Bài Thuyết Trình của Đức Hổng Y Robert
Sarah Tổng Trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật các Bí Tích
9/9/2016
Hội Nghị “Sacra Liturgia UK 2016” London, Anh Quốc, 5/7/2016
HƯỚNG VỀ MỘT THỰC THI ĐÚNG ĐẮN SACROSANCTUM CONCILIUM
Kính thưa các Đức Cha, các cha, phó tế, các nam
nữ tu sỹ và anh chị em thân mến trong Chúa Kitô:
Trước hết tôi muốn cám ơn ĐHY Vincent Nicholas
vì sự đón nhận đến TGP Westminster và những lời chào mừng tốt đẹp của ngài.
Cũng vậy tôi muốn cám ơn đến Đức Cha Dominique Rey, giám mục Frejus-toulon, vì
lời mời của ngài cho tôi hiện diện với quý vị tại hội nghị Phụng Vụ Thánh
(Sacra Liturgia) quốc tế lần thứ ba và mời tôi thuyết trình vào buổi khai mạc tối
nay. Tôi chúc mừng Đức Cha về sáng kiến quốc tế để cổ võ việc nghiên cứu tầm
quan trọng của huấn luyện và cử hành phụng vụ trong đời sống và sứ vụ của Hội
Thánh.
Hôm nay tôi rất vinh hạnh được hiện diện ở đây
với tất cả quý vị. Tôi cám ơn mỗi quý vị đang hiện diện ở đây, phản ánh sự đánh
giá cao tầm quan trọng của điều mà ĐHY Ratzinger một lần đã đề cập “vấn nạn về
phụng vụ” hôm nay, vào khởi đầu thế kỷ 21. Đây là một dấu hiệu hy vọng lớn lao
cho Giáo Hội.
Dẫn nhập
Trong sứ điệp ngày 18/02/2014 cho buổi thuyết
trình kỷ niệm 50 năm hiến chế Phụng Vụ của Công đồng Vatian II, Sacrosantum
concilium, Đức Thánh Cha Phanxicô nhận xét rằng việc đánh dấu 50 năm kể từ ngày
ban hành hiến chế phải thúc đẩy chúng ta “sống lại sự dấn thân chấp nhận và thực
thi giáo huấn của hiến chế trong một sự hoàn chỉnh.” Đức Thánh Cha tiếp:
Cần phải kết hợp một quyết tâm mới đối với những
phần tử đã lãnh nhận phép rửa và những cộng đoàn Giáo Hội để tiến bước trên con
đường chỉ ra bởi các nghị phụ, trước nhiều công việc còn chưa được làm để khai
triển hiến chế Phụng Vụ Thánh. Cụ thể, tôi muốn nói đến sự dấn thân trong việc
đào tạo và những sáng kiến vững chắc và có tổ chức, đối với cả giáo dân, giáo sỹ
và những người thánh hiến.
Những lời của Đức Giáo Hoàng thật đúng. Chúng
ta phải làm nhiều nếu chúng ta ý thức được tầm nhìn của các nghị phụ công đồng
Vatican II đối với đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Chúng ta có nhiều việc phải
làm nếu hôm nay, sau 50 năm bế mạc công đồng, chúng ta phải đạt được “một sự thực
thi đúng đắn và hoàn chỉnh hiến chế về phụng vụ thánh.”
Trong bài này tôi muốn đặt trước quý vị vài nhận
định Giáo Hội Tây phương có thể tiến đến một sự thi hành Sacrosanctum Concilium
trung thành hơn như thế nào. Để được như vậy, tôi đề nghị một câu hỏi: “Các nghị
phụ công đồng Vativan II nhằm đến điều gì trong việc cải tổ phụng vụ?” Sau đó,
tôi sẽ nhận định những ý định của các nghị phụ đã được thực thi sau công đồng
như thế nào. Cuối cùng, tôi muốn trình bày với quý vị vài lời khuyên về đời sống
phụng vụ hôm nay để thực hành phụng vụ có thể phản ánh trung thành hơn những ý
định của các nghị phụ công đồng.
A. Phụng Vụ Thánh Là Gì?
Nhưng trước hết, hãy xem xét câu hỏi đầu tiên.
Đó là “Phụng vụ thánh là gì?” Bởi vì nếu chúng ta không hiểu bản chất phụng vụ
Công Giáo, như là khác biệt với những nghi lễ của các cộng đoàn Kitô khác hay
tôn giáo khác, chúng ta không thể hy vọng hiểu được hiến chế phụng vụ của Công
đồng Vatican II, hoặc để áp dụng hiến chế một cách trung thành.
Trong tông hiến Tra le sollecitudini
(22/11/1930) thánh Giáo hoàng Piô X dạy rằng “những mầu nhiệm thánh” và “cầu
nguyện công khai và trọng thể của Giáo Hội,” là phụng vụ thánh, là “nguồn trước
tiên và không thể thiếu được cho “tinh thần Kitô đích thực.” Thánh Piô đã kêu gọi
mọi người tham gia thực sự và hiệu quả vào các nghi lễ phụng vụ Giáo Hội. Như
quý vị biết, giáo huấn này và sự cổ vũ này được lặp lại bởi số 14 của hiến chế
Sacrosanctum Concilium.
Sau 25 năm sau, Đức Piô XI kêu gọi cùng một ý
tưởng trong Tông hiến Divini Cultus (20/12/1928), dạy rằng “phụng vụ thật sự là
một sự thánh, bởi đó chúng ta được nâng lên với Chúa, kết hợp với Người, tuyên
xưng đức tin và những bổn phận với Người vì những ân sủng chúng ta đã lãnh nhận
và sự trợ giúp mà chúng ta đang thiếu thốn.”
Đức Piô XII tập trung vào phụng vụ trong thông
điệp Mediator Dei (20/11/1947) trong đó ngài dạy:
Phụng vụ thánh là sự thờ phượng công khai mà Đấng
Cứu chuộc như là Đầu của Hội Thánh dâng lên Thiên Chúa Cha, cũng như là sự thờ
phượng mà cộng đoàn tín hữu dâng lên Đấng sáng lập của mình, và qua ngài đến Cha
trên trời. Tựu chung, đó là sự phờ phượng dâng hiến bởi Nhiệm Thể Chúa Kitô bao
gồm cả Đầu và chi thể (n. 20).
Ngài dạy rằng “bản chất và đối tượng của phụng
vụ thánh” là nhằm “kết hợp các linh hồn chúng ta với Chúa Kitô và thánh hóa các
linh hồn qua Đấng Cứu Thế để Chúa Kitô được tôn kính và qua Người và trong Người,
Chúa Ba Ngôi được tôn vinh.” (n. 171).
Vatican II dạy rằng qua phụng vụ “công việc cứu
độ được hoàn thành” (Sacrosanctum Concilium, n.2) và phụng vụ:
được xem như việc thực thi chức vụ tư tế của
chính Chúa Giêsu Kitô, trong đó công cuộc thánh hóa con người được biểu tượng
nhờ những dấu chỉ khả giác và được thể hiện hữu hiệu cách khác nhau theo từng dấu
chỉ, và trong đó việc phụng tự công cộng vẹn toàn cũng được thực thi nhờ Nhiệm
Thể Chúa Kitô, nghĩa là gồm cả Ðầu cùng các chi thể của Người.
Do đó, vì là công việc của Chúa Kitô tư tế và
Thân Thể của Người là Giáo Hội, nên mọi việc cử hành phụng vụ đều là hành vi
chí thánh, và không một hành vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả
về danh hiệu lẫn đẳng cấp.
Từ đó Sacrosanctum Concilium dạy rằng phụng vụ:
là tột đỉnh qui hướng mọi hoạt động của Giáo Hội,
đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội. Thực vậy, các công
lao khó nhọc trong việc tông đồ đều nhằm làm cho mọi người, nhờ đức tin và phép
rửa, trở nên con cái Thiên Chúa, cùng nhau qui tụ ngợi khen Chúa giữa lòng Giáo
Hội, thông phần Hiến Tế và ăn tiệc của Chúa.
Có thể tiếp tục trình bày giáo huấn về bản chất
của phụng vụ thánh với những giáo huấn của các giáo hoàng sau công đồng và của
Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo. Nhưng bây giờ chúng ta hãy dừng lại ở công đồng.
Bởi vì tôi nghĩ, rất rõ ràng, Giáo Hội dạy rằng phụng vụ Công Giáo là nơi ưu
tiên duy nhất của hành động cứu chuộc của Chúa Kitô trong thế giới hôm nay của
chúng ta, bởi vì nhờ việc tham dự thật sự vào đó mà chúng ta lãnh nhận ân sủng
và sức mạnh của Chúa. Đó là rất cần thiết cho sự bền đỗ và tiến triển trong đời
sống Kitô hữu. Đó là nơi được Thiên Chúa thiết lập mà chúng ta đến để chu toàn
bổn phận dâng hy lễ lên Thiên Chúa, dâng Hy Lễ Duy Nhất Đích Thật. Đó là nơi
chúng ta ý thức được nhu cầu thâm sâu thờ phượng Thiên Chúa toàn năng. Phụng vụ
Công Giáo là cái gì đó thánh thiện, cái gì đó thánh thiện bởi bản chất. Phụng vụ
Công Giáo không phải chỉ là sự tụ hợp đơn thuần những con người.
Tôi muốn nhấn mạnh thực tại rất quan trọng ở
đây: Thiên Chúa, chứ không phải là con người, là trung tâm của phụng vụ Công
Giáo. Chúng ta thờ phượng Chúa. Phụng vụ không phải là về quý vị và tôi; đó
không phải là nơi chúng ta cử hành căn cước riêng của chúng ta hoặc những thành
tựu hoặc tuyên dương hay cổ võ văn hoá và những tập tục tôn giáo riêng của
chúng ta. Phụng vụ trước tiên và trên hết là về Thiên Chúa và những gì Chúa đã
làm cho chúng ta. Phụng vụ bởi đó chúng ta có thể dâng lên Thiên Chúa sự thờ
phượng đích thực theo Giao ước mới thiết lập bởi Chúa Kitô. Bởi đó, khi đi vào
những đòi hỏi của những nghi lễ đã phát triển trong truyền thống Giáo Hội,
chúng ta được nhận lấy căn cước và ý nghĩa đích thực như là những người con cái
nam nữ của Chúa Cha.
Thật là thiết yếu cho chúng ta hiểu được đặc
tính này của phụng vụ Công Giáo bởi vì trong những thập niên gần đây chúng ta
thấy nhiều cử hành phụng vụ mà trong đó dân chúng, những phẩm chất và những
thành đạt của con người chiếm ưu thế, gần như đến một sự gạt bỏ Thiên Chúa sang
một bên. Như ĐHY Ratzinger đã viết: “Nếu phụng vụ diễn ra trên hết như là một
chuỗi hoạt động của chúng ta, thì điều thiết yếu bị lãng quên: Thiên Chúa. Bởi
vì phụng vụ không phải về chúng ta, nhưng về Thiên Chúa. Quên Thiên Chúa là một
mối nguy hiểm nguy cấp cho thế hệ chúng ta.” (Joseph Ratzinger, Theology of the
Liturgy, Collected Works vol. 11, Ignatius Press, San Francisco 2014, p. 593).
Chúng ta cần phải diễn tả rõ ràng về bản chất của
sự thờ phượng Công Giáo nếu chúng ta muốn đọc hiến chế phụng vụ một cách đúng
và nếu chúng ta muốn áp dụng nó một cách trung thành. Bởi vì các nghị phụ công
đồng được huấn luyện bởi những giáo huấn phổ quát của các giáo hoàng thế kỷ 20
mà tôi đã trích dẫn. Thánh Gioan XXIII không triệu tập công đồng để hạ giá những
giáo huấn này mà chính ngài đã cổ võ. Các nghị phụ đã không đến Vatican vào
tháng 10, 1962 với ý định chế ra một phụng vụ đặt con người làm trung tâm.
Nhưng ĐGH và các nghị phụ đã tìm kiếm những cách thức trong đó những Kitô hữu
có thể kín múc sâu hơn “nguồn mạch tối cần thiết và thiết yếu” để đặt được
“tinh thần Kitô hữu đích thực” cho ơn cứu độ của họ và cho tất cả mọi người
trong thời đại đó.
B. Các Nghị Phụ Công Đồng Vatican II Đã Có Ý Định
Gì?
Chúng ta cần tìm hiểu ý định của các nghị phụ
Vatican II chi tiết hơn, đặc biệt nếu chúng ta muốn trung thành với ý định của
họ hôm nay. Họ đã có ý định gì qua hiến chế phụng vụ?
Chúng ta hãy bắt đầu với số đầu tiên của
Sacrosanctum Concilium:
Thánh Công Đồng nhận thấy mình có bổn phận đặc
biệt phải lo canh tân và phát huy Phụng vụ, để giúp cho đời sống Kitô hữu nơi
các tín hữu ngày càng tăng triển; để thích ứng cách tốt đẹp hơn những định chế
có thể thay đổi cho hợp với những nhu cầu của thời đại hôm nay, đồng thời cũng
để phát huy những gì có thể đem lại sự hợp nhất cho tất cả những ai đã tin theo
Chúa Kitô, và củng cố những gì hỗ trợ cho việc mời gọi mọi người vào lòng Giáo
Hội.
Chúng ta hãy nhớ rằng khi công đồng được khai mạc
cải cách phụng vụ đã trở nên nổi bật ở thập niên trước nên các nghị phụ rất
quen thuộc với những cải cách này. Họ không đánh giá những vấn đề một cách lý
thuyết không có ngữ cảnh. Họ kỳ vọng tiếp tục công việc đã bắt đầu và xem xét
những nguyên tắc cải tổ phụng vụ mức độ cao hơn và căn bản hơn, như được Thánh
Gioan XXIII đề cập trong Motu proprio Rubricarum Instructum 25/07/1960.
Vì thế, số 1 của hiến chế đưa ra 4 lý do để tiến
hành cải tổ phụng vụ. Thứ nhất, “để giúp cho đời sống Kitô hữu nơi các tín hữu
ngày càng tăng triển” là mối ưu tư của mọi mục tử vào mọi thời đại. Thứ hai, “để
thích ứng cách tốt đẹp hơn những định chế có thể thay đổi cho hợp với những nhu
cầu của thời đại hôm nay” có thể làm chúng ta suy nghĩ thêm nhất là vào ngữ cảnh
của những năm 1960. Nhưng thật sự, nếu đọc hiến chế với sự giải nghĩa liên tục
mà hầu hết các nghị phụ có ý định, điều đó có nghĩa rằng họ muốn sự phát triển
phụng vụ bấy lâu để có thể tăng cường đời sống Kitô hữu. Họ không muốn thay đổi
chỉ vì thay đổi.
Vì thế, lý do thứ ba, “để phát huy những gì có
thể đem lại sự hợp nhất cho tất cả những ai đã tin theo Chúa Kitô” cũng làm
chúng ta dừng lại để xem các nghị phụ muốn dùng phụng vụ để làm phương tiện đại
kết, làm cho nó thành một phương tiện cho một mục đích. Có phải vậy không? Chắc
chắn, sau công đồng, nhiều người đã cố gắng làm vậy. Nhưng các nghị phụ đã thấy
điều này là không thể. Hiệp nhất trong thờ phượng trước bàn thờ tế lễ là mục
tiêu mong muốn của mọi hoạt động đại kết. Phụng vụ không phải là phương tiện để
cổ võ thiện ý hay hợp tác những việc tông đồ. Không, ở đây, các nghị phụ nói rằng
họ tin rằng cải tổ phụng vụ có thể trở nên một phần của một công trình có thể
giúp dân chúng đạt đến sự hiệp nhất Công Giáo, nếu không có sự hiệp nhất đó sự
hiệp nhất trọn vẹn trong thờ phượng là không khả thể.
Cùng một động lực trong lý do thứ tư của việc cải
tổ phụng vụ: “để củng cố những gì hỗ trợ cho việc mời gọi mọi người vào lòng
Giáo Hội.” Ở đây chúng ta tiến xa hơn sự hiệp nhất với anh chị em Kitô hữu mà
đi đến “cả nhân loại.” Sứ vụ của Giáo Hội là đi đến mọi người nam nữ. Các nghị
phụ tin và hy vọng rằng một sự tham gia tích cực trong phụng vụ có thể đẩy mạnh
hoạt động truyền giáo của Giáo Hội.
Tôi đưa ra ví dụ. Trước công đồng nhiều năm,
trong các nước truyền giáo và trong cả các nước phát triển, có nhiều thảo luận
về việc dùng các ngôn ngữ địa phương trong phụng vụ, nhất là cho những bài đọc
từ kinh thánh và cho cả nhiều hành vi trong phần thứ nhất của thánh lễ (mà bây
giờ chúng ta gọi là Phụng Vụ Lời Chúa) và cho phần thánh nhạc. Tòa Thánh đã cho
phép rộng rãi dùng ngôn ngữ địa phương để cử hành nhiều bí tích. Đây là ngữ cảnh
mà các nghị phụ công đồng nói đến những khả thể hiệu năng tích cực về đại kết
hay truyền giáo của việc cải cách phụng vụ. Đúng là ngôn ngữ địa phương có một
chỗ tích cực trong phụng vụ. Các nghị phụ đang tìm kiếm điều đó, mà không cho
phép việc tin lành hóa phụng vụ thánh hay đồng thuận một sự hội nhập văn hóa giả
tạo.
Tôi là một người Phi châu. Tôi xin nói rõ rằng:
phụng vụ không phải là chỗ cổ võ nền văn hóa của tôi. Nhưng đó là chỗ văn hóa của
tôi được rửa tội, nơi văn hóa của tôi được nâng lên đến thực tại thiêng liêng.
Qua phụng vụ Giáo Hội (mà các nhà truyền giáo đã mang đi khắp thế giới), Chúa
nói với chúng ta. Ngài biến đổi chúng ta và làm chúng ta được tham dự vào sự sống
thần linh của Người. Khi một người trở nên Kitô hữu, khi một ai đi vào sự hiệp
thông hoàn toàn với Giáo Hội Công Giáo, họ lãnh nhận cái gì đó, mà nó biến đổi
họ. Tất nhiên, các nền văn hóa và những kitô hữu mang những tài năng của họ vào
Giáo Hội với một sự khiêm nhường và Giáo Hội trong sự khôn ngoan hiền mẫu sử dụng
chúng khi thấy rằng chúng phù hợp. Phụng vụ của các địa hạt Anh Giáo giờ đây trở
nên hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo là một ví dụ sống động.
Thế nhưng, cần phải minh bạch: chúng ta nói muốn
nói gì khi dùng từ hội nhập văn hóa. Nếu chúng ta thật sự hiểu ý nghĩa của từ
này như một sự hiểu biết trong mầu nhiệm của Chúa Kitô thì chúng ta có được
chìa khóa để hiểu hội nhập văn hóa. Đó không phải là một yêu cầu hay đòi hỏi một
pháp lý chính thức để châu phi hóa, châu mỹ la tinh hóa hay á châu hóa thay vào
tây phương hóa của Kitô giáo. Hội nhập văn hóa vừa không phải là tuyên thánh
cho một nền văn hóa địa phương hay một hình thức trong văn hóa này và làm cho
nó trở nên tuyệt đối. Hội nhập văn hóa là một lan tỏa hay hiển linh của Chúa
trong sự sâu thẳm của sự hiện hữu chúng ta. Sự lan tỏa của Chúa trong cuộc sống
chúng ta làm nên sự gián đoạn, một sự từ khước mở ra cho một con đường theo những
hướng mới, tạo nên những yếu tố của một nền văn hóa mới, làm phương tiện của
Tin Mừng cho con người và phẩm giá con người như trường hợp Con Thiên Chúa. Khi
Tin Mừng đi vào đời sống chúng ta, nó làm gián đoạn và biến đổi cuộc sống, với
một hướng đi mới, những chiều hướng mới về luân lý và đạo đức. Nó lái trái tim
con người về Thiên Chúa và tha nhân để yêu mến và phục vụ truyệt đối, không gò
bó. Khi Chúa Giêsu đi vào một cuộc đời con người, ngài biến đổi nó và thần linh
hóa nó với ánh sáng rạng ngời của thánh nhan, như Thánh Phaolô trên đường đi
Đamát.
Như bởi mầu nhiệm Nhập Thể, Lời Chúa trở nên
con người trong mọi sự, trừ tội lỗi (Heb 4:15), thì Tin Mừng mặc lấy mọi giá trị
con người và văn hóa, nhưng từ chối chấp nhận đi vào cấu trúc tội lỗi. Có nghĩa
rằng càng có nhiều tội lỗi cá nhân và tập thể trong cộng đoàn Giáo Hội hay xã hội,
thì càng có ít khoảng trống dành cho sự hội nhập văn hóa. Ngược lại, một cộng
đoàn Kitô càng tỏa sáng sự thánh thiện và giá trị Tin Mừng, thì càng có nhiều
cơ hội hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô. Sự hội nhập văn hóa của đức tin là một
thách đố về sự thánh hóa. Nó sáng tỏ mức độ thánh thiện và cấp độ thấm sâu của
Tin Mừng và đức tin vào trong một cộng đoàn Kitô. Hội nhập văn hóa, vì thế,
không phải là huyền thoại tôn giáo.
Hội nhập văn hóa không thiết yếu thành tựu
trong việc dùng những ngôn ngữ địa phương, khí cụ và âm nhạc Mỹ latinh, vũ điệu
Châu Phi hay những nghi thức và biểu tượng Á châu, Phi châu trong phụng vụ và
bí tích. Hội nhập văn hóa là Chúa xuống thế vào trong cuộc sống, trong những
hành động luân lý, trong văn hóa và phong tục con người để giải thoát họ khỏi tội
và dẫn đưa họ đến sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chắc chắn, đức tin cần có một
văn hóa để có thể được chuyển tải. Vì thế, Thánh Gioan Phaolô II khẳng định rằng
một đức tin mà không có văn hóa thì đó là đức tin chết: “Hội nhập văn hóa được
áp dụng thích hợp cần phải được hướng dẫn bởi 2 nguyên tắc: phù hợp với Tin Mừng
và hiệp thông với Giáo Hội toàn cầu.” (Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế, n. 54).
Tôi đã dành thời gian để nhìn lại số 1 của hiến
chế bởi vì nó rất quan trọng mà nếu chúng ta đọc Sacrosanctum Concilium trong
ngữ cảnh của nó như một văn kiện chủ ý cổ võ một sự phát triển hợp pháp (như sự
gia tăng sử dụng ngôn ngữ địa phương) trong sự liên tục với bản chất, giáo huấn
và sứ vụ của Giáo Hội trong thế giới hiện đại. Chúng ta cần đọc trong đó những
điều không được nói ra. Các nghị phụ không có ý định một cuộc cách mạng, nhưng
một sự tiến hóa, một cải cách chừng mực.
Ý định của các nghị phụ rất rõ trong những đoạn
then chốt. Số 14 là một trong những đoạn quan trọng nhất của hiến chế:
Mẹ Giáo Hội tha thiết ước mong toàn thể các tín
hữu được hướng dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn ý thức và
linh động. Việc tham dự ấy do chính bản tính Phụng Vụ đòi hỏi; lại nữa, nhờ
phép Rửa Tội, việc tham dự Phụng Vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân
Kitô giáo, "là giòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là dân
thánh, là con dân được tuyển chọn" (1P 2,9; x. 2,4-5).
Trong việc canh tân và cổ võ Phụng Vụ Thánh, cần
phải hết sức để tâm đến việc tham dự trọn vẹn và linh động của toàn dân: vì Phụng
Vụ là nguồn mạch trước tiên và thiết yếu, từ đó các tín hữu phải múc lấy tinh
thần Kitô giáo đích thực. Vì thế, nhờ việc huấn luyện cần thiết, các mục tử
chăn dắt các linh hồn phải nhiệt tâm tìm đạt được điều đó trong mọi hoạt động
phụng vụ.
Tuy nhiên, sẽ không có một tia hy vọng nào đạt
tới kết quả đó, nếu trước tiên chính những mục tử chăn dắt các linh hồn không
thấm nhuần sâu rộng tinh thần và năng lực của Phụng Vụ cũng như không thành những
bậc thầy trong lãnh vực ấy. Vì vậy, rất cần phải chú trọng đến việc huấn luyện
Phụng Vụ cho hàng giáo sĩ.
Ở đây, chúng ta nghe âm vang của các giáo hoàng
tiền công đồng, nhắm tới một sự tham gia thật sự hiệu quả trong phụng vụ và để
có được như vậy, họ nhấn mạnh rằng sự đào tạo về phụng vụ là cấp thiết. Các nghị
phụ diễn tả một thực tại ở đây mà nó đã bị lãng quên sau đó. Chúng ta hãy nghe
lại lần nữa những lời của công đồng và cân nhắc tầm quan trọng của chúng: “Sẽ
không có một tia hy vọng nào đạt tới kết quả đó, nếu trước tiên chính những mục
tử chăn dắt các linh hồn không thấm nhuần sâu rộng tinh thần và năng lực của Phụng
Vụ cũng như không thành những bậc thầy trong lãnh vực ấy.”
Mở đầu số 21, chúng ta nghe ý định các nghị phụ
rất rõ: “Giáo Hội hiền mẫu, vì muốn cho dân Kitô giáo thâu đạt được dồi dào những
ân sủng trong Phụng Vụ Thánh cách chắc chắn hơn, nên ước mong nhiệt thành đảm
trách việc canh tân toàn diện Phụng Vụ. Bởi vì, Phụng Vụ gồm phần bất biến, do
Thiên Chúa thiết lập, và những phần có thể thay đổi. Phần này có thể hoặc cũng
phải sửa đổi theo dòng thời gian, nếu tình cờ có len lỏi vào những yếu tố rất
ít đáp ứng hoặc ít phù hợp với bản tính thâm sâu của Phụng Vụ.” “Ut populus
Christianus in sacra Liturgia abundantiam gratiarum securius assequature..” Khi
chúng ta học Latin, chúng ta biết rằng “ut” diễn tả một mục đích rõ ràng trong
mệnh đề kế tiếp. Các nghị phụ có ý định gì? “Toàn thể các tín hữu được hướng dẫn
tham dự các việc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn ý thức và linh động.” Làm thế
nào để đạt được điều đó? Bởi chú tâm cẩn thận đến một sự phục hồi chung của
chính phụng vụ (ipsius Liturgiae generalem instaurationem sedulo cuare cupit”).
Hãy chú ý: các nghị phụ nói đến một “sự phục hồi” không nói đến một cuộc cách mạng.
Một trong những diễn tả rõ ràng và sinh động nhất
ý định của các nghị phụ nằm ở khởi đầu chương 2 của hiến chế, bàn về mầu nhiệm
bí tích Thánh Thể. Trong số 48 chúng ta đọc:
Vì thế, Giáo Hội hằng bận tâm lo cho các Kitô hữu
tham dự vào mầu nhiệm đức tin ấy, không như những khách bàng quan, câm lặng,
nhưng là những người thấu đáo mầu nhiệm đó nhờ các nghi lễ và kinh nguyện: họ
tham dự hoạt động thánh một cách ý thức, thành kính và linh động: họ được đào tạo
bởi lời Chúa; được bổ sức nơi bàn tiệc Mình Chúa; họ tạ ơn Chúa; và trong khi
dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà còn liên kết với ngài, họ
tập dâng chính mình; và ngày qua ngày, nhờ Chúa Kitô Trung Gian, họ được tiêu
hao trong tình kết liên với Thiên Chúa và với nhau, để cuối cùng Thiên Chúa trở
nên mọi sự trong mọi người.
Anh chị em thân mến, đó là những gì các nghị phụ
nhằm tới. Đúng, họ thảo luận và bỏ phiếu để đạt tới những ý định của họ. Nhưng
chúng ta biết rõ những cải cách nghi thức đề ra trong hiến chế như phục hồi Lời
nguyện chung trong Thánh lễ (n. 53), nới rộng việc đồng tế (n. 57) hay những
quy định như đơn giản hóa trong số 34 và 50. Tất cả đều nằm trong ý định cơ bản
của các nghị phụ mà tôi vừa trình bày những nét chính. Những điều đó là phương
tiện đến một mục đích và mục đích mà chúng ta cần phải đạt tới.
Nếu chúng ta tiến đến một việc áp dụng đích thực
của Sacrosanctum Concilium, thì đó là những mục đích, những thành tựu phải được
đặt trước mắt chúng ta trước hết và trên hết. Nếu chúng ta nghiên cứu những điều
đó với cái nhìn mới mẻ và với những lợi ích trải nghiệm của 5 thập niên vừa
qua, chúng ta sẽ nhìn những cải tổ nghi thức cụ thể và những quy định phụng vụ
trong một chiều hướng khác. Nếu hôm nay, “để giúp cho đời sống Kitô hữu nơi các
tín hữu ngày càng tăng triển” và để “hỗ trợ cho việc mời gọi nhân loại vào lòng
Giáo Hội,” những nhu cầu này cần phải được xem xét lại và chúng ta xin Chúa ban
cho chúng ta lòng mến, khiêm nhường, và sự khôn ngoan để làm việc đó.
C. Điều Gì Đã Xảy Ra Sau Khi Công Bố
Sacrosanctum Concilium?
Tôi đề nghị đọc lại hiến chế và xem xét sự cải
tổ sau khi nó được công bố bởi vì tôi không nghĩ rằng nếu hôm nay chúng ta đọc
lại số đầu của hiến chế Sacrosanctum Concilium và chúng ta hài lòng vì chúng ta
đã đạt được những mục đích của hiến chế. Anh chị em thân mến, đâu là những tín
hữu mà các nghị phụ nói tới? Hôm nay nhiều tín hữu đã không còn là tín hữu: họ
không đến với phụng vụ nữa. Dùng lời của thánh Gioan Phaolô: quên lãng Thiên
Chúa dẫn đến bỏ rơi con người. Vì thế không lạ gì trong ngữ cảnh này một cơ may
lớn mở ra cho một sự phát triển vô giới hạn cho thuyết hư vô (nihilism) trong
triết học, chủ nghĩa tương đối trong luân lý, và chủ nghĩa thực dụng – và ngay
cả một chủ nghĩa khoái lạc tục hóa – trong cuộc sống hàng ngày. Văn hóa châu Âu
tạo ra một cảm giác là nơi dân chúng có một sự “chối đạo thầm lặng,” họ có tất
cả những gì họ cần và sống như Chúa không hiện hữu” (Tông huấn, Giáo Hội tại
Châu Âu, n. 9). Đâu là sự hiệp nhất mà các nghị phụ hy vọng đạt được? Chúng ta
chưa đạt tới. Chúng ta đã tiến triển làm cho nhân loại được trở về trong lòng
Giáo Hội chưa? Tôi không nghĩ như vậy. Và thế nhưng, chúng ta đã làm nhiều
trong phụng vụ!
Trong 47 năm linh mục và sau 36 năm sứ vụ giám
mục tôi có thể làm chứng rằng nhiều cộng đoàn Công Giáo và cá nhân sống và cầu
nguyện phụng vụ cải tổ sau công đồng với sùng mộ và niềm vui, kín múc nhiều, nếu
không phải từ tất cả, từ những thiện ích mà các nghị phụ đã mong muốn. Đây là kết
quả lớn của công đồng. Nhưng từ kinh nghiệm của mình, nhất là trong sự phục vụ
là tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật các bí tích, tôi biết có nhiều lèo lái phụng
vụ trong cả Giáo Hội hôm nay và có nhiều trường hợp có thể được cải tiến hơn để
những mục tiêu của công đồng có thể đạt tới. Trước khi suy nghĩ về những cải tiến
khả thể, chúng ta hãy xem những gì đã xảy ra sau khi hiến chế phụng vụ được
công bố.
Vào thế kỷ 16, Đức Giáo Hoàng trao phó canh tân
phụng vụ được công đồng Trentô mong mỏi cho một ủy ban đặc biệt và ủy ban này
chuẩn bị sửa lại những sách phụng vụ. Những sách này còn được công bố bởi Đức
Giáo Hoàng. Đó là tiến trình thông thường và được Đức Phaolô VI làm như vậy năm
1964 khi thành lập Ủy ban để áp dụng hiến chế về phụng vụ. Chúng ta biết nhiều
về ủy ban này bởi nhật ký phát hành của tổng thư ký ủy ban, TGM Annibale
Bugnini.
Công việc của ủy ban này áp dụng Hiến chế chắc
chắn ở dưới những ảnh hưởng, ý tưởng và những đề nghị mới mà không nằm trong
Sacrosanctum Concilium. Ví dụ, đúng là công đồng không đưa ra hướng dẫn về những
Kinh nguyện thánh thể mới, nhưng những ý tưởng này được phát sinh và được chấp
nhận và những kinh nguyện này được hợp thức ban hành bởi Đức Giáo Hoàng. Đúng
là như TGM Bugnini nói rõ, nhiều kinh nguyện và nghi thức được tạo ra và sửa chữa
theo tinh thần của thời đại, đặc biệt theo nhậy cảm đại kết. Liệu hiến chế dù
nhiều hay ít đã được áp dụng, hoặc những gì được làm để đạt tới mục tiêu của hiến
chế, hoặc ủy ban đã ngăn cản những mục tiêu đó: đây là những vấn đề cần được
nghiên cứu. Tôi mừng rằng hôm nay những vấn đề này đang được các học giả xem
xét cẩn thận. Thế nhưng, có một thực tại quan trọng là chân phước Phaolô VI xét
rằng những cải tổ đưa ra bởi ủy ban là thích hợp và đã ban hành chúng. Với quyền
tông tòa của ngài, ngài thiết lập những luật và bảo đảm những cải tổ là hợp
pháp và giá trị.
Nhưng khi những công việc cải tổ chính thức được
thi hành vài sai lạc nghiêm trọng trong việc giải thích về phụng vụ đã nổi lên
và cắm rễ vào nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Những lạm dụng phụng vụ này nổi
lên bởi vì những hiểu biết sai lạc công đồng và kết quả tạo ra là cử hành phụng
vụ trở nên chủ quan và tập trung vào ý muốn cá nhân cộng đoàn hơn là tập trung
vào sự thờ phượng Thiên Chúa cao cả. Vị tiền nhiệm của tôi, tổng trưởng bộ phụng
tự ĐHY Arinze, một lần gọi thứ này là “làm lễ tự mình.” Thánh Gioan Phaolô II
cũng nhận thấy cần thiết phải viết những dòng sau đây trong thông điệp Bí tích
Thánh Thể của Giáo Hội (17/04/2003):
Một sự tăng trưởng nội tâm của cộng đoàn Kitô hữu
đã đáp lại mối quan tâm muốn loan báo của Huấn Quyền. Chắc hẳn việc canh tân Phụng
Vụ của Công Đồng đã mang đến nhiều thiện ích về phương diện tham dự ý thức hơn,
tích cực và hiệu năng hơn của các tín hữu vào Hy Tế trên bàn thờ. Đàng khác,
trong nhiều địa phương, việc tôn thờ Thánh Thể có một chỗ đứng quan trọng hằng
ngày và trở nên nguồn suối vô tận của sự thánh thiện. Việc tham dự sốt sắng của
tín hữu vào những cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa vào dịp lễ trọng Mình và Máu
Thánh Chúa là một hồng ân Chúa ban, làm cho những ai tham dự mỗi năm đều tràn đầy
hân hoan. Người ta có thể nêu lên nơi đây nhiều dấu hiệu tích cực khác về niềm
tin và lòng yêu mến Thánh Thể.
Tiếc thay, bên cạnh những ánh sáng nầy, lại
không thiếu những bóng tối. Quả vậy, ở nhiều nơi, việc tôn thờ Thánh Thể gần
như hoàn toàn bị bỏ rơi. Thêm vào đó, do hoàn cảnh nầy hay hoàn cảnh nọ trong
Giáo Hội, nhiều lạm dụng đã làm lu mờ đức tin ngay chính và giáo thuyết Công
Giáo liên can đến Bí Tích kỳ diệu nầy. Đôi khi cũng nảy sinh một cách hiểu rất
giản lược về Mầu Nhiệm Thánh Thể. Bỏ đi giá trị hy tế của nó, Thánh Thể chỉ có
ý nghĩa và giá trị của một cuộc gặp gỡ thân hữu trong một bữa tiệc thông thường
mà thôi. Hơn nữa, sự cần thiết của chức tư tế thừa tác, dựa trên việc kế nhiệm
các tông đồ, đôi khi cũng bị lu mờ và tính chất bí tích của Thánh Thể đã bị giản
lược duy vào hiệu năng loan báo. Từ đó, nơi nầy hay nơi khác, nhiều sáng kiến đại
kết, dù rất thiện chí, đã rơi vào những việc thực hành Thánh Thể đi ngược lại với
kỷ luật trong đó Giáo Hội diễn tả niềm tin của mình. Làm sao không đau đớn sâu
xa trước những điều nầy? Thánh Thể là một hồng ân quá lớn lao đến nỗi không thể
chấp nhận sự hàm hồ và giản lược nào.
Tôi hy vọng thông điệp nầy có thể góp phần để
đánh tan một cách hữu hiệu những bóng tối trên phương diện giáo thuyết và những
cách thực hành không thể chấp nhận được, hầu Bí Tích Thánh Thể tiếp tục chói
sáng trong tất cả vẻ huy hoàng của mầu nhiệm (n. 10).
Vừa có những thực hành lạm dụng, vừa có những
phản ứng ngược lại với những cải cách chính thức được ban hành. Một số người nhận
thấy đã đi quá xa và quá nhanh chóng hoặc ngay cả nghi ngờ về phương diện tín
lý những cải cách chính thức. Tranh cãi xuất hiện năm 1969 với bức thư gửi từ
ĐHY Ottaviani và Bacci đến Đức Phaolô VI nói lên những lo ngại nghiêm trọng.
Sau đó Đức Giáo Hoàng đã quyết đoán là thích hợp để có những chính xác về tín
lý. Những vấn nạn này cũng cần được nghiên cứu cẩn thận.
Nhưng có một thực tại mục vụ ở đây: vì lý do
chính đáng hay không, một số người đã không thể hay không muốn tham dự vào những
nghi thức được cải tổ. Họ xa lánh hay chỉ tham dự vào những nghi thức chưa cải
tổ mà họ có thể tìm được, ngay cả khi việc cử hành này không được phép. Bởi đó,
phụng vụ trở thành sự diễn tả của chia rẽ trong Giáo Hội, thay vì hiệp nhất
Giáo Hội. Công đồng không có ý định rằng phụng vụ chia rẽ chúng ta! Thánh Gioan
Phaolô II đã làm để chữa lành những chia rẽ, trợ giúp bởi ĐHY Ratzinger, sau là
ĐGH Bênêđictô XVI cố gắng làm những điều cần thiết để giải hòa bên trong Giáo Hội
bởi thiết lập trong Motu Proprio Summorum Pntificum (7/7/2007) cho phép không hạn
chế những hình thức cổ của nghi lễ Roma cho những cá nhân hay nhóm mà họ muốn
kín múc nơi sự sung túc của nghi lễ này. Trong sự quan phòng của Chúa, giờ đây
chúng ta có thể có sự hiệp nhất Công Giáo khi tôn trọng và hân hoan trong sự đa
dạng hợp pháp của những thực hành nghi thức.
Cuối cùng, tôi muốn nhận định rằng trong những
cải tổ và dịch thuật sau công đồng (và chúng ta thấy vài những việc này đã được
làm quá nhanh chóng, có nghĩa là hôm nay chúng ta phải sửa đổi lại để cho trung
thành với bản Latin chính gốc), có thể đã không chú ý đủ để những gì mà các nghị
phụ cho rằng cần thiết cho sự tham gia tích cực trong phụng vụ mà các ngài mong
muốn có thể đạt tới: các giáo sỹ “thấm nhuần sâu rộng tinh thần và năng lực của
Phụng Vụ.” Chúng ta biết một tòa nhà với nền móng yếu sẽ có nguy cơ hư hại hoặc
sụp đổ.
Chúng ta có thể xây lên một phụng vụ mới, hiện
đại trong ngôn ngữ địa phương, nhưng nếu chúng ta không đặt trên một nền móng
đúng đắn, nếu giáo sỹ và chủng sinh không thấm nhuần tinh thần và năng lực của
phụng vụ như công đồng đòi hỏi, thì họ không thể đào tạo dân chúng được trao
phó cho họ. Chúng ta cần xem lời dạy của công đồng một cách nghiêm túc: sẽ là
vô vọng đối với một canh tân phụng vụ mà không có một sự đào tạo phụng vụ đầy đủ.
Không có một đào tạo thiết yếu cho giáo sỹ có thể làm nguy hại đức tin về mầu
nhiệm Thánh Thể của giáo dân.
Tôi không muốn bị đánh giá là người quá bi
quan, và tôi nói lại: tôi lập lại là có nhiều tín hữu nam nữ, giáo sỹ và tu sỹ
đã nhận được từ phụng vụ cải tổ sau công đồng những lợi ích thiêng liêng và hoa
trái tông đồ, và chúng ta cám ơn Chúa vì điều đó. Nhưng từ sự phân tích ngắn của
tôi, tôi nghĩ quý vị sẽ đồng ý rằng chúng ta có thể làm tốt hơn để phụng vụ
thánh thật sự trở nên nguồn và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ của Giáo Hội bây
giờ, đầu thế kỷ 21, như các nghị phụ đã rất mong muốn.
Tuy nhiên, đây là điều Đức Phanxicô đề nghị
chúng ta: “Cần phải kết hợp một sẵn sàng mới để tiến bước trên con đường chỉ ra
bởi các nghị phụ công đồng, vì còn nhiều việc phải làm để áp dụng đúng và hoàn
chỉnh hiến chế về phụng vụ thánh đối với những người đã được rửa tội và các cộng
đoàn Giáo Hội. Tôi nhắm tới, đặc biệt, sự dấn thân trong việc đào tạo và sáng
kiến vững chắc và có hệ thống về phụng vụ cho cả giáo dân và giáo sỹ.”
D. Chúng Ta Sẽ Tiến Thế Nào Đến Một Sự Áp Dụng
Đúng Sacrosanctum Concilium Hôm Nay?
Theo những ý muốn của các nghị phụ và những bối
cảnh khác nhau mà chúng ta đã thấy xuất hiện sau công đồng, tôi muốn trình bày
một vài nhận định thực hành để làm thế nào thực thi Sacrosanctum Concilium
trung thành hơn hôm nay. Dù tôi đang phục vụ là Tổng trưởng bộ phụng tự, tôi
đưa ra những nhận định này trong một sự khiêm nhường như là một linh mục, một
giám mục với một hy vọng rằng những nhận định này có thể thúc đẩy một suy niệm
và nghiên cứu thấu đáo, và những thực hành phụng vụ tốt đẹp trong cả Giáo Hội.
Tôi sẽ không làm quý vị ngạc nhiên nếu tôi nói
trước tiên rằng tất cả chúng ta cần phải xét lại chất lượng và chiều sâu của việc
đào tạo phụng vụ, chúng ta thấm nhuần tinh thần và hiệu năng của phụng vụ như
thế nào đến giáo sỹ và giáo dân. Quá thường xuyên, chúng ta giả sử rằng các ứng
viên của chức thánh linh mục và phó tế vĩnh viễn “biết” đủ về phụng vụ. Nhưng
công đồng không nhấn mạnh đến trình độ hiểu biết, tất nhiên, mặc dầu hiến chế
nói đến tầm quan trọng của việc học phụng vụ (nn. 15-17). Không, đào tạo phụng
vụ là trước tiên và cơ bản là chìm đắm trong phụng vụ, trong mầu nhiệm sâu thẳm
của Chúa, Chúa Cha yêu thương. Đó là vấn đề sống phụng vụ trong sự phong phú của
nó, để uống từ mạch sâu của nó, chúng ta luôn có được sự khao khát về hấp dẫn,
trật tự, vẻ đẹp, im lặng, chiêm niệm, tôn vinh, thờ lạy của phụng vụ và khả
năng của nó nối kết chúng ta mật thiết với Đấng hoạt động trong và qua các nghi
thức thánh của Giáo Hội.
Đó là tại sao những ai trong ‘đào tạo’ về mục vụ
cần phải sống phụng vụ một cách đầy đủ như trong các chủng viện và cơ sở huấn
luyện. Ứng viên của phó tế vĩnh viễn cần sống trong đời sống phụng vụ trong thời
gian lâu dài. Và tôi muốn nói thêm, việc cử hành hoàn chỉnh và phong phú nghi
thức cổ của Lễ điển Roma, phải là một phần quan trọng của đào tạo phụng vụ cho
giáo sỹ, vì làm sao chúng ta bắt đầu và hiểu hay cử hành các nghi thức đã được
canh tân với một giải nghĩa của sự liên tục nếu chúng ta chưa bao giờ kinh nghiệm
vẻ đẹp của truyền thống phụng vụ mà các nghị phụ công đồng chính họ đã biết và
truyền thống đã sản sinh ra biết bao vị thánh qua các thế kỷ? Một sự khôn ngoan
mở ra cho mầu nhiệm của Giáo Hội và sự phong phú, truyền thống qua các thế kỷ,
và một sự khiêm nhường vâng phục với những gì Thánh Thần nói với các Giáo Hội
hôm nay là những dấu chỉ thật sự rằng chúng ta thuộc về Chúa Kitô: và ngài nói
với họ:” Vì thế, mọi luật sỹ người đã được thụ giáo về nước trời, như gia chủ,
người rút ra trong kho mình cả cái cũ và cái mới” (Mt 13:52).
Nếu chúng ta chú tâm, nếu các tân linh mục và
phó tế thật sự khao khát phụng vụ, họ sẽ có thể huấn luyện những người được
trao phó cho họ - ngay cả khi họ không có những hoàn cảnh và điều kiện khả năng
dồi dào như ở chủng viện và nhà thờ chính tòa. Tôi nhớ đến nhiều linh mục trong
những hoàn cảnh như vậy vẫn đào tạo những người thuộc quyền mình trong tinh thần
và hiệu năng của phụng vụ, những giáo xứ đó là điển hình của những tấm gương về
vẻ đẹp phụng vụ. Chúng ta cần nhớ rằng sự đơn sơ trang trọng không đồng nghĩa với
sự giản lược tối thiểu hay kiểu tầm thường không hiểu biết. Đức Phanxicô dạy
trong Evangelii Gaudium: Hội thánh truyền giáo và truyền giáo chính mình qua vẻ
đẹp của phụng vụ, đó vừa là nhiệm vụ truyền giáo và nguồn của sự cho đi chính
mình” (24).
Thứ hai, tôi nghĩ cần thiết phải rõ ràng về bản
chất của việc tham gia phụng vụ, của sự tham gia thật sự mà công đồng kêu gọi.
Có nhiều sự lẫn lộn ở điểm này trong những năm qua. Số 48 của hiến chế viết:
“Giáo Hội hằng bận tâm lo cho các Kitô hữu tham dự vào mầu nhiệm đức tin ấy,
không như những khách bàng quan, câm lặng, nhưng là những người thấu đáo mầu
nhiệm đó nhờ các nghi lễ và kinh nguyện: họ tham dự hoạt động thánh một cách ý
thức, thành kính và linh động.” Công đồng nhìn nhận sự tham gia như là nội tâm
trước tiên, đến từ “một hiểu biết thấu đáo các nghi lễ và kinh nguyện.” Đời sống
nội tâm, đời sống hòa sâu trong Chúa và được sống thân tình bởi Thiên Chúa là
điều kiện tối quan trọng cho một sự tham gia hiệu quả và thành công trong các mầu
nhiệm thánh mà chúng ta cử hành trong phụng vụ. Cử hành Thánh Thể phải được nội
tâm hóa. Đó là bên trong chúng ta Chúa muốn gặp gỡ chúng ta. Các nghị phụ kêu gọi
các tín hữu hát, thưa với linh mục, đảm nhận các thừa tác thuộc về phận sự của
họ, nhưng nhấn mạnh rằng tất cả phải “ý thức những gì họ đang làm, với sùng mộ
và hoàn toàn linh động.”
Nếu chúng ta hiểu được ưu tiên của nội tâm hóa
việc tham gia phụng vụ chúng ta sẽ tránh những hoạt động phụng vụ ồn ào và bất
xứng đã xuất hiện nhiều trong những thập niên vừa qua. Chúng ta không đến phụng
vụ để trình diễn, làm những gì đó cho người khác xem: chúng ta đến để được nối
kết với hành động của Chúa Kitô qua sự nội tâm hóa những nghị thức phụng vụ bên
ngoài, kinh nguyện, dấu chỉ và biểu tượng. Có thể các linh mục mà ơn gọi của
mình là thừa tác phụng vụ cần phải nhớ điều đó hơn ai hết! Nhưng chúng ta cần
đào tạo người khác, đặc biệt trẻ em và giới trẻ về ý nghĩa của tham gia phụng vụ
đích thực, về cách thức đích thực cầu nguyện trong phụng vụ.
Thứ ba, tôi đã nói đến thực tại rằng một số cải
tổ được thực hiện sau công đồng có thể được làm đồng loạt theo tinh thần của thời
cuộc và có sự gia tăng những nghiên cứu phê phán bởi con cái Giáo Hội, hỏi rằng
cái gì đã được làm để thật sự thực thi những mục tiêu của Hiến chế hay những cải
tổ này đã đi quá những điều nhắm tới. Cuộc thảo luận này nhiều khi được làm với
tên gọi “cải tổ của cải tổ.” Tôi nhớ rằng cha Thomas Kocil trình bày một nghiên
cứu về vấn đề này tại Hội nghị Phụng Vụ thánh tại New York cách đây một năm.
Tôi không nghĩ chúng ta có thể bỏ qua khả năng
hay sự mong muốn một cải tổ chính thức của cải tổ phụng vụ bởi vì những đề xướng
của nó tạo ra những đòi hỏi quan trọng để cố gắng trung thành với sự cương quyết
của công đồng trong số 23 của hiến chế “truyền thống tốt lành đó ...được giữ,
nhưng con đường vẫn mở ra cho một sự tiến triển hợp pháp.” Sự tiến triển cần bắt
đầu với nghiên cứu thần học, lịch sử, mục vụ một cách cẩn thận và “chỉ nên thực
hiện những đổi mới nhất thời khi lợi ích thiết thực và chắc chắn của Giáo Hội
đòi hỏi và sau khi đã cân nhắc thấy rằng những hình thái mới, một cách nào đó,
phải được triển nở có hệ thống từ những hình thái sẵn có.”
Thật vậy, tôi có thể nói rằng khi tôi yết kiến
ĐGH tháng 4 vừa qua, ngài đề nghị tôi nghiên cứu vấn đề một cải tổ của những cải
tổ và cách thức trong đó 2 hình thức của Nghi lễ Roma có thể làm phong phú cho
nhau. Đây là 1 công việc dài và phức tạp và tôi xin quý vị một sự kiên nhẫn và
những lời cầu nguyện. Nhưng nếu chúng ta phải thực thi Sacrosanctum Concilium
trung thành hơn, nếu chúng ta phải đạt được những gì mà công đồng mong mỏi, đây
là một vấn đề nghiêm trọng cần phải được nghiên cứu thấu đáo và thực thi với
minh bạch và cẩn trọng trong cầu nguyện và hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa.
Chúng ta là những linh mục, giám mục mang một
trách nhiệm lớn. Chúng ta biết gương sáng của chúng ta xây dựng những thực hành
phụng vụ tốt; những cẩu thả, thói quen hay sai sót của chúng ta làm tổn thương
Giáo Hội và phụng vụ thánh của Giáo Hội như thế nào!
Chúng ta những linh mục là những người thờ phượng
trước tiên và trước hết. Dân chúng có thể nhận ra sự khác biệt giữa một linh mục
cử hành với đức tin và một linh mục cử hành trong vội vàng, luôn nhìn đồng hồ,
như là muốn nói rằng linh mục đó muốn mau chóng hết sức có thể để trở lại làm
việc mục vụ hay những việc khác hay xem TV! Các cha thân mến, chúng ta có thể
không làm được việc gì quan trọng hơn bằng cử hành các mầu nhiệm thánh; chúng
ta hãy cảnh giác những cám dỗ của lười biếng hay nguội lạnh về phụng vụ bởi vì
đó là cám dỗ của ma quỷ.
Chúng ta cần nhớ rằng chúng ta không phải là
tác giả của phụng vụ. Chúng ta là những thừa tác khiêm nhường tuân theo những kỷ
luật và nguyên tắc của phụng vụ. Chúng ta cũng có trách nhiệm đào tạo những trợ
tá trong những thừa tác phụng vụ trong tinh thành và hiệu năng của phụng vụ và
trong những luật phụng vụ. Đôi khi tôi đã thấy những linh mục bước ra và để cho
những thừa tác viên ngoại lệ đi cho rước lễ: đó là sai, đó là sự từ chối tác vụ
linh mục cũng như giáo sỹ hóa giáo dân. Khi xảy ra như vậy, đó là dấu chỉ rằng
sự đào tạo đã đi sai và cần phải được chỉnh sửa. “Khi cầm lấy 5 tấm bánh
...trao cho các môn đệ và họ trao chia cho dân chúng... Số người ăn từ 5 tấm
bánh là năm ngàn người nam (Mt 14:18-21).
Tôi đã thấy linh mục và giám mục mang áo lễ cử
hành thánh lễ, lấy điện thoại và máy quay và dùng nó trong phụng vụ thánh. Đây
là một cáo trạng kinh khủng của những gì họ tin là sứ vụ của họ phải làm khi mặc
phẩm phục phụng vụ, nó bao phủ và biến đổi chúng ta thành một Kitô khác –và hơn
nữa, như chính là Chúa Kitô. Làm như vậy là phạm thánh. Không một giám mục,
linh mục, phó tế mặc phẩm phục để cử hành hay tham dự phụng vụ trong cung thánh
được chụp hình, ngay cả trong thánh lễ có đông các đồng tế. Tại những thánh lễ
đồng tế đông, nhiều linh mục ngồi nói chuyện với nhau là dấu hiệu để chúng ta cần
khẩn cấp xét lại sự thích hợp của những thánh lễ đông đồng tế như vậy.Đặc biệt
nếu nó dẫn các linh mục đến những dạng hành động gương mù như vậy không xứng
đáng với mầu nhiệm được cử hành hay số lượng đông của các đồng tế dẫn đến nguy
cơ phàm tục bí tích Thánh Thể.
Đó cũng là gương mù và phàm tục sự thánh nếu
giáo dân cũng chụp hình trong khi cử hành thánh lễ. Họ cần cử hành qua kinh
nguyện không phải qua việc chụp hình.
Tôi muốn đề nghị đến tất cả các linh mục. Các
cha có thể đã đọc bài của tôi trong L’Osservatore Romano năm trước 12/06/2015)
hoặc trong bài phỏng vấn của tạp chí Famille Chritienne tháng 5 vừa qua. Trong
cả 2 dịp này tôi nói rằng tôi tin rằng là điều cần thiết cho chúng ta trở lại một
hướng chung càng sớm càng tốt – cho cả linh mục và giáo dân quay về về cùng một
hướng -- hướng đông hay ít nhất về hậu đường – hướng Chúa, ngài đến, trong những
phần của nghi thức phụng vụ khi chúng ta kêu cầu Chúa. Thực hành này được cho
phép bởi luật phụng vụ hiện thời. Đó là hoàn toàn hợp luật trong nghi thức hiện
đại. Quả thực, tôi cho rằng đó là bước rất quan trọng để bảo đảm rằng trong việc
cử hành của chúng ta, Chúa thật sự là trung tâm.
Vì thế, thưa các cha, tôi nài xin quý cha thực
thi thực hành này bất cứ khi nào có thể với cẩn trọng với giáo lý cần thiết, với
một tự tin mục tử rằng đây là cái gì đó tốt cho Giáo Hội, tốt cho dân chúng. Sự
phán đoán mục tử sẽ xác định thế nào và khi nào điều đó là có thể, nhưng có lẽ
bắt đầu với Chúa Nhật I mùa Vọng năm nay, khi chúng ta hướng về “Chúa đấng sẽ đến”
và “đấng sẽ không trì hoãn” có thể là thời gian tốt để làm việc này. Các cha
thân mến, chúng ta cần lắng nghe lại lời than của Chúa qua tiên tri Giêremia “họ
đã quay lưng lại với ta thay vì quay mặt lại.” (2:27). Chúng ta hãy quay lại về
Chúa! Từ ngày rửa tộingười kitô hữu chỉ biết một hướng: Hướng đông.”Bạn đi vào
đối diện với kẻ thù vì bạn có ý định từ bỏ nó, đối diện với mặt nó. Bạn quay về
hướng Đông (ad Orientem) vì ai từ bỏ ma quỷ thì quay về Chúa Kitô và chăm chú
nhìn thẳng vào Người (Giáo lý về các mầu nhiệm của thánh Ambrôsiô, Giám mục
Milanô).
Tôi đề nghị một cách khiêm nhường và huynh đệ với
các anh em giám mục: Xin hãy hướng linh mục và giáo dân của mình về Chúa theo
cách thức này, nhất là trong những lễ đồng tế đông người trong giáo phận và nhà
thờ chính tòa của mình. Xin hãy đào tạo chủng sinh trong thực tại rằng chúng ta
được gọi đến chức linh mục không phải để làm trung tâm của phụng vụ, nhưng để dẫn
giáo dân đến với Chúa Kitô như những người đồng thờ phượng hiệp nhất trong cùng
hành động tế tự. Xin hãy làm sự cải tổ đơn giản và sâu sắc này trong giáo phận,
nhà thờ chính tòa, giáo xứ, chủng viện của anh em.
Chúng ta là giám mục có một trách nhiệm lớn lao
và một ngày chúng ta sẽ phải trả lời trước Chúa về sự quản lý của mình. Chúng
ta không phải là chủ sở hữu của bất cứ cái gì! Chẳng có cái gì thuộc về chúng
ta. Như Thánh Phaolô dạy, chúng chỉ là ‘tôi tớ của Chúa Kitô và quản lý các mầu
nhiệm của Thiên Chúa. Tấ nhiên bây giờ đòi hỏi nơi người quản lý là lòng trung
thành” (1 Cor 4: 1-2). Chúng ta chịu trách nhiệm bảo đảm rằng những thực thể
thánh của phụng vụ được tôn trọng trong giáo phận và những linh mục, phó tế
không những chỉ tuân theo luật phụng vụ, nhưng biết được tinh thần và hữu năng
của phụng vụ mà phát sinh từ đó. Tôi rất cảm kích khi đọc bài thuyết trình về
“Giám mục: Người quản trị, cổ võ và trông coi đời sống phụng vụ của giáo phận” ở
hội nghị Phụng Vụ Thánh tại Roma bởi ĐTGM Alexander Sample của Oregon Hoa Kỳ,
và tôi khuyến khích anh em giám mục nghiên cứu bài này cách thấu suốt.
Tất cả mọi thừa tác viên phụng vụ cần phải xét
mình thường xuyên. Tôi khuyến khích phần II của tông huấn Sacramentum Caritatis
của Đức Bênêđictô XVI “Thánh Thể, Một Mầu Nhiệm Để Được Cử Hành.” Đã gần 10 năm
tông huấn này được công bố như kết quả hợp đoàn của THĐGM 2005. Chúng ta đã tiến
triển được đến đâu? Chúng ta cần làm thêm những gì? Chúng ta cần hỏi mình những
câu hỏi này trước Chúa, mỗi người theo trách nhiệm của mình và rồi làm những gì
có thể những gì chúng ta cần đạt tới theo cái nhìn lược ra bởi Đức Bênêđictô. Đến
đây, tôi lặp lại, Đức Phanxicô đề nghị tôi tiếp tục công việc phụng vụ ngoại
thường mà Đức Bênêđictô đã bắt đầu (xem Sứ điệp cho Sacra Liturgia USA 2015,
New York city). Không phải vì chúng ta có giáo hoàng mới thì cái nhìn của vị tiền
nhiệm là vô giá trị. . Ngược lại, Đức Phanxicô có một sự kính trọng lớn đến cái
nhìn và những công việc của Đức Bênêđictô đã thực thi trong sự trung thành rõ rệt
những ý định của các nghị phụ.
Trước khi tôi kết thúc, xin cho phép tôi đề cập
đến vài cách thức nhỏ có thể đóng góp cho việc thực thi trung thành
Sacrosanctum Concilium. Một trong những cái đó, là chúng ta có thể hát các văn
bản phụng vụ, theo các truyền thống phụng vụ của Giáo Hội, tận hưởng kho tàng
thánh nhạc của chúng ta, đặc biệt những thánh nhạc gần với nghi lễ Latinh, bình
ca Gregorian. Chúng ta cần hát thánh nhạc phụng vụ, không phải chỉ nhạc tôn
giáo, hay tệ hại hơn, những bài thế tục.
Chúng ta cần có một sự cân bằng đúng giữa ngôn
ngữ địa phương và dùng tiếng Latin trong phụng vụ. Công đồng không bao giờ có ý
định dùng tiếng địa phương tuyệt đối. Nhưng công đồng cho phép dùng nhiều tiếng
địa phương, đặc biệt là các bài đọc.
Ngày nay, với sự in ấn hiện đại, chúng ta có thể
dùng Latin mà tất cả đều hiểu, có thể phần Phụng vụ Thánh Thể, và tất nhiên những
dịp cử hành có tính quốc tế mà nhiều người không hiểu tiếng địa phương. Khi
dùng tiếng địa phương thì phải dùng các bản dịch trung thành với bản gốc
Latinh, như Đức GH vừa khẳng định với tôi.
Chúng ta cần phải bảo đảm rằng thờ phượng
(adoration) là cái hồn của những cử hành phụng vụ. Trung tâm của phụng vụ là thờ
phượng Chúa. Quá thường xuyên chúng ta không chuyển từ cử hành sang thờ phượng,
nhưng nếu không làm như vậy, tôi lo ngại chúng ta không tham dự phụng vụ đầy đủ
và trong nội tâm. Hai tư thế thân xác là hữu ích và không thể thiếu. Thứ nhất
là thinh lặng. Nếu tôi không bao giờ thinh lặng, nếu phụng vụ không cho tôi khoảng
thời gian cầu nguyện thinh lặng và chiêm niệm, thì làm sao tôi có thể thờ lạy
Chúa Kitô, làm sao tôi có thể kết nối với ngài trong tâm hồn và linh hồn tôi?
Thinh lặng là rất quan trọng, không những trước và sau phụng vụ. Đó là nền tảng
của một đời sống thiêng liêng sâu xa.
Cũng vậy quỳ vào lúc truyền phép là thiết yếu.
Trong phụng vụ phương Tây, đó là một hành động thân xác để thờ lạy làm chúng ta
khiêm nhường trước Chúa và Thiên Chúa. Đó chính là hành vi cầu nguyện. Ở đâu quỳ
và bái quỳ đã biến mất khỏi phụng vụ thì cần phải khôi phục lại, nhất là khi
chúng ta lãnh nhận Chúa trong rước lễ. Các cha thân mến, ở đâu có thể và với cẩn
trọng mục vụ như tôi đã nói trước, hãy đào tạo giáo dân về hành vi thờ phượng
và yêu mến tốt đẹp này. Hãy quỳ trong thờ lạy và yêu mến trước Chúa trong Thánh
thể một lần nữa! “Con người không hoàn toàn là người trừ khi quỳ trước Thiên
Chúa và thờ lạy Người, để chiêm niệm sự thánh thiện huy hoàng và để mình được uốn
nắn theo hình ảnh của Người.” (R Sarah, On the Road to Ninive, p. 199).
Khi nói đến quỳ khi rước lễ, tôi muốn nói đến
lá thư năm 2002 của Bộ Phụng tự minh định rằng: Mỗi việc từ chối cho một tín hữu
được rước lễ chỉ vì người đó quỳ gối là một vi phạm nghiêm trọng một quyền cơ bản
của người tín hữu Kitô” (Thư, 1/7/2002., Notitiae, n. 436, Nov-Dec 2002, p.
583).
Y phục đúng cho những thừa tác viên ở cung
thánh, gồm cả người đọc sách là quan trọng nếu những tác vụ này được coi là
đúng và nếu họ thực hành đúng đắn với phụng vụ - nếu thừa tác viên cũng tỏ ra sự
cung kính với Chúa và những thừa tác mà họ thực thi.
Đó là vài lời khuyên: Tôi chắc chắn rằng nhiều
điều khác có thể đưa ra. Tôi đặt ra trước quý vị như những cách thức có thể để
tiến bước “cách thức đúng để cử hành phụng vụ một cách bên trong và bên ngoài,”
tất nhiên là những mong ước của ĐHY Razinger ở phần đầu tác phẩm, Tinh Thần Của
Phụng Vụ. Tôi khuyến khích quý vị làm tất cả những gì để có thể đạt được mục
tiêu đó, nó rõ ràng phù hợp với mục tiêu của Hiến chế phụng vụ của công đồng
Vatican II.
Kết Luận
Tôi mở đầu bài nói này với xem xét giáo huấn của
các giáo hoàng thế kỷ 20 về phụng vụ. Đấng thứ nhất, thánh GH Piô X có khẩu hiệu
cá nhân: Instaurare omia in Christo- Vãn Hồi Mọi Sự Trong Chúa Kitô. Tôi khuyên
rằng chúng ta lấy những lời này làm mực thước riêng của mình khi cố gắng thực
thi đúng đắn hiến chế Sacrosanctum Concilium, bởi vì khi chúng ta đến với phụng
vụ thánh chúng ta đi vào trong não trạng của Chúa Kitô, nếu chúng ta mặc lấy
Chúa Kitô như khi chúng ta mặc áo trắng lúc rửa tội hay mặc phẩm phục tương ứng
với thừa tác phụng vụ của mình, chúng ta không thể đi lạc.
Thật đáng buồn rằng những thập niên sau Vatican
II, “bên cạnh những khoảng sáng có những bóng tối” trong đời sống phụng vụ của
Giáo Hội như thánh GH Gioan Phaolô II viết trong Ecclesia de Eucharistia
(n.10). Và nhiệm vụ của chúng ta là trình bày những nguyên nhân của nó. Nhưng
đó cũng là nguồn hy vọng và niềm vui lớn cho chúng ta hôm nay, khi thế kỷ 21
đang tiến nhiều tín hữu xác tín đưọc tầm quan trọng của phụng vụ trong đời sống
GH và dấn thân trong tông đồ phụng vụ, được gọi chung chung như một phong trào
phụng vụ mới.
Anh chị em thân mến, tôi cám ơn vì những dấn
thân của anh chị em cho phụng vụ thánh. Tôi khuyến khích và chúc lành cho anh
chị em trong mỗi động thái, lớn hay nhỏ, để mang lại “một cách thức đúng để cử
hành phụng vụ bên trong và bên ngoài.” Hãy bền bỉ trong công việc tông đồ này:
Giáo Hội và thế giới cần anh chị em!
Xin cầu nguyện cho tác vụ đặc biệt của tôi.
Xin cám ơn và xin Chúa chúc lành.
+ Robert Hồng Y Sarah
Tổng Trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích
Dịch từ bản tiếng Anh:
https://drive.google.com/file/d/0B8CZzED2HiWJRmhkcDVTcVRpU3M/view