PHỤNG
VỤ CỦA GIÁO HỘI
(catechesis.net)
Nguyên
tác: La Liturgie de
L’Église của Dom Robert le Gall,
Đan
viện Trưởng đan viện Sainte Anne, Kergonan
Chuyển
ngữ: Giuse Nguyễn Cao Luật, OP.
LỜI NÓI
ĐẦU
Thật ý
nghĩa khi văn kiện đầu tiên của Công Đồng Vaticanô II được công bố là Hiến chế
Phụng Vụ (PV). Thật vậy, Phụng vụ là hành động cao cả nhất trong đời sống của
Giáo Hội : “Vì đó là công việc của Chúa Kitô tư tế và Thân Thể của Người
là Giáo Hội, nên mọi việc cử hành phụng vụ đều là hành vi chí thánh, và không
một hành vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn
đẳng cấp” (PV 7).
Canh
tân phụng vụ, cũng chính là canh tân toàn bộ đời sống Giáo Hội. Xác tín này đã
được diễn tả ngay trong những dòng đầu tiên của Hiến chế : “Thánh Công
Đồng chủ tâm phát huy đời sống Kitô giáo ngày càng tốt đẹp hơn nơi các tín hữu,
thích ứng những định chế nào có thể thay đổi cho hợp với những nhu cầu của thời
đại chúng ta, cổ võ những gì khả dĩ góp phần hiệp nhất mọi người đã tin theo
Chúa Kitô và kiện cường những gì hỗ trợ cho việc mời gọi mọi người vào lòng
Giáo Hội. Vì những lý do đặc biệt đó, thánh Công Đồng thấy có bổn phận phải lo
canh tân và cải tiến phụng vụ” (PV 1).
Phụng
vụ là đời sống của Giáo Hội, một đời sống được cô đọng, tập trung để được tiến
dâng cho Thiên Chúa. Đức tin, đức cậy và đức mến của Giáo Hội được diễn tả cả
bên ngoài lẫn bên trong, theo cách thức vừa cá nhân, vừa cộng đồng, trong chính
hành động gặp gỡ với Thiên Chúa của Giao Ước.
Điều
quan trọng là các tín hữu phải hiểu biết di sản đích thực của Công Đồng, bởi vì
có những khuynh hướng trái ngược nhau, nhất là trong lãnh vực phụng vụ, vẫn
được nêu lên để tự cho phép mình theo nhiều hướng khác nhau, hoặc là từ chối.
Di sản này cốt yếu gồm 4 Hiến
chế, còn 9 sắc lệnh và 3 tuyên ngôn là những áp dụng cụ thể. Trước đây, các
Giáo phụ nói rằng phải kính trọng 4 Công Đồng đầu tiên là Nicea (325),
Constantinople (381), Epheso (431) và Calcedonia (451), vì tương ứng với 4 Tin
Mừng : ngày nay, cũng thật phù hợp khi thêm 4 Hiến chế của Công Đồng
Vaticanô II.
Hiến
chế Tín Lý về Giáo Hội được xem như nguyên tắc nền tảng cho mọi văn kiện của
Giáo Hội. Nếu muốn hiểu đúng đắn về điều Thánh Thần muốn nói với Giáo Hội hôm
nay, người ta phải luôn trở về với tài liệu này (x. Kh 2,7). Toàn thể Dân Thiên
Chúa tham dự vào chức tư tế hoàng vương của Đức Kitô, – mặc dù tư tế thừa tác
và chức tư tế cộng đồng khác nhau không chỉ về đẳng cấp, mà về bản chất –,
chính nhờ chức tư tế của Đức Kitô mà Dân Thiên Chúa có khả năng đi vào phụng vụ
Giao Ước Mới (s.10).
Hiến
chế Mặc Khải chỉ dạy cách thức mà Thánh Truyền và Thánh Kinh sử dụng để làm cho
tín hữu có thể hiểu được chương trình cứu độ. Chương trình này đã được thực
hiện một lần cho tất cả trong Mầu nhiệm Phục Sinh, và được thông ban cho các
tín hữu trong hy lễ Thánh Thể và trong toàn bộ phụng vụ. Tại đó, Giáo Hội không
ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Máu
Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu (s.21). Thánh Kinh đã được hình thành dần
dần trong phụng vụ và cho phụng vụ; và cũng chính trong phụng vụ, Thánh Kinh sẽ
còn tất cả sức mạnh và ý nghĩa của mình.
Trong
các văn kiện lớn của Công Đồng Vaticanô II, xếp thứ ba là Hiến chế về phụng vụ
thánh, vì phụng vụ giả thiết phải có mầu nhiệm Giáo Hội và là giải thích hoàn
hảo nhất về Giáo Hội, đồng thời cũng là kho tàng Thánh Kinh để phân phát cho
các tín hữu. Nếu lược bỏ hết các bản văn Thánh Kinh, phụng vụ sẽ chẳng còn là
gì cả. Phụng vụ là đỉnh cao của mầu nhiệm Giáo Hội, cũng là nơi xứng hợp nhất
để công bố Lời Thiên Chúa. So với hai văn kiện đầu, văn kiện thứ ba không có
nhiều tính chất tín lý : Phụng vụ là hình thức cao nhất trong đời sống
Giáo Hội, khi bao hàm cả tín lý, thì phụng vụ vượt cả tín lý, vì phụng vụ cử
hành mầu nhiệm mà tín lý giảng dạy. Trong Institutions Liturgiques, Dom
Guéranger đã viết : Phụng vụ là chính Thánh Truyền ở mức độ cao nhất về uy
quyền lẫn sự long trọng… Phụng vụ vẫn được coi là giáo huấn cao nhất của tín
lý, nhưng đồng thời cũng là hình thức bình dân nhất của tín điều.
Bản văn
thứ tư trong số các văn kiện lớn của Công Đồng là Hiến chế Mục Vụ Giáo Hội
trong thế giới ngày nay. Đây không phải là một hiến chế thu nhỏ, cho dù có
nhiều trang của văn kiện này được liên kết với thời kỳ công bố, và do đó, có
vài điều vô hiệu. Những nguyên tắc lớn, được trình bày tuyệt vời trong phần
đầu, như để gợi hứng cho Giáo Hội mọi thời, cũng như phần thứ hai gợi hứng cho
mọi công cuộc phát triển về văn hoá. Khi cử hành mầu nhiệm trong phụng vụ, và
nhờ đó đi vào trong chương trình của Thiên Chúa được mặc khải trong Thánh Kinh,
Giáo Hội sẽ đem đến cho thế giới Tin Mừng mới về ơn cứu độ trong Đức
Kitô : Chỉ nơi Người, con người vốn được tạo dựng theo hình ảnh Thiên
Chúa, có thể nhận biết và sống đúng phẩm giá của mình. Qua phụng vụ, nhờ sức
mạnh kín múc từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa của Giao Ước, Giáo Hội được sai đi
thực thi sứ vụ trong thế giới, để quy phục mọi sự trong Đức Kitô, và để cũng
chính trong phụng vụ, tiến dâng lên Thiên Chúa Cha phần nhân loại tuyệt hảo đã
được giao hoà, trở nên người cùng thông phần với Đấng Sáng Tạo và Cứu Độ (x.
s.38,45).
Như
thế, Hiến chế Phụng Vụ là phần trọng tâm trong bốn văn kiện lớn của Công
Đồng : Mầu nhiệm Giáo Hội và kho tàng Thánh Kinh gặp gỡ nhau trong việc cử
hành Giao Ước Mới và vĩnh cửu, để từ đó ra đi thi hành sứ vụ trong thế giới và
tiến dâng thế giới này qua việc quy phục trong hiến lễ của Đức Kitô. Hiểu được
giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II về phụng vụ, là đã đi vào toàn bộ tư tưởng
của Công Đồng, “ân sủng lớn lao nhất của thế kỷ”, như lời kết luận trong bản phúc
trình của Thượng Hội Đồng ngoại thường năm 1985.
Để các
linh mục và tín hữu hiểu biết rõ về ý nghĩa của phụng vụ, như Công Đồng
Vaticanô II đã canh tân, cần phải có chương trình huấn luyện : Bản Phúc
Trình của Thượng Hội Đồng nói rõ : “Các giám mục chớ nên hài lòng với việc
sửa trị những lạm dụng, nhưng hãy giải thích rõ ràng cho dân chúng về nền tảng
thần học của kỷ luật bí tích và phụng vụ. Giống như trong Giáo Hội thời sơ
khai, các buổi giáo lý ngày nay cần phải trở thành con đường dẫn vào đời sống phụng
vụ (giáo lý khai tâm). Các linh mục tương lai hãy học hỏi bằng cách thực hành
đời sống phụng vụ và hãy am tường thần học phụng vụ” (II, B, b, 2).
Nếu
muốn đánh giá tầm quan trọng của phụng vụ trong đời sống Giáo Hội, và hiểu rõ
hơn sự thúc bách phải có sự huấn luyện đích thực về phụng vụ, cần phải đọc Tông
thư của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày ban hành
Hiến chế Phụng Vụ (4-12-1988). Đức Giáo Hoàng viết : “Thật cần thiết và
xứng hợp, lại phải có một công cuộc huấn luyện kỹ càng để khám phá sự phong phú
hàm chứa trong phụng vụ hiện nay”, theo hướng đào sâu tất cả những gì phụng vụ
đem đến (s.14). Về phía các giám mục, Đức Giáo Hoàng yêu cầu các vị phải đặc
biệt “Khai triển nét đẹp và sự cao quý của việc cử hành phụng vụ cũng như các
nơi chốn phụng vụ” (s.21).
Tập
sách này mong muốn góp phần vào việc huấn luyện phụng vụ, không chỉ cho hôm qua
hay cho ngày mai.
Để họ
được nên một như Chúng Ta là một : Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để
họ được hoàn toàn nên một ; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã
sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con.
Trong
lời nguyện hiến tế (Ga. 17), Đức Kitô cho thấy ý nghĩa hay cùng đích mà Người
đã gán cho cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh, và việc trở về cùng Chúa
Cha của mình : Vì
họ, con xin thánh hiến chính mình Con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến(17,19).
Chương
trình cứu độ của Thiên Chúa phát xuất từ sự hiệp thông Ba Ngôi ngõ hầu đạt đến
sự hiệp thông Giáo Hội, nhờ hiến lễ của Đức Kitô. Toàn thể Giáo Hội, như Hiến
chế tín lý về Giáo Hội của Công đồng Vaticanô II đã giới thiệu ngay từ đầu “là,
trong Đức Kitô, một cách nào đó, bí tích vừa là dấu chỉ vừa là công cụ của sự
kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất với toàn thể nhân loại”
(s.1). Sự hiệp nhất của nhân loại chỉ có thể được thực hiện trong sự kết hợp
với Thiên Chúa.
Giáo
Hội là một mầu nhiệm :
một mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa được thực hiện nhờ Thiên Chúa-Ba Ngôi và
nhờ cuộc nhập thể cứu độ của Ngôi Hai. Hai “mầu nhiệm” này gói gọn toàn bộ đức
tin Kitô giáo : một trong Ba Ngôi đã làm người như chúng ta, để trong
Thiên Chúa, chúng ta được trở thành một trong Ba Ngôi như Người. Nhờ Đức Kitô
và Thánh Thần, Giáo Hội từ Ba Ngôi đã đi vào giữa lòng thế giới, để nhờ Đức
Kitô và Thánh Thần, Giáo Hội dẫn đưa thế giới đến cùng Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chính
khi cử hành các mầu
nhiệm bí tích, đặc biệt là Thánh thể, “mầu nhiệm đức tin”,
Giáo Hội đi vào chính mầu
nhiệm của mình và làm cho con người nhận biết mầu nhiệm ấy.
Nhiều tài liệu gần đây cho thấy, Huấn quyền trở về với giáo huấn của hai Hiến
chế Công Đồng Vaticanô II về Giáo Hội và về Phụng vụ. Những trang sau đây muốn
nhấn mạnh: ngày nay, bằng cách nào, Giáo Hội động viên chúng ta cử hành những
mầu nhiệm này cách xứng đáng. Những trang viết này chỉ phân tích bản Phúc trình của Thượng
hội đồng ngoại thường năm 1985.
Bản Phúc
trình của Thượng Hội Đồng ngoại thường năm 1985
Phúc
trình của Thượng hội đồng ngoại thường năm 1985 được tổ chức
nhân kỷ niệm 20 năm bế mạc Công đồng mang tiểu đề : “Trong phụng vụ lời
Chúa, Giáo Hội cử hành những mầu nhiệm của Đức Kitô vì ơn cứu độ của nhân
loại.” Điều này có nghĩa là, Phụng vụ là tâm điểm của đời sống Giáo Hội :
Phụng vụ chính là việc cử hành những mầu
nhiệm của Đức Kitô ngõ hầu dẫn đưa tất cả mọi người thấm nhập
vào Mầu nhiệm Thiên
Chúa.
Bản Phúc trình này làm
rõ, bằng cách nào Công Đồng Vaticanô II đã soạn thảo, với sự trợ giúp của Chúa
Thánh Thần, một học thuyết về Giáo Hội dựa trên “sự hiệp thông với Thiên Chúa,
nhờ Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, và được thực hiện trong Lời Chúa và các bí
tích” (II, C, 1). Chúng ta gặp lại chân lý nền tảng mà chúng ta đang cố gắng
làm rõ : nhờ những mầu
nhiệm bí tích vốn là tâm điểm của Phụng vụ, chúng ta sẽ bước
vào mầu nhiệmhiệp
thông Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mầu
nhiệm mà thánh Phaolô đã nói đến, ít nhất ba lần, trong các thư của ngài bằng
những từ ngữ mà chúng ta không thể bỏ qua hay không tham chiếu.
Bản văn
chính là chương ba của thư gửi tín hữu Êphêxô do thánh Phaolô viết vào cuối
đời, trong thời gian ngài bị cầm tù ở Rôma, từ năm 61 đến năm 63. Toàn bộ bức
thư được viết bằng một ngôn ngữ rất cô đọng. Những lời mở đầu của bức thư này
mà chúng tôi sắp trích dẫn một phần lớn, vị Tông đồ tỏ ra tự hào về hiểu biết
của ngài về Mầu nhiệm,
nhưng cũng cần nói ngay rằng, sự hiểu biết đó thánh nhân đã được lãnh nhận một
cách nhưng không.
“Vì lý
do đó, tôi, Phao-lô, người tù của Đức Kitô Giêsu vì anh em, những người dân
ngoại… (câu này chưa kết thúc). Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân
sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải
để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây. Anh
em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Kitô thế nào. Mầu nhiệm
này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết,
nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ
của Người. Mầu nhiệm đó là : trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân
ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Dothái, cùng làm thành một thân
thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa. Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng
đó, nhờ ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban cho tôi, khi Người thi thố quyền năng
của Người. Tôi là kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh, thế mà Thiên Chúa đã ban
cho tôi ân sủng này là loan báo cho các dân ngoại Tin Mừng về sự phong phú khôn
lường của Đức Kitô, và soi sáng cho mọi người được thấy đâu là mầu nhiệm Thiên
Chúa đã an bài. Mầu nhiệm này đã được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa là
Đấng tạo thành vạn vật, để giờ đây, nhờ Hội Thánh, mọi quyền năng thượng giới
được biết sự khôn ngoan thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hành
động như thế theo quyết định Người đã có từ muôn thuở và đã thực hiện nơi Đức
Kitô Giêsu, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô và nhờ tin vào Người, chúng ta được
mạnh dạn và tin tưởng đến gần Thiên Chúa” (3,1-12).
Người
ta ước lượng khí thế, hứng thú và sự cân bằng của trang viết này : Mầu nhiệm, đó là lời mời
gọi tất cả mọi người, cho dù họ là ai chứ không dành riêng cho người Dothái,
bước vào Thân thể Chúa Kitô ; vì được kết hợp với Con Thiên Chúa nhập thể,
họ có thể tiến lại gần Chúa Cha với tất cả tin tưởng trong sự nhiệt tình của
Chúa Thánh Thần.
Trước
đó, thánh Phaolô đã kết thúc thư gởi tín hữu Rôma (viết khoảng những năm 57-58)
bằng một bài thánh thi về Mầu
nhiệm (16,25-27) :
Vinh
danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng
tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn
được giữ kín tự ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong
Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được
thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên
Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn
thuở muôn đời, nhờ Đức Giêsu Kitô. Amen.
Một
luồng sáng tương tự toả ra từ thư gởi tín hữu Côlôxê, được viết khoảng cùng
thời với thư gởi tín hữu Êphêxô, nghĩa là trong thời gian thánh Phaolô bị cầm
tù ở Rôma :
“Giờ
đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức
Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân
thể Người là Hội Thánh. Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch
Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em : đó là tôi phải rao
giảng lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao
thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên
Chúa. Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết
bao giữa các dân ngoại : đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban
cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang. Chính Người là Đấng chúng tôi rao
giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan,
để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô” (1,24-28).
Tư
tưởng của vị Tiến sĩ lương dân rất sáng tỏ : Mầu nhiệm, đó là lời mời
gọi toàn bộ con người tháp nhập vào Thân thể Đức Kitô, điều này được hiểu như
lời kêu gọi bước vào cùng một vinh quang của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần.
Mầu
nhiệm, đối với thánh Phaolô, đó là Thực tại toàn vẹn của Thiên Chúa
và của kế hoạch yêu thương của Người. Thực tại hay sự Viên mãn ấy vượt quá sự
hiểu biết của chúng ta nhưng được giới thiệu với chúng ta nhờ Đức Kitô và nhờ
Hội thánh Người, và chúng ta cần phải ưng thuận với Giáo Hội. Trong Giáo Hội,
các tông đồ là những người phân phát các mầu nhiệm để đưa vào trong Mầu nhiệm, theo như lời
của thánh Phaolô ngỏ cùng các tín hữu Côrintô : “Vậy chớ gì thiên hạ coi
chúng tôi như những đầy tớ của Đức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của
Thiên Chúa” (1 Cr 4,1). Vì vậy, các mầu
nhiệm dẫn đưa chúng ta vào Mầu nhiệm, nói một cách cụ thể,
chiều kích thánh thiêng (“mầu nhiệm”) của Phụng vụ là yếu tố hàng đầu, vì chiều
kích này lấy Mầu nhiệm của Đấng Cứu Độ chúng ta để gắn kết chúng ta vào Mầu
nhiệm ấy, nghĩa là đặt lên hàng đầu Công
trình của Thiên Chúa (Opus
Dei trong tu luật của thánh Biển Đức) trong việc cử hành Giao
Ước.
Tư
tưởng này rất gần gũi với giáo huấn của của Công Đồng Vaticanô II, ngay từ
trang đầu tiên của Hiến
chế Phụng vụ, chúng ta đọc thấy : “Nhờ phụng vụ, nhất là trong
hiến tế tạ ơn, mà ‘công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện’. Phụng vụ góp
phần quan trọng giúp các tín hữu, qua cuộc sống của mình, diễn tả và biểu lộ
cho những người khác về mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Giáo Hội
chân chính, một Giáo Hội có đặc tính vừa nhân loại vừa thần linh, vừa hữu hình
vừa hàm chứa những thực tại vô hình, vừa nhiệt thành hoạt động vừa chiêm niệm,
vừa hiện diện nơi trần gian nhưng đồng thời cũng là lữ khách. Tuy nhiên, trong
Giáo Hội, yếu tố nhân loại quy hướng và lệ thuộc vào yếu tố thần linh, những
thực tại hữu hình quy hướng về những thực tại vô hình, hoạt động hướng về chiêm
niệm và những gì hiện tại phải hướng về thành đô tương lai là nơi chúng ta đang
tìm kiếm” (s.2).
Nếu các
tín hữu, bằng chính đời sống của mình, phải diễn tả và bày tỏ cho thế giới biết
về Mầu nhiệm của Đức Kitô, điều đó có nghĩa rằng, họ phải trở thành bí tích của
Mầu nhiệm Giao Ước trong Đức Kitô cho thế giới. Chẳng có gì khó để nhận ra sự
mạch lạc sâu sắc trong giáo thuyết của Công đồng : Toàn thể Giáo Hội ở
“trong Đức Kitô, một cách nào đó, là bí tích của sự kết hợp mật thiết với Thiên
Chúa và của hiệp nhất với toàn thể nhân loại” (Lumen gentium, s.1) ; vì lẽ ấy, Giáo Hội
là Mầu nhiệm cứu
độ. Hiến chế về Phụng vụ xác định rõ rằng, trong Giáo Hội, người tín hữu không
thể là bí tích của Mầu nhiệm này nếu họ không tham dự Phụng vụ, đặc biệt là
việc cử hành Thánh thể, mà người phương Tây gọi là “Thần vụ” (la divine
Liturgie), là nơi mà đỉnh cao là toàn bộ Công trình của Đấng Cứu Độ chúng ta
được thực hiện.
Tiếp
đến bản văn nói đến đời sống lứa đôi để minh hoạ ấn tích của Giáo Hội, điều này
không ngừng được củng cố trong việc tham dự phụng vụ : từ nhân tính đến
thần tính, từ thực tại hữu hình đến thực tại vô hình, từ hoạt động đến chiêm
niệm, từ đất lên trời ; nhưng thần tính mà Giáo Hội đang cưu mang cũng
biến đổi nhân tính, vô hình toả sáng trong Giáo Hội cũng sẽ tỏ hiện trong hữu
hình, an bình và sức mạnh của việc chiêm niệm sẽ chuyển sang hành động, sự sống
trên thiên quốc hiệp thông với sự sống trần gian. Giáo Hội – bí tích không
ngừng chuyển từ bình diện này sang bình diện khác, và đó là Mầu nhiệm của Giáo
Hội.
Các
nguyên tắc tổng quát của việc canh tân phụng vụ theo mong muốn của Công Đồng
(PV s.1) cho thấy một cách rõ ràng rằng, khía cạnh thánh thiêng (mầu nhiệm)
chiếm vị trí hàng đầu, vì trong phụng vụ, nếu chỉ nhấn mạnh đến thực tại hữu
hình, chúng ta sẽ dừng lại ở bình diện con người (chiều ngang) : nhân tính
chỉ có thể tìm thấy toàn bộ tầm vóc của mình trong thiên tính. Một nền phụng vụ
bị giản lược đến độ chỉ còn mang yếu tố con người, ít nhiều chỉ cử hành trong
cộng đoàn mà lối phụng vụ ấy quy tụ, chứ không phải là Mầu nhiệm của Giao Ước
với Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.
Mười ba
số đầu tiên của Hiến
chế Phụng vụ nhấn mạnh sự kết hợp toàn vẹn giữa nhân tính và
thần tính trong các cuộc cử hành phụng vụ theo Kitô giáo. Nhưng trong khi những
nguyên tắc này mời gọi hãy thận trọng thì người ta lại nhanh chóng bỏ qua chúng
để vội vàng áp dụng : ngôn ngữ phổ thông, đơn giản hoá các nghi thức, sự
tham dự tích cực của các tín hữu. Không biết người ta khám phá hương vị thần
tính của phụng vụ đến mức nào khi người ta gạt bỏ hết tính chất huyền nhiệm
của Mầu nhiệm này.
Bản Phúc trình của Thượng
hội đồng ngoại thường năm 1985 cảnh báo chống việc làm “bốc hơi” ý nghĩa huyền
nhiệm của phụng vụ : “Việc tham dự tích cực của các tín hữu không chỉ bao
gồm trong hoạt động bên ngoài, nhưng hơn thế nữa, còn thể hiện trong việc tham
dự nội tâm và tâm linh, việc tham dự sống động và kết sinh hoa trái, vào mầu
vượt qua của Đức Giêsu Kitô (x. PV 11). Rõ ràng, phụng vụ phải lưu tâm và
làm toả sáng chiều hướng thánh thiêng. Phụng vụ phải chìm đắm trong sự kính
cẩn, tôn thờ và tôn vinh Thiên Chúa” (II, B, b, 1).
Nếu quá
nhấn mạnh đến việc tham dự tích cực của các tín hữu sẽ nảy sinh nguy cơ chỉ
nhắm đến việc tham dự bên ngoài bằng lời nói và cử chỉ. Rõ ràng đây là chiều
kích chính yếu của phụng vụ, nhưng một chiều kích khác, chiều kích nội tâm và
tâm linh, còn quan trọng hơn nhiều. Việc thúc đẩy hứng thú ca hát, làm gia tăng
những cử chỉ biểu cảm, hay tham gia vào nhiều cách khác nhau, sẽ bóp nghẹt lời
cầu nguyện nội tâm : phụng vụ không phải là một phiên chợ, cũng chẳng phải
là một hoạt động bảo trợ. Chẳng hạn, việc dùng phim đèn chiếu hay dán affiche,
hình vẽ của trẻ em ở mặt trước bàn thờ và trên tường nhà thờ không phải là chỗ
của chúng trong việc cử hành thánh lễ hay các bí tích. Ngược lại, trước tiên
nên lưu tâm đến sự sạch sẽ, tiếp đến là chất lượng của những gì liên quan đến
phụng tự : khăn bàn thờ, áo anba, áo lễ, nến. Nên tạo bầu không khí tươi
đẹp, trang nhã, chú ý đến sự kín đáo trong việc sử dụng ngôn từ và cử chỉ, và
để người ta có thể ca hát trong tĩnh lặng. Có thể nói, tất cả những yếu tố này
tạo cảm hứng cho những thái độ nội tâm mà Thượng hội đồng đã đòi hỏi :
“Các giám mục chớ nên hài lòng với việc sửa trị những lạm dụng, nhưng hãy giải
thích rõ ràng cho dân chúng về nền tảng thần học của kỷ luật bí tích và phụng
vụ. Giống như trong Giáo Hội thời sơ khai, các buổi giáo lý ngày nay cần phải
trở thành con đường dẫn vào đời sống phụng vụ (giáo lý khai tâm). Các linh mục
tương lai hãy học hỏi bằng cách thực hành đời sống phụng vụ và hãy am tường
thần học phụng vụ” (II, B, b, 2).
Tiếp
bước Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là con người thật, Giáo Hội được trao phó
nhiệm vụ khai tâm thật.
Thực hiện việc khai tâm, đó là dẫn dắt một người được khai tâm (mustès, trong tiếng Hylạp
nghĩa là “người được khai tâm” và agaguéin là
“dẫn dắt”). Giáo Hội là người đảm nhận việc khai tâm chính yếu trong phụng
vụ : khi cử hành các bí tích khai tâm (thanh tẩy, thêm sức, thánh thể),
Giáo Hội dẫn đưa vào Mầu nhiệm Thiên Chúa bằng kinh nghiệm về các mầu nhiệm bí
tích.
Chính
qua phụng vụ mà các Giáo phụ, như bản Phúc
trình của Thượng hội đồng đã nhắc lại, đã để lại lời chứng
sống động nhất về ý nghĩa đời sống Kitô hữu của họ : bài giảng của các
Giáo phụ là một phần của việc cử hành phụng vụ lời Chúa, trong đó các bài giảng
đem lại ý nghĩa và thể hiện tính thời sự (hiện thể tính) ; giáo lý khai
tâm của các Giáo phụ hay những lời giải thích các nghi thức bí tích đã dẫn dắt
các tín hữu vào tâm điểm của Mầu nhiệm. Với tư cách mục tử và giám mục, các
Giáo phụ dẫn đưa người tín hữu đến với các mầu nhiệm và “làm nên” các mầu
nhiệm, nhưng các ngài luôn ý thức về quyền năng thần hoá của chính các mầu
nhiệm. Lúc đầu, các buổi giáo lý khai tâm chỉ diễn ra sau khi đã lãnh nhận các
bí tích khai tâm mà chúng ta đã nói trên đây. Các Giáo phụ biết rõ rằng, người tín
hữu được khai tâm vào các mầu nhiệm ít hơn được khai tâm bằng chính các mầu
nhiệm.
Và đây
là một thí dụ, những lời của thánh Ambrôsiô ngỏ cùng các tân tòng : “Nếu
chúng tôi có ý đả động đến ý nghĩa của các bí tích trong khi anh chị em còn
chưa được khai tâm, người ta có thể sẽ bảo rằng chúng tôi phản bội hơn là khám
phá một truyền thống. Hơn nữa, chính ánh sáng của các mầu nhiệm dễ dàng chiếm
lấy những ai chưa chuẩn bị trước hơn những người đã được chuẩn bị trước bằng
một sự huấn giáo tầm thường” (De
Mysteriis, I, 1).
Rõ
ràng, thánh Ambrôsiô không hề có ý khẳng định rằng việc dạy giáo lý dự bị là
không cần thiết ; thánh nhân chỉ muốn chứng minh một cách tỏ tường rằng
chức năng của ngài có liên quan với vai trò của vị Tiền hô : mở lối cho
Đấng ngự đến tự nguyện dâng hiến thân mình cho các tín hữu. Si ignoras, gusta, thánh
Augustino mời gọi : “Nếu bạn chưa biết thì hãy trải nghiệm đi” (En. in Tv
33,12 ; PL 36, 315).
Chúng
tôi vừa trích dẫn thánh Ambrôsiô và thánh Âutinh, nhưng các bản giáo lý khai
tâm danh tiếng nhất lại của các Giáo phụ Hylạp : Thánh Cyrilô thành
Giêrusalem, Theodore de Mopsueste và thánh Mácximô hiển tu.
Giáo
Hội, Dân Thiên Chúa, chỉ có thể nuôi dưỡng nhu cầu của mình và ý thức về linh
thánh của mình nếu như các mục tử chú tâm khắc sâu điều ấy vào tâm hồn họ, điều
được thực hiện nhờ phẩm chất các cử hành mà các vị chủ toạ. Nhưng điều này giả
thiết các linh mục phải được huấn luyện sâu xa về thần học và việc thực hành
phụng vụ ; từ đó nảy sinh nhu cầu huấn luyện phụng vụ. Bản văn của Thượng Hội
Đồng dường như nói rõ ràng, ngay từ trong chủng viện, điều quan trọng nhất là
thực hành các cử hành đơn giản và trang trọng, tại đó các linh mục tương lai
học để hiểu biết và thưởng nếm công trình của Giáo Hội là nguồn mạch và đỉnh
cao cho mọi hoạt động của mình. Cũng tại đó, việc đi vào Mầu nhiệm được thực
hiện qua việc thi hành các mầu nhiệm : nhờ sự tham dự cả bên trong lẫn bên
ngoài, cả tinh thần lẫn thể xác, vào những cử hành khác nhau, các chủng sinh
dần dần hiểu rõ công trình phụng vụ của Thiên Chúa, điều mà các giảng khoá thần
học về phụng vụ sẽ đào sâu sau đó.
Khi
Hiến chế Phụng Vụ được áp dụng theo đúng nghĩa chân thực và trong lý luận hỗ
tương, hoa trái của việc canh tân phụng vụ sẽ rất phong phú : giản dị, đẹp
đẽ, sâu sắc, hiểu biết các nghi thức, tiếp cận với các bản văn Thánh Kinh được
chọn lựa kỹ càng…
Vì thế,
cần phải tạ ơn Thiên Chúa, như phần kết luận của bản Phúc Trình : Vào cuối
hội nghị này, Thượng Hội Đồng hết lòng tạ ơn Thiên Chúa Cha, qua Chúa Con và
trong Chúa Thánh Thần, vì ân huệ lớn lao nhất trong thế kỷ này, đó là Công Đồng
Vaticanô II.
Với
điều kiện để biết, để hiểu, cảm nhận và áp dụng điều Công Đồng muốn, được quyền
giáo huấn giải thích, thì Thượng Hội Đồng chắc chắn là một cơ quan được quyền
công bố, trong sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng.
Được
sinh ra trong phụng vụ là bí tích Thanh Tẩy, người tín hữu sẽ được nên vững
mạnh nhờ bí tích Thêm Sức. Đời sống Kitô hữu sẽ không thể nào phát triển được
nếu người tín hữu không siêng năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể là lương thực
dành riêng cho họ. Còn bí tích giao hoà giúp họ thanh tẩy các tội lỗi, những
cản trở chống lại mối thân tình với Thiên Chúa (tội trọng) hay giảm bớt mối
thân tình ấy (tội nhẹ). Bí tích hôn phối hay bí tích truyền chức thông ban
những ơn cần thiết cho những người sống đời sống gia đình hay những người tận
hiến cuộc đời mình cho toàn thế gia đình của Thiên Chúa là Giáo Hội. Đối với
các tín hữu, bí tích xức dầu đem lại những ân huệ thiêng liêng giúp họ sẵn sàng
đến với Chúa Kitô trong những giai đoạn cuối của cuộc hành trình trần thế.
Như
vậy, đời sống siêu nhiên có một cấu trúc tương tự những quy tắc lớn của cuộc
sống con người : sinh ra, lớn lên, được nuôi dưỡng, tái sinh, phục hồi,
làm việc chuyên môn, và mặc dù không có sự suy yếu về sức lực, nhưng nó đem
chính đau khổ và sự chết thể lý vào trong tiến trình trưởng thành tâm linh.
Điều cần ghi nhận, không thể nào có đời sống Kitô hữu mà không có bí tích, được
quy chiếu về bí tích Thánh Thể. Thánh lễ và các bí tích là trung tâm của phụng
vụ Kitô giáo : như thế có thể nói rằng không thể có một Kitô hữu sinh ra,
lớn lên và tồn tại mà không có phụng vụ. Ngoài các bí tích còn có các nghi lễ
bổ sung, tức là các á bí tích, có liên hệ đến toàn bộ cuộc sống con người và
Giáo Hội, chẳng hạn như cung hiến thánh đường, tuyên khấn trong các hội dòng,
làm phép người và vật dụng. Sau cùng, phụng vụ các giờ kinh không chỉ thánh hoá
mỗi ngày sống, mà còn thánh hoá cả những thời khắc chính cả ngày lẫn đêm. Không
có biến cố nào vượt ra khỏi phụng vụ.
Tuy
nhiên, phụng vụ là gì ? Theo nguyên ngữ, đó là công trình (tiếng Hylạp =
ergon) Thiên Chúa thực hiện cho Dân Người tức là Giáo Hội, đồng thời cũng là
công trình mà Dân (tiếng Hylạp = laos) thực hiện vì Thiên Chúa. Nói cách khác,
phụng vụ là công trình chung của Thiên Chúa và Giáo Hội, của Chúa Kitô và Giáo
Hội. Tham dự vào phụng vụ là đi vào một hoạt động thánh thiêng là hoạt động của
chính Thiên Chúa. Phụng vụ cũng là hoạt động cao nhất của con người vì hiệp
nhất cộng đoàn với Thiên Chúa của mình. Thật vậy, toàn thể hoạt động của chúng
ta đều được mời gọi kết hiệp với điều Thiên Chúa thực hiện và với chính Người.
Tuy vậy, vì chúng ta không thể kéo dài mãi sức lực của mình, cả cá nhân cũng
như cộng đoàn, nên chúng ta phải dành ra những thời khắc và những công việc để
đời sống tín hữu múc được sức mạnh từ Thiên Chúa. Con người là những hữu thể
thể lý và tinh thần : việc chúng ta tham dự vào “công trình của Thiên
Chúa” – từ ngữ dùng để chỉ phụng vụ luôn phải có cả bên trong lẫn bên ngoài,
không chỉ có tâm tư và tâm tình, nhưng còn có cả các cử chỉ, tiếng nói, y phục,
màu sắc và những biểu tượng khác.
Nếu như
người Kitô hữu chỉ có thể được sinh ra, được sống và phát triển nhờ tham dự
phụng vụ là hoạt động kết hiệp Giáo Hội với Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô vị Hôn Phu
yêu quý, thì chẳng có ý là trái ngược khi mà họ sống nhờ phụng vụ, kín múc từ
kho tàng các bản văn, cử chỉ và mầu nhiệm, lương thực phù hợp nhất cho sự tăng
trưởng thiêng liêng. Tập sách này mong muốn giúp cho các môn đệ Chúa Kitô đi
sâu vào phụng vụ “nguồn mạch đầu tiên và không thể thiếu từ đó các tín hữu kín
múc được tinh thần Kitô giáo đích thực, theo hiến chế phụng vụ của Công Đồng
Vaticanô II : “Mẹ Giáo Hội tha thiết ước mong toàn thể tín hữu được hướng
dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn ý thức và linh động. Do
chính bản tính, Phụng vụ đòi hỏi việc tham dự như thế ; lại nữa, nhờ phép
rửa tội, việc tham dự phụng vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của Dân Kitô
giáo” là dòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là chủng tộc thánh
thiện, là dân được tuyển chọn (x. 1Pr 2,9 ; 2,4-5) (PV 14).
Vào
cuối năm phụng vụ, lễ các Thánh hướng tâm trí người tín hữu về các cử hành
chung cuộc của thành Giêrusalem thiên quốc… Lời tiền tụng của ngày lễ này có
những lời sau : “Hôm nay Cha cho chúng con được vui mừng chiêm ngưỡng
thành Giêrusalem thiên quốc, là Mẹ chúng con. Khi đó, anh chị em chúng con là
toàn thể các Thánh muôn đời ca ngợi Cha”. Đó là thực tại hoàn thành, trọn hảo
giúp hiểu được những hoạt động chưa hoàn hảo và vụn vặt : nếu muốn hiểu rõ
hơn phụng vụ là gì, người tín hữu cần phải hướng nhìn về phụng vụ thiên quốc.
Trong
một đoạn văn rất cô đọng, thư gửi tín hữu Do Thái gợi lên ngày lễ vĩnh
cửu : “Anh em đã tới Xion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem
trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội
giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời.
Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những
con người công chính đã được nên hoàn thiện. Anh em đã tới cùng vị Trung Gian
Giao Ước Mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu tới
trời còn mạnh hơn cả máu của Aben” (12,22-24). Đến gần Thiên Chúa, đi vào sự
sống của Người : điều này chỉ có thể thực hiện được qua trung gian của Đức
Kitô. Đấng luôn hiện diện trong mọi cử hành phụng vụ. Nếu muốn định nghĩa phụng
vụ như cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Dân Người để cử hành Giao Ước, thì chỉ có
Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là Người, mới có thể thực hiện việc tiến
gần này, không phải bằng máu súc vật, như đã được thực hiện trong Giao Ước Cũ
tại núi Sinai (x. Xh 24,5-8), nhưng trong chính máu Người (x. Hr
9,11-14.18-20). Các tín hữu là những người rước máu Đức Kitô, trong hiến tế
Canvê được tái thực hiện là thánh lễ, phải trở thành những người thân thiết với
Đức Giêsu, phải sống cuộc sống của Người, và đi vào Giao Ước Mới và vĩnh cửu.
Trong cuộc đời trần thế này, họ chỉ tiến vào Giao Ước ấy cách tiệm tiến, họ lập
lại Giao Ước tạ ơn đó mỗi ngày vì tham dự chưa trọn vẹn vào Giao Ước – thực tại
hoàn hảo của Giao Ước, cuộc gặp gỡ chung cuộc giữa Thiên Chúa và Dân Người, tức
là Giáo Hội, chỉ diễn ra trong phụng vụ vĩnh cửu nơi Giêrusalem thiên quốc.
Giao
Ước Cũ, hình ảnh phụng vụ thiên quốc, đã được ký kết tại núi Sinai ; còn
Giao Ước Mới được ký kết một lần thay cho tất cả (x. Hr 7,27 ; 9,12.26)
trên đồi Canvê ; đối với mọi tín hữu, Giao Ước này sẽ chỉ hoàn thành trên
núi thánh là thành Giêrusalem mới. Chỉ trong giai đoạn cuối cùng này của lịch
sử cứu độ mà phụng vụ trở thành hoàn hảo, khi mà Thiên Chúa được thờ phượng
trong thần khí và trong sự thật, hoàn toàn phù hợp với sự chờ đợi (x. Ga
4,21-24).
Thật
khó để hình dung ra phụng vụ trên trời, mặc dù sách Khải huyền đã mạc khải cho
chúng ta đôi chút. Y phục, màu sắc, cử chỉ, bài ca, tất cả những yếu tố quen
thuộc này trong phụng vụ trần thế cũng thấy xuất hiện trong phụng vụ thiên
quốc. Bài đọc 1 ngày lễ các Thánh mô tả một đoàn người đông đảo : “Họ đứng
trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế.
Họ lớn tiếng tung hô : “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và
chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta”. Tất cả các thiên thần đều đứng chung quanh
ngai, chung quanh các kỳ mục và bốn con vật. Họ đều sấp mặt xuống, phủ phụ
trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô rằng :
“Amen,
xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta
Lời
chúc tụng và vinh quang,
Sự khôn
ngoan và lời tạ ơn
Danh
dự, uy quyền và sức mạnh
Đến
muôn thưở muôn đời, Amen !” (7,9-12)
Đoạn
văn trên có các từ ngữ phụng vụ mà chúng ta sẽ đề cập đến trong các phần sau.
Ngay bây giờ cần đến nhấn mạnh nền tảng Ba Ngôi trong phụng vụ. Các nghi lễ trong
phụng vụ Thiên quốc diễn ra chung quanh Ngai – tức là Chúa Cha, và Chúa Con,
tức là Ngôi Lời Nhập Thể, Đức Giêsu Kitô. Trong phần mở đầu chương cuối sách
Khải huyền, ngôi thứ ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa được ám chỉ qua hình ảnh dòng
sông sự sống : “Rồi Thiên Thần chỉ cho tôi thấy một con sông có nước
trường sinh, sáng chói như pha lê, chảy ra từ ngai Thiên Chúa và của Con Chiên”
(22,1). Việc cử hành vĩnh cửu Giao Ước “dìm” người tín hữu vào Chúa Thánh Thần,
sự thông chuyển tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Ngay từ trần thế này, tất
cả mọi cử hành đều đưa người tín hữu tham dự vào thực tại này, theo như giáo
huấn của Công Đồng Vaticanô II. “Trong phụng vụ trần gian chúng ta tham dự qua
việc nếm trước phụng vụ trên trời được cử hành trong thành đô Giêrusalem, nơi
chúng ta là lữ khách đang tuốn về, ở đó Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa
như một thừa tác viên của cung thánh, của nhà tạm đích thực” (PV 8).
3. Phụng vụ “công trình của Thiên Chúa”
Trong
Cựu Ước, công trình hay các công việc của Thiên Chúa là những kỳ công đem ơn
cứu độ do Đức Chúa thực hiện vì Dân Người và với Người (x. St 2,2-3; Is 5,12;
26,12; 28,21; 29,23; Ga 48,10; Hc 11,5). Trong Tin mừng, khi những người Dothái
đặt câu hỏi : “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa
muốn ?” Đức Giêsu đã trả lời : “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm,
là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6,28-29).
Theo
Thánh Phaolô, sứ mệnh của vị tông đồ hệ tại việc cộng tác vào công trình của
Thiên Chúa (1Cr 3,9; 15,58; 16,10) và tiếp tục công việc của Đức Kitô (Pl
2,30), được hoàn tất trong Mầu nhiệm Phục Sinh, tuyệt phẩm về tình yêu Thiên
Chúa và nhân loại.
Toàn bộ
cuộc sống Kitô hữu mang dấu ấn một sự cộng tác, một sự “đồng vận” giữa Thiên
Chúa và Dân Người. Cuộc sống ấy hệ tại việc thực hành các ân ban của Thiên
Chúa, cho đến khi các ân ban ấy được triển nở trong vinh quang. Trong lời tựa
tu luật, Thánh Biển Đức đưa ra lời nhắn nhủ sau đây.
“Trong
mọi lúc chúng ta phải tuân phục Thiên Chúa qua những ân huệ Người ban cho chúng
ta”, để chúng ta có thể theo Người đến vinh quang. Tuy nhiên, nếu như người
Kitô hữu kết hợp với các công trình của Thiên Chúa bằng tất cả đời sống đức
tin, thì vẫn có một hoạt động có giá trị nền tảng, đó là hoạt động phụng vụ.
Thật
vậy, phụng vụ là toàn bộ các hành động trong đó cô đọng sự cộng tác giữa Thiên
Chúa và Dân Người. Vì thế từ ngữ Latinh Opus Dei, vào các thế kỷ V và VI, nhất
là trong tu luật Biển Đức, đồng nghĩa với phụng vụ. Từ ngữ này vừa có nghĩa là
công trình Thiên Chúa thực hiện cho Dân Người và công trình Dân thi hành vì
Thiên Chúa của mình. Do đó thành ngữ “công trình của Thiên Chúa” có nghĩa đặc
biệt là phụng vụ, sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Dân Người, tức là Giáo Hội, để
cử hành Giao Ước.
Trong
phần đầu Hiến chế Phụng Vụ của Công Đồng Vaticanô II, từ ngữ “công việc” được
sử dụng để nhắc lại sự cộng
tác giữa Thiên Chúa và con người trong phụng vụ, khi ta
đọc thấy “Vì là công việc của Chúa Kitô tư tế và Thân Thể của Người là Giáo
Hội, nên mọi việc cử hành phụng vụ đều là hành vi chí thánh, vì không một hành
vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp”
(PV 7).
Có một
công thức cổ trong thánh lễ, được lập lại trong Hiến chế Phụng vụ số 2, đã
diễn tả rõ ràng thực tại tính của công trình của Thiên Chúa : “Lạy Chúa,
xin thương giúp cộng đoàn chúng con cử hành thánh lễ này cho xứng đáng. Vì mỗi
khi chúng con dâng lễ tưởng niệm cuộc khổ hình của Đức Kitô là chúng con được
hưởng ơn cứu chuộc của Người” (Lời
nguyện tiến lễ, CN II thường niên).
Phụng
vụ có liên hệ chặt chẽ với mầu nhiệm Giao Ước. Thật thế, Giao Ước là nòng
cốt cho kế hoạch ngàn đời của Thiên Chúa : Thiên Chúa là Đấng không cần có
sự hiện diện của con người, nhưng Người đã muốn liên kết với một dân, theo một
cách thức thân mật như tình yêu vợ chồng. Phụng vụ, công trình của Thiên Chúa
và cũng là công trình của Dân Người, là hành động toàn thể, trọn vẹn được đóng
ấn Giao Ước mà Thiên Chúa không ngừng đề ra cho con người. Như thế, dựa theo
kinh nghiệm về hôn nhân, người ta có thể hiểu phụng vụ như cuộc gặp gỡ giữa
Thiên Chúa và Dân Người, tức là Giáo Hội, để cử hành Giao Ước.
Trong
lịch sử cứu độ, các nền phụng vụ được phân biệt qua các cử hành Giao Ước :
“Nhiều lần Cha đã Giao Ước với loài người” (Kinh tạ ơn IV). Phụng vụ của các
tôn giáo gọi là dân ngoại có thể nại đến Giao Ước được ký kết với ông Noê (St
9,8-17). Giao Ước ký kết với tổ phụ Ápraham (St 15; 17) và được hoàn tất trong
hiến tế của Ixaác (St 22) nhắm đến lợi ích của cả một dân.
Quả
thực, Ítraen, xét như là Dân của Thiên Chúa, được sinh ra từ phụng vụ Giao Ước
long trọng tại núi Sinai. Đó là ngày Đại hội của toàn dân (Đnl 9,10; 10,4;
18,16) khi mà ông Môsê lấy máu của hiến tế, đổ một nửa trên bàn thờ tượng trưng
cho Thiên Chúa, một nửa vẩy trên dân và nói : “Đây là máu Giao Ước, Đức
Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24,8).
Những
cam kết này không được dân tuân thủ, và các ngôn sứ gọi đó là tội ngoại tình.
Sự bất trung đã mau chóng được tỏ lộ qua hình ảnh con Bò vàng (Xh 32). Thế
nhưng tình yêu Thiên Chúa dành cho dân – Hôn Thê, vẫn luôn được thực hiện qua
việc nhắc lại Giao Ước. Thiên Chúa luôn tỏ ra ân cần, đầy tình yêu thương “nhân
hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín. Giao Ước Sinai, hoàn
toàn phù hợp với những hoàn cảnh cử hành thời Xuất hành và các Lêvi, nay đã
được hiện tại hoá trong các cử hành phụng vụ hằng ngày, hằng tuần và hằng năm
của dân Ítraen. Nhưng, dần dần việc tưởng niệm theo nghi thức phụng vụ của Giao
Ước Mới được công bố qua lời loan báo của các ngôn sứ (Gr 31,31-34), và từ vị
“Thiên Thần của Giao Ước”, vị phải đến trong đền thờ để khởi đầu một hy lễ tinh
tuyền được dâng lên Thiên Chúa từ bình minh tới lúc chiều tà (Mc 3,1.3-4; xem
phần đầu kinh tạ ơn III).
Đức
Giêsu, Đấng là Thiên Chúa và cũng là người thật, chính là Giao Ước đầu
tiên,“hiến lễ vĩnh viễn” (Hr 10,14), Người đến mở đầu nền phụng vụ cho Dân
Mới của Thiên Chúa tức là Giáo Hội. Trong bữa tiệc ly, người Tôi tớ đích thực
của Thiên Chúa (x. Is 52,13-53,12), Chiên Thiên Chúa sẽ xoá bỏ tội trần
gian qua cái chết trên đồi Canvê để lại cho các tông đồ bí tích là hy lễ của
Người, hy lễ tưởng niệm Giao Ước Mới. Những lời thánh hiến rượu thành máu Người
quy chiếu rõ ràng về Giao Ước Sinai, đó cũng là những lời làm cho hy lễ của Đức
Giêsu “được hoàn thành”. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người
được tha tội” (Mt 26,28; x. Xh 24,8).
Bắt đầu
từ đồi Canvê, phụng vụ tập trung vào bí tích Thánh thể, làm cho các chi thể của
Giáo Hội gia nhập vào Giao Ước Mới và vĩnh cửu, cho đến khi Giao Ước này được
hoàn thành nơi Giêrusalem thiên quốc. Ba thời điểm quan trọng của phụng vụ
trong lịch sử cứu độ là núi Sinai, đồi Canvê và thành Giêrusalem thiên quốc.
Chỉ nơi thành thánh này “công thức Giao Ước” mới được chứng thực hoàn
toàn : “Họ sẽ là Dân của Người, còn chính Người là Thiên Chúa ở cùng họ”
(Kh 21,3; x. Xh 6,7; Lv 26,12; Đnl 26,17-18; Gr 7,23; 11,4; 30,22;
31,1-33; 32,38; Ed 11,20; 14,11; 37,2; 2Cr 6,16). Có thể nói, mỗi khi cử hành
phụng vụ, Thiên Chúa trở thành Thiên Chúa đúng nghĩa hơn cho chúng ta, tức là
Người trao ban chính Người cho chúng ta nhiều hơn, và chúng ta cũng trao hiến
trọn vẹn hơn cho tình yêu Người.
Nói đến
phụng vụ, từ ngữ “cử hành” sẽ được nhắc đến nhiều lần. Đây là một từ ngữ được
sử dụng chung cho mọi cộng đoàn phụng vụ. Vậy cử hành là gì ?
Theo
dân gian, cử hành một nghi thức, một ngày lễ hay một dịp kỷ niệm, đó là sống
cách trọn vẹn một biến cố, làm nổi bật biến cố ấy, là hoàn tất biến cố cách
long trọng. Thật thế, một cử hành thường bao hàm sự toàn thể, nó có tính cách
công cộng, lễ hội, hữu hình và theo nghi lễ, dù đó là dịp lễ của gia đình, của
quốc gia, hay tôn giáo. Trong lãnh vực thiêng thánh hay phụng vụ, tính cách
toàn thể hay trọn vẹn này là nét cốt yếu : trong phụng vụ, Thiên Chúa quy
tụ Dân Người để trọn vẹn cuộc sống của họ đi vào Giao Ước.
Tìm
hiểu về từ nguyên sẽ giúp hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ này. Theo tiếng Latinh, cử
hành – Célebrer có nghĩa là nhiều, số đông. Một nơi để cử hành có nghĩa là một
nơi chốn thường được lui tới : một lễ được cử hành có nghĩa là nhiều người
tham dự, từ ngữ cũng có thể sử dụng cho người và sự việc với ý nghĩa là nhiều
người biết đến.
Vì thế
“cử hành – Celebrare” có nghĩa trước tiên là “một số đông người lui tới một nơi
chốn”, rồi “đám đông tham dự một lễ hội”, “mừng lễ với số đông, cách trọng
thể”. Theo hướng đó, celebrer – cử hành cũng có nghĩa là “tiến đến”, “tụ họp
đông đảo”, “quy tụ”, và do đó liên hệ đến sự trọng thể, lễ hội.
Các
nhận định về tầm nguyên này giúp đi tới thực tại Thánh Kinh nền tảng về Dân
Thiên Chúa, Dân được Thiên Chúa quy tụ để thực thi cách trọn vẹn đời sống Giao
Ước. Như thế, một “cử hành” có nghĩa là một hành vi trọn vẹn nối kết Dân của
Giao Ước với Thiên Chúa của mình và đưa họ vào sự sống của Người. Dù người tham
dự đông đảo hay ít ỏi, thì cử hành vẫn là của toàn thể Giáo Hội, “một đàn em
đông đúc” (Rm 8,29), những người đã được Đức Kitô đổ máu ra mà cứu chuộc
(Mt 26,28), và đưa về hợp nhất với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Khi vị
linh mục “cử hành”, Ngài luôn thi hành như Đức Kitô trong hiện diện nơi mình,
một nhiệm vụ “quy tụ”, “trong sự hiệp nhất của Thánh thần” : cùng với linh
mục và trước mặt linh mục, cộng đoàn trở thành cách đúng nghĩa hơn, đó là Dân
Thiên Chúa, thân mình Đức Kitô, đền thờ Chúa Thánh Thần (lời tiền tụng thường
niên VIII), hay “cộng đoàn những người được sinh ra đầu tiên”, “một đoàn đông
đảo” (Kh 7,9; 49,4.6). Như vậy, dù thế nào chăng nữa, cộng đoàn phụng vụ luôn
là một cử hành, vì đó là đại diện cho toàn thể Dân Thiên Chúa là sống Giao Ước
cùng với Đấng Cứu Chuộc mình, để sống sự sống của Chúa Ba Ngôi.
Vinh
quang của Thiên Chúa Ba Ngôi không chỉ là mục đích của phụng vụ, như người tín
hữu sẽ sống vào thời cánh chung, nhưng vinh quang ấy đã hiện diện ngay trong
những cử hành hiện tại.
Theo
nguyên ngữ, vinh quang – doxa có
nghĩa là nhận định về một ai đó, sự đánh giá về một nhân vật nổi danh. Theo
tiếng Hylạp, “vinh quang” có nghĩa là trong ánh sáng và sự rực rỡ, nó bao hàm
trước hết một sự phát tán tiếng tốt từ một nguồn, và ngược lại một sự suy tư về
“vinh quang”, như vậy có nghĩa là từ nơi phát ra và nơi phản chiếu có một ánh
sáng mà không phải là ảo tưởng.
Chỉ có
Chúa Cha là nguồn mạch sự sáng hoàn hảo (x. Gc 1,17) của vinh quang (chính
là đời sống của Chúa Ba Ngôi) ; Người chiếu toả ánh sáng trên mọi loài qua
Chúa Con, “là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên
Chúa” (Hr 1,3), chính Ngôi Lời ấy tôn vinh Chúa Cha cách đích thực. “Thần
khí vinh hiển” (1Pr 4,14) là trung gian của nguồn sáng và sự phản chiếu vinh
quang của Chúa như một bức gương ; như vậy chúng ta được biến đổi nên
giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động
của Chúa là Thần Khí (2Cr 3,48).
Sự trao
đổi vinh quang này, ngay trong đời sống Ba Ngôi, đã làm nên cấu trúc của phụng
vụ, trước khi “tôn vinh”, phải lãnh nhận vinh quang. Vinh quang này được thông
ban cho tín hữu do Chúa Cha qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, và tùy theo
mức độ người tín hữu đón nhận Thần Khí Đức Kitô mà họ tôn vinh Thiên Chúa. Khi
Đức Giêsu cầu nguyện trong lời nguyện thánh hiến : “Xin tôn vinh Con Cha
để Con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1) lại không phải là xác định rằng toàn bộ con
người và cuộc đời của Chúa Con, cũng như của lễ trên đồi Canvê là nhằm để bày
tỏ điều ấy cách rõ ràng sao ? Đức Giêsu thánh hoá chính mình, dâng hiến
chính mình để thông chuyển vinh quang của Chúa Cha mà Người không ngừng lãnh
nhận và trao đổi (17,19.22).
Bí tích
Thánh Thể, cũng như mọi cử hành phụng vụ khác, đưa người tín hữu vào trung tâm
của vinh quang này, trong khi chờ đợi ngày được đưa vào phụng vụ thiên quốc nơi
họ được tháp nhập hoàn toàn vào việc ca tụng vinh quang (x. Ep 1,6.12.14).
Đối với người Dothái, vinh quang không làm nổi bật lên sự rực rỡ sáng ngời,
nhưng cho thấy sức nặng khách quan của tạo vật. Kabod có nghĩa là “sức nặng”.
Cũng vậy, sức nặng của tạo vật thuộc về Thiên Chúa, đến nỗi sự tỏ hiện thần
linh hoàn toàn lấn át.
Mặc
khải cho thấy dần dần rằng sự đậm đặc của đời sống thần linh được thành hình do
một sức nặng này là tình yêu : Tân Ước cho thấy rằng Thiên Chúa là Ba Ngôi
luôn trao tặng và nhận lãnh Tình yêu và sức ép của tình yêu Ba Ngôi không nhằm
để nghiền nát nhưng ôm chặt lấy.
Trong
phụng vụ, các tín hữu đều hiện diện ở trung tâm sức nặng của Ba Ngôi, là tình
yêu được thông ban và canh tân trong Chúa Thánh Thần.