PHỤNG VỤ CỦA GIÁO HỘI – P. 2
Nguyên tác: La
Liturgie de L’Église của Dom Robert le Gall,
Đan viện Trưởng đan viện Sainte Anne,
Kergonan
Chuyển ngữ: Giuse Nguyễn Cao Luật, OP.
Được
sinh ra trong phụng vụ là bí tích Thanh Tẩy, người tín hữu sẽ được nên vững
mạnh nhờ bí tích Thêm Sức. Đời sống Kitô hữu sẽ không thể nào phát triển được
nếu người tín hữu không siêng năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể là lương thực
dành riêng cho họ. Còn bí tích giao hoà giúp họ thanh tẩy các tội lỗi, những
cản trở chống lại mối thân tình với Thiên Chúa (tội trọng) hay giảm bớt mối
thân tình ấy (tội nhẹ). Bí tích hôn phối hay bí tích truyền chức thông ban
những ơn cần thiết cho những người sống đời sống gia đình hay những người tận
hiến cuộc đời mình cho toàn thế gia đình của Thiên Chúa là Giáo Hội. Đối với
các tín hữu, bí tích xức dầu đem lại những ân huệ thiêng liêng giúp họ sẵn sàng
đến với Chúa Kitô trong những giai đoạn cuối của cuộc hành trình trần thế.
Như
vậy, đời sống siêu nhiên có một cấu trúc tương tự những quy tắc lớn của cuộc
sống con người : sinh ra, lớn lên, được nuôi dưỡng, tái sinh, phục hồi,
làm việc chuyên môn, và mặc dù không có sự suy yếu về sức lực, nhưng nó đem
chính đau khổ và sự chết thể lý vào trong tiến trình trưởng thành tâm linh.
Điều cần ghi nhận, không thể nào có đời sống Kitô hữu mà không có bí tích, được
quy chiếu về bí tích Thánh Thể. Thánh lễ và các bí tích là trung tâm của phụng
vụ Kitô giáo : như thế có thể nói rằng không thể có một Kitô hữu sinh ra,
lớn lên và tồn tại mà không có phụng vụ. Ngoài các bí tích còn có các nghi lễ
bổ sung, tức là các á bí tích, có liên hệ đến toàn bộ cuộc sống con người và
Giáo Hội, chẳng hạn như cung hiến thánh đường, tuyên khấn trong các hội dòng,
làm phép người và vật dụng. Sau cùng, phụng vụ các giờ kinh không chỉ thánh hoá
mỗi ngày sống, mà còn thánh hoá cả những thời khắc chính cả ngày lẫn đêm. Không
có biến cố nào vượt ra khỏi phụng vụ.
Tuy
nhiên, phụng vụ là gì ? Theo nguyên ngữ, đó là công trình (tiếng Hylạp =
ergon) Thiên Chúa thực hiện cho Dân Người tức là Giáo Hội, đồng thời cũng là
công trình mà Dân (tiếng Hylạp = laos) thực hiện vì Thiên Chúa. Nói cách khác,
phụng vụ là công trình chung của Thiên Chúa và Giáo Hội, của Chúa Kitô và Giáo
Hội. Tham dự vào phụng vụ là đi vào một hoạt động thánh thiêng là hoạt động của
chính Thiên Chúa. Phụng vụ cũng là hoạt động cao nhất của con người vì hiệp
nhất cộng đoàn với Thiên Chúa của mình. Thật vậy, toàn thể hoạt động của chúng
ta đều được mời gọi kết hiệp với điều Thiên Chúa thực hiện và với chính Người.
Tuy vậy, vì chúng ta không thể kéo dài mãi sức lực của mình, cả cá nhân cũng
như cộng đoàn, nên chúng ta phải dành ra những thời khắc và những công việc để
đời sống tín hữu múc được sức mạnh từ Thiên Chúa. Con người là những hữu thể
thể lý và tinh thần : việc chúng ta tham dự vào “công trình của Thiên
Chúa” – từ ngữ dùng để chỉ phụng vụ luôn phải có cả bên trong lẫn bên ngoài,
không chỉ có tâm tư và tâm tình, nhưng còn có cả các cử chỉ, tiếng nói, y phục,
màu sắc và những biểu tượng khác.
Nếu
như người Kitô hữu chỉ có thể được sinh ra, được sống và phát triển nhờ tham dự
phụng vụ là hoạt động kết hiệp Giáo Hội với Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô vị Hôn Phu
yêu quý, thì chẳng có ý là trái ngược khi mà họ sống nhờ phụng vụ, kín múc từ
kho tàng các bản văn, cử chỉ và mầu nhiệm, lương thực phù hợp nhất cho sự tăng
trưởng thiêng liêng. Tập sách này mong muốn giúp cho các môn đệ Chúa Kitô đi
sâu vào phụng vụ “nguồn mạch đầu tiên và không thể thiếu từ đó các tín hữu kín
múc được tinh thần Kitô giáo đích thực, theo hiến chế phụng vụ của Công Đồng
Vaticanô II : “Mẹ Giáo Hội tha thiết ước mong toàn thể tín hữu được hướng
dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn ý thức và linh động. Do
chính bản tính, Phụng vụ đòi hỏi việc tham dự như thế ; lại nữa, nhờ phép
rửa tội, việc tham dự phụng vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của Dân Kitô
giáo” là dòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là chủng tộc thánh
thiện, là dân được tuyển chọn (x. 1Pr 2,9 ; 2,4-5) (PV 14).
Vào
cuối năm phụng vụ, lễ các Thánh hướng tâm trí người tín hữu về các cử hành
chung cuộc của thành Giêrusalem thiên quốc… Lời tiền tụng của ngày lễ này có
những lời sau : “Hôm nay Cha cho chúng con được vui mừng chiêm ngưỡng
thành Giêrusalem thiên quốc, là Mẹ chúng con. Khi đó, anh chị em chúng con là
toàn thể các Thánh muôn đời ca ngợi Cha”. Đó là thực tại hoàn thành, trọn hảo
giúp hiểu được những hoạt động chưa hoàn hảo và vụn vặt : nếu muốn hiểu rõ
hơn phụng vụ là gì, người tín hữu cần phải hướng nhìn về phụng vụ thiên quốc.
Trong
một đoạn văn rất cô đọng, thư gửi tín hữu Do Thái gợi lên ngày lễ vĩnh
cửu : “Anh em đã tới Xion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là
Giêrusalem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui,
dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên
trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh
hồn những con người công chính đã được nên hoàn thiện. Anh em đã tới cùng vị Trung
Gian Giao Ước Mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu
tới trời còn mạnh hơn cả máu của Aben” (12,22-24). Đến gần Thiên Chúa, đi vào
sự sống của Người : điều này chỉ có thể thực hiện được qua trung gian của
Đức Kitô. Đấng luôn hiện diện trong mọi cử hành phụng vụ. Nếu muốn định nghĩa
phụng vụ như cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Dân Người để cử hành Giao Ước, thì
chỉ có Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là Người, mới có thể thực hiện
việc tiến gần này, không phải bằng máu súc vật, như đã được thực hiện trong
Giao Ước Cũ tại núi Sinai (x. Xh 24,5-8), nhưng trong chính máu Người (x. Hr
9,11-14.18-20). Các tín hữu là những người rước máu Đức Kitô, trong hiến tế
Canvê được tái thực hiện là thánh lễ, phải trở thành những người thân thiết với
Đức Giêsu, phải sống cuộc sống của Người, và đi vào Giao Ước Mới và vĩnh cửu.
Trong cuộc đời trần thế này, họ chỉ tiến vào Giao Ước ấy cách tiệm tiến, họ lập
lại Giao Ước tạ ơn đó mỗi ngày vì tham dự chưa trọn vẹn vào Giao Ước – thực tại
hoàn hảo của Giao Ước, cuộc gặp gỡ chung cuộc giữa Thiên Chúa và Dân Người, tức
là Giáo Hội, chỉ diễn ra trong phụng vụ vĩnh cửu nơi Giêrusalem thiên quốc.
Giao
Ước Cũ, hình ảnh phụng vụ thiên quốc, đã được ký kết tại núi Sinai ; còn
Giao Ước Mới được ký kết một lần thay cho tất cả (x. Hr 7,27 ; 9,12.26)
trên đồi Canvê ; đối với mọi tín hữu, Giao Ước này sẽ chỉ hoàn thành trên
núi thánh là thành Giêrusalem mới. Chỉ trong giai đoạn cuối cùng này của lịch
sử cứu độ mà phụng vụ trở thành hoàn hảo, khi mà Thiên Chúa được thờ phượng
trong thần khí và trong sự thật, hoàn toàn phù hợp với sự chờ đợi (x. Ga
4,21-24).
Thật
khó để hình dung ra phụng vụ trên trời, mặc dù sách Khải huyền đã mạc khải cho
chúng ta đôi chút. Y phục, màu sắc, cử chỉ, bài ca, tất cả những yếu tố quen
thuộc này trong phụng vụ trần thế cũng thấy xuất hiện trong phụng vụ thiên
quốc. Bài đọc 1 ngày lễ các Thánh mô tả một đoàn người đông đảo : “Họ đứng
trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế.
Họ lớn tiếng tung hô : “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và
chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta”. Tất cả các thiên thần đều đứng chung quanh
ngai, chung quanh các kỳ mục và bốn con vật. Họ đều sấp mặt xuống, phủ phụ
trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô rằng :
“Amen,
xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta
Lời chúc tụng và vinh quang,
Sự khôn ngoan và lời tạ ơn
Danh dự, uy quyền và sức mạnh
Đến muôn thưở muôn đời,
Amen !” (7,9-12)
Đoạn
văn trên có các từ ngữ phụng vụ mà chúng ta sẽ đề cập đến trong các phần sau.
Ngay bây giờ cần đến nhấn mạnh nền tảng Ba Ngôi
trong phụng vụ. Các nghi lễ trong phụng vụ Thiên quốc diễn ra
chung quanh Ngai – tức là Chúa Cha, và Chúa Con, tức là Ngôi Lời Nhập Thể, Đức
Giêsu Kitô. Trong phần mở đầu chương cuối sách Khải huyền, ngôi thứ ba trong Ba
Ngôi Thiên Chúa được ám chỉ qua hình ảnh dòng sông sự sống : “Rồi Thiên
Thần chỉ cho tôi thấy một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha lê,
chảy ra từ ngai Thiên Chúa và của Con Chiên” (22,1). Việc cử hành vĩnh cửu Giao
Ước “dìm” người tín hữu vào Chúa Thánh Thần, sự thông chuyển tình yêu giữa Chúa
Cha và Chúa Con. Ngay từ trần thế này, tất cả mọi cử hành đều đưa người tín hữu
tham dự vào thực tại này, theo như giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II. “Trong
phụng vụ trần gian chúng ta tham dự qua việc nếm trước phụng vụ trên trời được
cử hành trong thành đô Giêrusalem, nơi chúng ta là lữ khách đang tuốn về, ở đó
Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa như một thừa tác viên của cung thánh, của
nhà tạm đích thực” (PV 8).
3. Phụng vụ “công trình của Thiên
Chúa”
Trong
Cựu Ước, công trình hay các công việc của Thiên Chúa là những kỳ công đem ơn
cứu độ do Đức Chúa thực hiện vì Dân Người và với Người (x. St 2,2-3; Is 5,12;
26,12; 28,21; 29,23; Ga 48,10; Hc 11,5). Trong Tin mừng, khi những người Dothái
đặt câu hỏi : “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa
muốn ?” Đức Giêsu đã trả lời : “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm,
là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6,28-29).
Theo
Thánh Phaolô, sứ mệnh của vị tông đồ hệ tại việc cộng tác vào công trình của
Thiên Chúa (1Cr 3,9; 15,58; 16,10) và tiếp tục công việc của Đức Kitô (Pl
2,30), được hoàn tất trong Mầu nhiệm Phục Sinh, tuyệt phẩm về tình yêu Thiên
Chúa và nhân loại.
Toàn
bộ cuộc sống Kitô hữu mang dấu ấn một sự cộng tác, một sự “đồng vận” giữa Thiên
Chúa và Dân Người. Cuộc sống ấy hệ tại việc thực hành các ân ban của Thiên
Chúa, cho đến khi các ân ban ấy được triển nở trong vinh quang. Trong lời tựa
tu luật, Thánh Biển Đức đưa ra lời nhắn nhủ sau đây.
“Trong
mọi lúc chúng ta phải tuân phục Thiên Chúa qua những ân huệ Người ban cho chúng
ta”, để chúng ta có thể theo Người đến vinh quang. Tuy nhiên, nếu như người
Kitô hữu kết hợp với các công trình của Thiên Chúa bằng tất cả đời sống đức
tin, thì vẫn có một hoạt động có giá trị nền tảng, đó là hoạt động phụng vụ.
Thật
vậy, phụng vụ là toàn bộ các hành động trong đó cô đọng sự cộng tác giữa Thiên
Chúa và Dân Người. Vì thế từ ngữ Latinh Opus Dei, vào các thế kỷ V và VI, nhất
là trong tu luật Biển Đức, đồng nghĩa với phụng vụ. Từ ngữ này vừa có nghĩa là
công trình Thiên Chúa thực hiện cho Dân Người và công trình Dân thi hành vì
Thiên Chúa của mình. Do đó thành ngữ “công trình của Thiên Chúa” có nghĩa đặc
biệt là phụng vụ, sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Dân Người, tức là Giáo Hội, để
cử hành Giao Ước.
Trong
phần đầu Hiến chế Phụng Vụ của Công Đồng Vaticanô II, từ ngữ “công việc” được
sử dụng để nhắc lại sự cộng tác giữa
Thiên Chúa và con người trong phụng vụ, khi ta đọc thấy “Vì là công việc của
Chúa Kitô tư tế và Thân Thể của Người là Giáo Hội, nên mọi việc cử hành phụng
vụ đều là hành vi chí thánh, vì không một hành vi nào khác của Giáo Hội có hiệu
lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp” (PV 7).
Có
một công thức cổ trong thánh lễ, được lập lại trong Hiến chế Phụng vụ số 2, đã diễn tả rõ
ràng thực tại tính của công trình của Thiên Chúa : “Lạy Chúa, xin thương
giúp cộng đoàn chúng con cử hành thánh lễ này cho xứng đáng. Vì mỗi khi chúng
con dâng lễ tưởng niệm cuộc khổ hình của Đức Kitô là chúng con được hưởng ơn
cứu chuộc của Người” (Lời
nguyện tiến lễ, CN II thường niên).
Phụng
vụ có liên hệ chặt chẽ với mầu nhiệm Giao Ước. Thật thế, Giao Ước là nòng cốt cho kế
hoạch ngàn đời của Thiên Chúa : Thiên Chúa là Đấng không cần có sự hiện
diện của con người, nhưng Người đã muốn liên kết với một dân, theo một cách
thức thân mật như tình yêu vợ chồng. Phụng vụ, công trình của Thiên Chúa và
cũng là công trình của Dân Người, là hành động toàn thể, trọn vẹn được đóng ấn
Giao Ước mà Thiên Chúa không ngừng đề ra cho con người. Như thế, dựa theo kinh
nghiệm về hôn nhân, người ta có thể hiểu phụng vụ như cuộc gặp gỡ giữa Thiên
Chúa và Dân Người, tức là Giáo Hội, để cử hành Giao Ước.
Trong
lịch sử cứu độ, các nền phụng vụ được phân biệt qua các cử hành Giao Ước :
“Nhiều lần Cha đã Giao Ước với loài người” (Kinh tạ ơn IV). Phụng vụ của các
tôn giáo gọi là dân ngoại có thể nại đến Giao Ước được ký kết với ông Noê (St
9,8-17). Giao Ước ký kết với tổ phụ Ápraham (St 15; 17) và được hoàn tất trong
hiến tế của Ixaác (St 22) nhắm đến lợi ích của cả một dân.
Quả
thực, Ítraen, xét như là Dân của Thiên Chúa, được sinh ra từ phụng vụ Giao Ước
long trọng tại núi Sinai. Đó là ngày Đại hội của toàn dân (Đnl 9,10; 10,4;
18,16) khi mà ông Môsê lấy máu của hiến tế, đổ một nửa trên bàn thờ tượng trưng
cho Thiên Chúa, một nửa vẩy trên dân và nói : “Đây là máu Giao Ước, Đức
Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24,8).
Những
cam kết này không được dân tuân thủ, và các ngôn sứ gọi đó là tội ngoại tình.
Sự bất trung đã mau chóng được tỏ lộ qua hình ảnh con Bò vàng (Xh 32). Thế
nhưng tình yêu Thiên Chúa dành cho dân – Hôn Thê, vẫn luôn được thực hiện qua
việc nhắc lại Giao Ước. Thiên Chúa luôn tỏ ra ân cần, đầy tình yêu thương “nhân
hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín. Giao Ước Sinai, hoàn
toàn phù hợp với những hoàn cảnh cử hành thời Xuất hành và các Lêvi, nay đã
được hiện tại hoá trong các cử hành phụng vụ hằng ngày, hằng tuần và hằng năm
của dân Ítraen. Nhưng, dần dần việc tưởng niệm theo nghi thức phụng vụ của Giao
Ước Mới được công bố qua lời loan báo của các ngôn sứ (Gr 31,31-34), và từ vị
“Thiên Thần của Giao Ước”, vị phải đến trong đền thờ để khởi đầu một hy lễ tinh
tuyền được dâng lên Thiên Chúa từ bình minh tới lúc chiều tà (Mc 3,1.3-4; xem
phần đầu kinh tạ ơn III).
Đức
Giêsu, Đấng là Thiên Chúa và cũng là người thật, chính là Giao Ước đầu
tiên,“hiến lễ vĩnh viễn” (Hr 10,14), Người đến mở đầu nền phụng vụ cho Dân
Mới của Thiên Chúa tức là Giáo Hội. Trong bữa tiệc ly, người Tôi tớ đích thực
của Thiên Chúa (x. Is 52,13-53,12), Chiên Thiên Chúa sẽ xoá bỏ tội trần
gian qua cái chết trên đồi Canvê để lại cho các tông đồ bí tích là hy lễ của
Người, hy lễ tưởng niệm Giao Ước Mới. Những lời thánh hiến rượu thành máu Người
quy chiếu rõ ràng về Giao Ước Sinai, đó cũng là những lời làm cho hy lễ của Đức
Giêsu “được hoàn thành”. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người
được tha tội” (Mt 26,28; x. Xh 24,8).
Bắt
đầu từ đồi Canvê, phụng vụ tập trung vào bí tích Thánh thể, làm cho các chi thể
của Giáo Hội gia nhập vào Giao Ước Mới và vĩnh cửu, cho đến khi Giao Ước này
được hoàn thành nơi Giêrusalem thiên quốc. Ba thời điểm quan trọng của phụng vụ
trong lịch sử cứu độ là núi Sinai, đồi Canvê và thành Giêrusalem thiên quốc.
Chỉ nơi thành thánh này “công thức Giao Ước” mới được chứng thực hoàn
toàn : “Họ sẽ là Dân của Người, còn chính Người là Thiên Chúa ở cùng họ”
(Kh 21,3; x. Xh 6,7; Lv 26,12; Đnl 26,17-18; Gr 7,23; 11,4; 30,22;
31,1-33; 32,38; Ed 11,20; 14,11; 37,2; 2Cr 6,16). Có thể nói, mỗi khi cử hành
phụng vụ, Thiên Chúa trở thành Thiên Chúa đúng nghĩa hơn cho chúng ta, tức là
Người trao ban chính Người cho chúng ta nhiều hơn, và chúng ta cũng trao hiến
trọn vẹn hơn cho tình yêu Người.
Nói
đến phụng vụ, từ ngữ “cử hành” sẽ được nhắc đến nhiều lần. Đây là một từ ngữ
được sử dụng chung cho mọi cộng đoàn phụng vụ. Vậy cử hành là gì ?
Theo
dân gian, cử hành một nghi thức, một ngày lễ hay một dịp kỷ niệm, đó là sống
cách trọn vẹn một biến cố, làm nổi bật biến cố ấy, là hoàn tất biến cố cách
long trọng. Thật thế, một cử hành thường bao hàm sự toàn thể, nó có tính cách
công cộng, lễ hội, hữu hình và theo nghi lễ, dù đó là dịp lễ của gia đình, của
quốc gia, hay tôn giáo. Trong lãnh vực thiêng thánh hay phụng vụ, tính cách
toàn thể hay trọn vẹn này là nét cốt yếu : trong phụng vụ, Thiên Chúa quy
tụ Dân Người để trọn vẹn cuộc sống của họ đi vào Giao Ước.
Tìm
hiểu về từ nguyên sẽ giúp hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ này. Theo tiếng Latinh, cử
hành – Célebrer có nghĩa là nhiều, số đông. Một nơi để cử hành có nghĩa là một
nơi chốn thường được lui tới : một lễ được cử hành có nghĩa là nhiều người
tham dự, từ ngữ cũng có thể sử dụng cho người và sự việc với ý nghĩa là nhiều
người biết đến.
Vì
thế “cử hành – Celebrare” có nghĩa trước tiên là “một số đông người lui tới một
nơi chốn”, rồi “đám đông tham dự một lễ hội”, “mừng lễ với số đông, cách trọng
thể”. Theo hướng đó, celebrer – cử hành cũng có nghĩa là “tiến đến”, “tụ họp
đông đảo”, “quy tụ”, và do đó liên hệ đến sự trọng thể, lễ hội.
Các
nhận định về tầm nguyên này giúp đi tới thực tại Thánh Kinh nền tảng về Dân
Thiên Chúa, Dân được Thiên Chúa quy tụ để thực thi cách trọn vẹn đời sống Giao
Ước. Như thế, một “cử hành” có nghĩa là một hành vi trọn vẹn nối kết Dân của
Giao Ước với Thiên Chúa của mình và đưa họ vào sự sống của Người. Dù người tham
dự đông đảo hay ít ỏi, thì cử hành vẫn là của toàn thể Giáo Hội, “một đàn em
đông đúc” (Rm 8,29), những người đã được Đức Kitô đổ máu ra mà cứu chuộc
(Mt 26,28), và đưa về hợp nhất với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Khi
vị linh mục “cử hành”, Ngài luôn thi hành như Đức Kitô trong hiện diện nơi
mình, một nhiệm vụ “quy tụ”, “trong sự hiệp nhất của Thánh thần” : cùng
với linh mục và trước mặt linh mục, cộng đoàn trở thành cách đúng nghĩa hơn, đó
là Dân Thiên Chúa, thân mình Đức Kitô, đền thờ Chúa Thánh Thần (lời tiền tụng
thường niên VIII), hay “cộng đoàn những người được sinh ra đầu tiên”, “một đoàn
đông đảo” (Kh 7,9; 49,4.6). Như vậy, dù thế nào chăng nữa, cộng đoàn phụng vụ
luôn là một cử hành, vì đó là đại diện cho toàn thể Dân Thiên Chúa là sống Giao
Ước cùng với Đấng Cứu Chuộc mình, để sống sự sống của Chúa Ba Ngôi.
Vinh
quang của Thiên Chúa Ba Ngôi không chỉ là mục đích của phụng vụ, như người tín
hữu sẽ sống vào thời cánh chung, nhưng vinh quang ấy đã hiện diện ngay trong
những cử hành hiện tại.
Theo
nguyên ngữ, vinh quang – doxa có
nghĩa là nhận định về một ai đó, sự đánh giá về một nhân vật nổi danh. Theo
tiếng Hylạp, “vinh quang” có nghĩa là trong ánh sáng và sự rực rỡ, nó bao hàm
trước hết một sự phát tán tiếng tốt từ một nguồn, và ngược lại một sự suy tư về
“vinh quang”, như vậy có nghĩa là từ nơi phát ra và nơi phản chiếu có một ánh
sáng mà không phải là ảo tưởng.
Chỉ
có Chúa Cha là nguồn mạch sự sáng hoàn hảo (x. Gc 1,17) của vinh quang
(chính là đời sống của Chúa Ba Ngôi) ; Người chiếu toả ánh sáng trên mọi
loài qua Chúa Con, “là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản
thể Thiên Chúa” (Hr 1,3), chính Ngôi Lời ấy tôn vinh Chúa Cha cách đích
thực. “Thần khí vinh hiển” (1Pr 4,14) là trung gian của nguồn sáng và sự phản
chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương ; như vậy chúng ta được biến
đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi
tác động của Chúa là Thần Khí (2Cr 3,48).
Sự
trao đổi vinh quang này, ngay trong đời sống Ba Ngôi, đã làm nên cấu trúc của
phụng vụ, trước khi “tôn vinh”, phải lãnh nhận vinh quang. Vinh quang này được
thông ban cho tín hữu do Chúa Cha qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, và tùy
theo mức độ người tín hữu đón nhận Thần Khí Đức Kitô mà họ tôn vinh Thiên Chúa.
Khi Đức Giêsu cầu nguyện trong lời nguyện thánh hiến : “Xin tôn vinh Con Cha để Con Cha
tôn vinh Cha” (Ga 17,1) lại không phải là xác định rằng toàn bộ con người và
cuộc đời của Chúa Con, cũng như của lễ trên đồi Canvê là nhằm để bày tỏ điều ấy
cách rõ ràng sao ? Đức Giêsu thánh hoá chính mình, dâng hiến chính mình để
thông chuyển vinh quang của Chúa Cha mà Người không ngừng lãnh nhận và trao đổi
(17,19.22).
Bí
tích Thánh Thể, cũng như mọi cử hành phụng vụ khác, đưa người tín hữu vào trung
tâm của vinh quang này, trong khi chờ đợi ngày được đưa vào phụng vụ thiên quốc
nơi họ được tháp nhập hoàn toàn vào việc ca tụng vinh quang (x. Ep
1,6.12.14). Đối với người Dothái, vinh quang không làm nổi bật lên sự rực rỡ
sáng ngời, nhưng cho thấy sức nặng khách quan của tạo vật. Kabod có nghĩa là
“sức nặng”. Cũng vậy, sức nặng của tạo vật thuộc về Thiên Chúa, đến nỗi sự tỏ
hiện thần linh hoàn toàn lấn át.
Mặc
khải cho thấy dần dần rằng sự đậm đặc của đời sống thần linh được thành hình do
một sức nặng này là tình yêu : Tân Ước cho thấy rằng Thiên Chúa là Ba Ngôi
luôn trao tặng và nhận lãnh Tình yêu và sức ép của tình yêu Ba Ngôi không nhằm
để nghiền nát nhưng ôm chặt lấy.
Trong
phụng vụ, các tín hữu đều hiện diện ở trung tâm sức nặng của Ba Ngôi, là tình
yêu được thông ban và canh tân trong Chúa Thánh Thần.