chúa thành của mình. Nhờ vậy, Lời Chúa và lời diễn
giảng được dễ dàng tiếp nhận và đọng lại trong lòng chúng ta cũng như lời đáp
trả của chúng ta qua kinh nguyện được chuẩn bị.[17] Điều
này cũng giống như muốn thưởng thức toàn bộ giai điệu của một bản nhạc đến từng
chi tiết thì những nốt lặng hay những quãng lặng trong bản nhạc hết sức cần
thiết.
Chúng ta áp dụng việc giữ thing lặng vào trong cử hành
phụng vụ như sau:
1) Thông thường, cả cộng đoàn cùng nhau thinh lặng lắng
nghe Lời Chúa và tiếp tục thinh lặng thêm một chút sau Bài đọc I và Bài đọc II
của Thánh lễ và sau bài giảng.[18] Trong
Phụng vụ Giờ kinh, chúng ta cũng giữ thinh lặng sau khi nghe đọc đoạn Sách
Thánh hay bài kinh Sách. Sự thinh lặng như vậy cho phép chúng ta được nhận chìm
vào trong Lời Chúa, suy đi nghĩ lại Lời Chúa vừa được công bố và giải thích.
Chúng ta có thể suy gẫm từ những lời được trích đọc trong Sách Thánh, cảm nhận
được những "lời" yêu thương của Thiên Chúa đang nói với tâm hồn mình,
những lời mời gọi và lôi kéo chúng ta đến gần bên Ngài hơn nữa. Sách Dẫn nhập
Bài đọc cho Thánh lễ (= BĐ) năm 1981 quy định:
Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Người diễn ra nhờ
Chúa Thánh Thần đòi hỏi khoảng thời gian ngắn thinh lặng, phù hợp với cộng đoàn
Phụng vụ, như một cơ hội để đưa Lời Chúa vào trong trái tim và chuẩn bị để đáp
lại lời ấy trong cầu nguyện. Những lần thích hợp cho sự thinh lặng trong Phụng
vụ Lời Chúa là, chẳng hạn, trước khi Phụng vụ bắt đầu, sau Bài đọc thứ I và thứ
II, sau bài giảng.[19]
2) Thật ra, nên thinh lặng ngay cả trước khi nghe công bố
Lời Chúa mặc dầu không được quy định trong Quy chế Tổng quát Sách lễ Roma. Sự
thinh lặng lúc này không phải vì tỏ bày lịch sự với độc viên, thầy phó tế hay
linh mục sẽ công bố Sách Thánh, nhưng để giúp chính bản thân mỗi người dễ dàng
lắng nghe và tiếp nhận Lời Chúa hơn.
3) Quy chế Tổng quát Phụng vụ các Giờ kinh (= QCGK) đề
nghị một thời gian thinh lặng sau mỗi Thánh vịnh của Giờ kinh "để cho
tiếng của Chúa Thánh Thần vang dội mãnh liệt hơn trong tâm hồn và để lời cầu
nguyện riêng của mỗi người được kết hợp chặt chẽ hơn với Lời Chúa và lời cầu
nguyện chính thức của Giáo Hội."[20]
III. Thinh lặng sau Hiệp lễ
Một loại thinh lặng khác được áp dụng là sau khi rước lễ.
Quy chế Tổng Quát Sách lễ Roma đề cập đến việc phải tuân giữ "sự thinh
lặng thánh" sau khi mọi người đã hiệp lễ xong. Lúc này, vị tư tế và giáo
dân tùy nghi cầu nguyện trong lòng một khoảng thời gian.[21] Đó
là giây phút Chúa Thánh Thần cư ngụ trong hồn chúng ta và nói với tâm trí chúng
ta trong thinh lặng. Thời khắc này, thinh lặng là một cách thế và cơ hội giúp
chúng ta suy gẫm trong tâm tình biết ơn về món quà sự sống tuyệt vời Thiên Chúa
trao ban cho chúng ta phát xuất từ tình yêu vô biên của Ngài.
Nhờ đắm chìm trong bầu khí thinh lặng cũng như tạo không
gian cho mầu nhiệm của Thiên Chúa được diễn ra trong thinh lặng, chúng ta mới
có thể cảm nghiệm được tình yêu gặp gỡ và thông hiệp với Chúa Kitô. Chỉ trong
sự thinh lặng như thế, chúng ta mới nếm cảm được trọn vẹn hương vị của tình yêu
nồng thắm lan tỏa từ chính Chúa Kitô. Từ đó, mới có thể ngụp lặn trong mối tình
ấm áp và thẳm sâu của Thiên Chúa.[22] Thánh
Gioan Thánh giá khuyên rằng: "Trong thinh lặng và cô tịch, chúng ta hãy
khám phá tình yêu vô biên của Thiên Chúa được mặc khải trong Đức Kitô."
Mặc dù sau khi rước lễ, thay vì thinh lặng, riêng ca đoàn
hoặc toàn thể cộng đoàn cũng có thể hát một Thánh thi, một Thánh vịnh hay một
bài Thánh ca ngợi khen nào khác.[23] Thế
nhưng, chọn lựa tốt hơn là thinh lặng sau khi mọi người rước lễ hay dành ra một
khoảng lặng ngắn rồi mới hát bài ca sau hiệp lễ nhằm kết thúc thời gian thinh
lặng. Thực hành này chắc chắn sẽ tạo ra hiệu ứng tốt hơn đối với những người
tham dự.
Giây phút thinh lặng sau hiệp lễ hết sức linh thiêng và
quan trọng nhưng lại thường hay bị lạm dụng ở nhiều nơi để thông báo hoặc dành
cho những hoạt động khác. Vì thế, chúng ta nên tuyệt đối tránh thực hành không
thích hợp này. Nghĩa là, đối với những thông báo ngắn gọn mang tính mục vụ,
chúng ta có thể thực hiện sau Lời nguyện Hiệp lễ và trước khi ban phép lành
cuối lễ. Còn nếu muốn thông báo dài hơn hay có những hoạt động khác như chúc
mừng, cảm ơn, tặng quà, tặng hoa...như vẫn diễn ra tại các buổi lễ long trọng,
thì nên để sau khi đã ban phép lành cuối lễ và sau câu giải tán ("Lễ đã
xong, chúc anh chị em đi bình an").
IV. Thinh lặng sau mỗi lời mời cầu nguyện
1) Sau mỗi lời mời dâng lời cầu nguyện, Quy chế Tổng quát
Sách lễ Rôma chỉ thị rằng mọi người phải giữ thinh lặng giây lát sau khi linh
mục nói "chúng ta hãy cầu nguyện".[24] Đây
không phải là thời khắc: 1] Cho vị chủ tế có cơ hội mở trang Sách lễ cho đúng;
2] Cho các người giúp lễ trở về vị trí của họ; 3] Cho các độc viên Sách Thánh
tiến đến giảng đài; 4] Cho những người đi trễ tìm kiếm chỗ ngồi của mình. Đây
cũng không phải là thời khắc hay loại thinh lặng để làm rỗng đầu óc mình, xua
tan sự chia trí. Thực ra, đây là thời khắc ý nghĩa nhất giúp cộng đoàn tham dự
một cách ý thức, tích cực và trọn vẹn vào phụng vụ, tức là "ý thức mình
đang ở trước thánh nhan Chúa và có thể gợi lên trong tâm hồn các ước nguyện của
mình"[25] và hợp nhất ý nguyện của bản thân với
lời nguyện của cộng đoàn.
2) Sau mỗi lần nêu ý nguyện trong phần Lời nguyện Tín hữu.
Quy chế Tổng Quát Sách lễ Roma nói rằng: "Thầy phó tế, hoặc một ca viên,
hay độc viên hay một giáo dân khác xướng các ý nguyện từ giảng đài hay một nơi
nào khác xứng hợp. Còn toàn thể cộng đoàn đứng biểu lộ lời nguyện của mình,
hoặc bằng những lời kêu cầu chung sau mỗi ý nguyện được xướng lên, hoặc bằng
cách cầu nguyện trong thinh lặng."[26] Chúng
ta thấy phần chọn lựa thinh lặng sau mỗi ý nguyện được áp dụng đặc biệt tại
nhiều cộng đoàn trong buổi cử hành thứ Sáu Tuần Thánh.
3) Sau khi đã xướng các ý nguyện trong phần Lời nguyện Tín
hữu hoặc sau khi đã xướng đọc các lời nguyện trong phần Lời cầu của kinh Thần
vụ, vị chủ sự có thể mời gọi cộng đoàn thinh lặng cầu nguyện trong giây lát để
mỗi người tiếp tục dâng lên Chúa những ý nguyện thầm kín của mình.
V. Những khoảnh khắc thinh lặng khác
Ngoài những phần cộng đoàn nên cố gắng tuân giữ thinh lặng
như vừa nêu trên, còn nhiều thời khắc thinh lặng khác nữa khi cử hành Thánh lễ
(bao gồm cả những phần thinh lặng của cá nhân) như sau:
· Khoảnh khắc thinh lặng cho tác viên đọc Tin Mừng cầu
nguyện trước khi công bố Phúc Âm. Lúc này, tác viên nên hồi tâm và bày tỏ tôn
kính thực sự đối với Lời Chúa, ý thức nhiệm vụ của mình để công bố Lời Chúa
cách chính xác, cũng như ý thức nhu cầu phải thanh luyện tâm hồn và môi miệng
mình;[27]
· Khoảnh khắc thinh lặng khi chuẩn bị lễ vật như một sự
chuẩn bị sẵn sàng để cho Thiên Chúa biến đổi;[28]
· Khoảnh khắc thinh lặng thánh thiêng lúc truyền phép khi
vị tư tế nâng cao bánh và rượu đã được thánh hiến nhằm giúp mọi người hướng về
Đức Kitô với lòng biết ơn, tôn thờ và cầu xin cho sự biến đổi chính mình: lúc
này, người tham dự không thể làm gì khác hơn là lặng lẽ quỳ xuống và chào kính
Người;[29]
· Khoảng lặng khi dân chúng lắng nghe lời nguyện của linh
mục trong Kinh nguyện Thánh Thể để mỗi cá nhân trong tâm tình cầu nguyện thinh
lặng của mình có thể nhận lấy âm điệu và đem lời nguyện cá nhân vào lời nguyện
cộng đoàn và ngược lại.[30] Muốn
được như vậy, vị tư tế không nên đọc Kinh nguyện Thánh Thể một mạch liên tục,
nhưng phải đọc ngắt quãng;[31]
· Khoảnh khắc thinh lặng khi vị tư tế chuẩn bị mình bằng
việc đọc thầm lời nguyện xin cho rước Mình và Máu Thánh có hiệu quả, còn giáo
dân thinh lặng cầu nguyện để chuẩn bị;[32]cũng như khoảnh khắc thinh lặng sau khi
chủ tế đọc lời "Đây Chiên Thiên Chúa" để đôi mắt tâm hồn của mọi
người hướng về Con Chiên. Khoảnh khắc bấy giờ sẽ trở thành thời gian thinh lặng
hồng phúc;[33]
· Khoảng lặng trước và sau Thánh lễ. Việc chào đón và nói
chuyện trước hoặc sau Thánh lễ là cần thiết, nhất là với những khách lạ mới lần
đầu đến tham dự Thánh lễ trong cộng đoàn của mình. Tuy nhiên, nên đối thoại với
họ và với nhau bên ngoài hơn là ở trong thánh đường, vì ngay cả nhà thờ không
đặt nhà tạm bên trong thì vẫn là không gian thánh đòi hỏi chúng ta tôn trọng đặc
tính này. Tác viên đọc Sách Thánh nên lưu ý, nguyên việc công bố Lời Chúa trên
giảng đài mà thôi không đủ mà còn đòi hỏi phải được sửa soạn bằng suy niệm
trong thinh lặng để Lời Chúa được thấm nhiễm vào tâm lòng của người tham dự.[34] Tư tế, phó tế cùng với những giúp lễ
cũng nên có thời gian thinh lặng chuẩn bị trước Thánh lễ bên trong phòng thánh
(phòng áo) trước khi di chuyển ra cuối nhà thờ hay ra cung thánh.[35] Mặc dù Thánh lễ là kinh nguyện hoàn
hảo nhất nhưng chúng ta sẽ chẳng bao giờ cảm nghiệm được như vậy trong chính
bản thân nếu không chuẩn bị cử hành Thánh lễ trong nguyện cầu thinh lặng. Lý do
rất giản đơn là: sự hiệp thông yêu thương với Chúa trong phụng vụ cần đến sự
hiệp thông với Người bên ngoài Phụng vụ.[36] Có
thể hát một bài ca kết lễ rồi cộng đoàn thinh lặng ra về hay ở lại tiếp tục cầu
nguyện trong thinh lặng. Nhưng trong mùa Chay, tốt nhất là không hát bài kết
lễ. Hãy để mọi người ra về trong thinh lặng như diễn ra trong nghi thức thứ Sáu
Tuần Thánh.[37]
Khi cử hành các Bí tích, nên tôn trọng ít là những nguyên
tắc đơn giản sau:
· Thứ nhất, tuân theo những quy định và hướng dẫn cử hành
trong nghi thức bao gồm cả những phần yêu cầu cộng đoàn thinh lặng;
· Thứ hai, trân trọng các biểu tượng trong phụng vụ (cả
lời và hành động);
· Thứ ba, tác động vào giác quan người tham dự để họ có
thể tham dự "một cách ý thức, tích cực và trọn vẹn vào cử hành phụng
vụ".
Một trong số những mục đích của những nguyên tắc trên đây
là nhằm tránh tình trạng: những lúc cần thinh lặng để mọi người tham dự và nhất
là để chính thụ nhân có thể dễ dàng chiêm ngắm, lắng nghe và suy niệm lời đọc
đầy ý nghĩa từ vị chủ sự cũng như các hành động biểu tượng đang diễn ra, chúng
ta lại hay phạm phải sai lầm là ca hát hoặc dẫn ý bằng quá nhiều lời. Thói quen
này có lẽ phát xuất từ chỗ muốn lấp vào chỗ trống hay e sợ để xảy ra "thời
gian chết". Thực hành tốt nhất là: 1] Khi vị chủ sự đọc lớn tiếng lời
nguyện hay những công thức trong sách nghi thức thì cộng đoàn phải thinh lặng
lắng nghe hoặc hiệp thông với những lời ấy; 2] Không sử dụng quá nhiều lời giải
thích hay ca hát không đúng thời điểm khiến chúng phủ lấp hay hủy hoại các hành
động biểu tượng cũng như làm cho người tham dự không lãnh hội được những lời
trong phụng vụ.[38] Hậu nhiên là đừng bao giờ để xảy ra
tình trạng "đấu khẩu" giữa một bên là vị chủ sự cố gắng cho ứng viên
và cộng đoàn nghe được lời đọc của mình đang khi bên kia là ca đoàn (cộng đoàn)
lại ca hát sôi nổi lấn át toàn bộ tiếng nói của vị chủ sự.
Có thể nêu ra ở đây một số trường hợp cần thinh lặng nhưng
ít nơi chịu tuân thủ:
· Khi các linh mục đồng tế thinh lặng đặt tay trên đầu các
ứng viên linh mục sau khi ứng viên đã được Đức Giám mục thinh lặng đặt tay
phong chức;[39]
· Khi Đức Giám mục trao đĩa thánh với bánh và trao chén
với rượu đã pha nước trong chén cho các tân linh mục, ngài nói với từng người:
"Con hãy nhận lễ vật của dân thánh mà dâng lên Thiên Chúa. Con hãy ý thức
việc con làm, noi theo điều con thực hiện, và rập đời sống con theo khuôn mẫu
mầu nhiệm Thánh giá Chúa" (chỉ hát đang khi các tân chức linh mục sửa dây
vai và mặc áo lễ, lúc Đức Giám mục xức dầu bàn tay cũng như khi Giám mục cùng
mọi [hay một số] linh mục hiện diện trao hôn bình an cho tân chức);[40]
· Khi phong chức phó tế, Đức Giám mục trao sách Tin Mừng
cho ứng viên và nói: "Con hãy nhận lấy Tin Mừng của Đức Kitô mà con đã trở
thành người rao gỉảng, và con nên biết là phải tin điều con đọc, dạy điều con
tin và thi hành điều con dạy" (chỉ hát khi các phó tế hay thừa tác viên
khác đeo dây vai phó tế [và mặc áo phó tế] cũng như khi Đức Giám mục cùng mọi
[hay một số] phó tế hiện diện trao hôn bình an cho tân chức);[41]
· Khi cử hành Bí tích Hòa giải mà chung quanh tòa giải tội
quá ồn ào (bởi Thánh lễ đang cử hành; bởi cha đang giảng tuần tĩnh tâm; bởi
đang thực hành việc đạo đức bình dân như ngắm 15 sự thương khó, đi đàng Thánh
giá…) đến độ linh mục giải tội hết sức khó khăn mới có thể nghe được hoặc có
khi chẳng nghe thấy lời xưng tội của hối nhân. Ngược lại, chắc hối nhân cũng
khó lòng nghe được vị linh mục nói gì dù ngài phải gắng sức trao đổi với họ.
THINH LẶNG MỘT CÁCH UYỂN CHUYỂN
Thinh lặng trong phụng vụ nên được hiểu là một quà tặng.
Các tác viên mục vụ cần phải cho thấy sự nhạy bén của mình khi họ đào tạo và
hướng dẫn người tham dự thực hành thinh lặng phụng vụ. Như Quy chế Tổng quát
Phụng vụ các Giờ kinh khuyên nhủ: "Phải coi chừng kẻo vì thinh lặng như
thế mà làm lệch lạc cơ cấu kinh Nhật tụng khiến người tham dự lấy làm nặng nề
ngao ngán."[42]
Do vậy, thiết nghĩ rằng, liên quan đến những khoảnh khắc
thinh lặng trong phụng vụ, chúng ta không nên áp dụng cách thái quá hay bất
cập. Tức là, một mặt, không nên để những khoảng thinh lặng quá lâu đến mức trở
thành một sự ngắt quãng y như chuyện nghỉ xả hơi, trong khi phụng vụ là
"sống động" (Cv 17, 28), liên tục. Ngay cả khi trưng dụng những
khoảng lặng thì những quãng lặng ấy cũng chứa đựng một nội dung "chuyển
động nội tại" chứ không phải là chuyện nghỉ mệt. Mặt khác, những khoảnh
khắc thinh lặng nên được xem như là những khoảng "mềm" nối kết các
tiến trình mạc khải của Thiên Chúa. Các mầu nhiệm này phải được nối kết với
nhau bằng một "khoảng mềm" trong lòng người tham dự như dấu lặng
trong âm nhạc, cho dù im lặng nhưng người ta vẫn phải gõ nhịp.... Có như vậy
"tiếng nói" trong phụng vụ mới thực sự tác động mang lại ơn cứu độ
cho con người.[43] Cũng
nên tránh thay đổi thói quen thực hành cách đột ngột hay áp dụng một thực hành
mới mẻ cách thái quá. Tốt nhất là nên dần dần điều chỉnh bằng cách trước đó,
những người có trách nhiệm nên giải thích cho mọi người hiểu rõ cũng như sẵn
sàng cởi mở để đón nhận sự phản hồi của những người tham dự.
LINH ĐẠO THINH LẶNG[44]
Chúng ta đã thấy linh đạo của sự thinh lặng thể hiện trong
các văn bản phụng vụ được trích dẫn ở trên. Thinh lặng mang tính cộng đồng, nhờ
đó, chúng ta được lôi kéo vào trong cử hành phụng vụ. Thinh lặng mang tính đối
thoại, liên quan đến thông tin liên lạc giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Thinh lặng
là một lời đáp chúng ta thực hiện để trả lời tiếng gọi của Thiên Chúa. Thinh
lặng mang tính tiếp nhận: chúng ta được kêu gọi để cởi mở hơn trước Thiên Chúa
đang nói với chúng ta.[45] Thinh
lặng không chỉ chung quang chúng ta nhưng trong chính nội tâm chúng ta. Thinh
lặng là ở trong Chúa Thánh Thần vì tiếng nói của Ngài chỉ có thể được lắng nghe
trong thinh lặng. Thinh lặng là thánh thiêng, đặt chúng ta trước sự hiện diện
của Thiên Chúa. Thinh lặng phụng vụ nên được vận dụng với mức độ vừa phải và
uyển chuyển. Một trong những món quà của cuộc cải cách phụng vụ từ Công đồng
Vatican II là tái khám phá các truyền thống cổ xưa về sự thinh lặng phụng vụ.
Trong số những cách thức mà cộng đoàn phụng vụ trong các thế kỷ đầu của Giáo
Hội thực hành là giữ thinh lặng sau lời mời gọi cầu nguyện, sau khi nghe đọc
Sách Thánh, hoặc sau một bài Thánh vịnh trong Phụng vụ các Giờ kinh.
Với nhịp điệu của lời cầu nguyện, các Bài đọc, bài hát, và
sự thinh lặng, phụng vụ là một "trường học cầu nguyện," dạy các tín
hữu lắng nghe tiếng của Thiên Chúa đang nói với chúng ta qua ngôn từ, qua bài
hát, và qua tĩnh lặng.[46] Việc
thực hành thinh lặng phụng vụ đã được gieo trồng và phát triển đặc biệt trong
các đan viện. Vào thế kỷ thứ VI, chương XX trong Luật của thánh Biển Đức khẳng
định rằng lời cầu nguyện cộng đồng thì ngắn gọn. Nhưng cũng trong Luật dành cho
các đan viện, ngài lại đưa ra một chế độ sinh hoạt đòi hỏi đan sĩ cầu nguyện
đến tám giờ kinh mỗi ngày và đan sĩ phải hát toàn bộ sách Thánh vịnh trong vòng
một tuần, khiến người ta tự hỏi "ngắn gọn" đối với ngài có nghĩa gì?
Thực ra, thánh Biển Đức đang đề cập đến khoảnh khắc thinh lặng "ngắn
gọn" trong Phụng vụ. Ngài muốn nói rằng thời gian cầu nguyện trong thinh
lặng của cộng đoàn sau mỗi Thánh vịnh hay Bài đọc phải được tuân giữ nhưng
không kéo dài quá lâu. Những thế hệ các đan sĩ sau đó đã không giữ lời khuyên
của thánh nhân, suốt thời Trung cổ, họ đánh mất thực hành giữ thinh lặng phụng
vụ trong cộng đoàn. Công đồng Vatican II đã hồi sinh thực hành này và bây giờ
được áp dụng cho toàn thể Giáo Hội.
Thinh lặng là một thái độ rất quan trọng và cần thiết
phải giữ để tạo bầu khí phụng vụ: thinh lặng để lắng nghe và thinh lặng để suy
niệm và cầu nguyện. Vì mùa Chay là mùa chúng ta gia tăng cầu nguyện và suy gẫm,
cho nên đây là thời gian lý tưởng cho việc đổi mới sự thinh lặng trong phụng
vụ. Nếu như sự thinh lặng là cần thiết và thích đáng trong tất cả các nghi thức
phụng vụ và trong tất cả các mùa phụng vụ, thì mùa Chay là một thời kỳ để chúng
ta đi vào sự thinh lặng lâu dài hơn, và là thời gian để học biết nhiều hơn về
mục đích cũng như ý nghĩa của sự thinh lặng trong phụng vụ.
Mùa Chay 2015
[1] Sacrosanctum Concilium (=SC), 14.
[2] Xc. Laurence Freeman OSB, "The Eucharist and
Silence", Lecture at the School of Prayer, Archdiocese of Melbourne (20th
April 2005).
[3] Xc. Quy chế Tổng quát Sách lễ Roma (=QCSL) 45; Joseph
DeGrocco, A Pastoral on the General Instruction of the Roman Missal (Chicago:
Liturgy Training Publication, 2011), 31.
[4] Xc. The Spirit of the Liturgy (San Francisco:
Ignatius Press, 2000), 209; Felix. M. Podimattam, ofm. cap., Liturgical
Spirituality (Bangalore: IIS Publications, 2001), 12. 22; Edward McNamara ,
"Sounds of Silence" trong ZENIT Daily Dispatch (ROME, 20 JAN. 2004).
[5] Robert Hovda, "Liturgy' Sine Qua Non: A Sense of the
Holy" trong The Amen Corner, John f. Baldovin (ed) (Collegeville, Minnesota:
The Liturgical Press, A Pueblo Book, 1994), 58.
[6] Xc. Joseph DeGrocco, A Pastoral on the General Instruction
of the Roman Missal, 31.
[7] Laurence Freeman OSB, "The Eucharist and
Silence".
[8] Sách Dẫn nhập Bài Đọc cho Thánh lễ (= BĐ), số` 28; Quy chế
Tổng quát Sách lễ Roma (=QCSL) 56.
[9] Xc. Joseph DeGrocco, A Pastoral on the General Instruction
of the Roman Missal, 31-32.
[10] Xc. SC 30; QCSL 35; 42.
[11] Xc. SC 7; 26f; GH 10; GLCG 1140.
[12] Xc. Dennis C. Smolarski, SJ, "The Importance of
Silence to the Liturgy" trong Liturgical Catechesis (No 25, September
2011); Edward McNamara , "Sounds of Silence" trong ZENIT Daily
Dispatch (ROME, 20 JAN. 2004); Felix. M. Podimattam, ofm. cap., Liturgical
Spirituality (Bangalore: IIS Publications, 2001), 13.
[13] Tông Thư Spiritus et Sponsa, số 13 (Kỷ niệm 40 năm GH ban
hành Hiến chế Phụng vụ Thánh).
[14] Xc. Edward McNamara , op. sit.,; Felix. M. Podimattam,
ofm. cap., op. sit., 13.
[15] QCSL 51.
[16] Xc. Giuse Phạm Đình Ái, sss, Cử Hành Hy Lễ Tạ Ơn (Nxb
Phương Đông, 2014), 80-89.
[17] QCSL 55. 56; Mane Nobiscum Domine 13.
[18] QCSL 66; 128; 130; 136.
[19] BĐ 28.
[20] QCGK 202.
[21] QCSL 164; 88.
[22] Xc. Joseph Ratzinger, Der Geist der Liturgie (Verlag
Herder Freiburg im Breisgau, 8th edition, 2007). Bản dịch Việt ngữ: “Tinh Thần
Phụng vụ” từ bản tiếng Anh “The Spirit of Liturgy” bởi Nguyễn Luật Khoa, ofm
(Nxb. Tôn Giáo, 2007), 226.
[23] QCSL số 88.
[24] QCSL 54; 165.
[25] Ibid.
[26] QCSL 71.
[27] Xc. Joseph Ratzinger, op. sit., 229.
[28] Ibib., 227.
[29] Ibid., 227-228.
[30] QCSL 147.
[31] Xc. Joseph Ratzinger, op. sit., 231-232.
[32] QCSL 84.
[33] Xc. Joseph Ratzinger, op. sit., 230.
[34] Mane Nobiscum Domine 13.
[35] QCSL 45.
[36] Xc. Felix. M. Podimattam, ofm. cap., Liturgical
Spirituality, 30.
[37] Xc. Hướng dẫn Mục vụ Thánh nhạc (HĐGMVN - Ủy ban Thánh
nhạc, tháng 4 năm 2014 [Bản thử nghiệm]), số 188.
[38] Xc. Marie-Noelle Thabut, "Les membres de l'
assemblée", trong Joseph Gelineau, Dans vos assemblées, vol. II (Desclée,
1989), 337.
[39] Nghi thức
Phong chức số 130.
[40] Ibid., số
134-137; 162-164.
[41] Ibid., số
208-212; 236-240.; Thói quen thực hành không đúng tại Việt Nam là: cộng đoàn
thinh lặng trong khi vị chủ sự cử hành nghi thức (với lời đọc và hành động) đối
với chỉ một hai ứng viên đầu tiên, sau đó, ca đoàn hay toàn thể cộng đoàn sẽ ca
hát. Từ lúc đó, chẳng còn ai, có khi ngay cả ứng viên, có thể nghe thấy những
lời đọc của vị chủ sự nữa.
[42] QCGK 202.
[43] Piô Phan Văn Tình, CMS, “ ‘Tiếng nói’ và những khoảng
thinh lặng trong phụng vụ” trong
http://thanhcavietnam.net/forum/threads/40737-tieng-noi-va-nhung-khoang-thinh-lang-trong-phung-vu.html
[44] Phần này chủ yếu được trích dẫn từ Anthony Ruff, “The Role
of Silence in Lenten Liturgies” trong
http://www.pastoralliturgy.org/resources/0711RoleOfSilenceInLentenLiturgies.php
[45] Mother Teresa, trích trong "The Eucharist and
Silence" bởi Laurence Freeman OSB, Lecture at the School of Prayer,
Archdiocese of Melbourne (20th April 2005)
[46] Ibid.
Tác giả:
Lm. Giuse Phạm Đình Ái,sss