PHỤNG VỤ CỦA GIÁO HỘI – P. 3
Nguyên tác: La Liturgie de
L’Église của Dom Robert le Gall,
Đan viện Trưởng đan viện Sainte Anne, Kergonan
Chuyển ngữ: Giuse Nguyễn Cao Luật, OP.
——————-
1. Đức Kitô,
vị Trung Gian của Giao Ước Mới
Trong phụng vụ Kitô giáo, mầu nhiệm nhập thể có vị trí rất quan trọng.
Người trung gian là người thi hành nhiệm vụ nối kết giữa những cá nhân hay các
nhóm, với mục đích liên kết hay hoà giải họ với nhau. Trong thư thứ nhất gửi
ông Timôthê, thánh Phaolô viết : “Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng
Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người. Đức Giêsu Kitô – Con Người thật, Đấng
đã tự hiến làm giá chuộc mọi người (2,5-6). Ông Môsê là trung gian trong Giao
Ước Sinai, nhưng ông chỉ là một con người, mặc dù ông được chia sẻ một phần mối
thâm tình với Thiên Chúa cũng như một phần vinh quang thần linh. “Nhưng hiện
nay, Đức Giêsu được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của
một Giao Ước tốt đẹp hơn, Giao Ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn”
(Hr 5,6 ; x. 9,15 ; 12,24).
Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và cũng là người thật, nên Người thực hiện
cách hoàn hảo việc nối kết giữa Thiên Chúa và con người. Ngôi Lời Nhập Thể là
Giao Ước Mới và vĩnh cửu, không gì có thể phá hủy được. Nơi Đức Giêsu, thiên tính
và nhân tính hoàn toàn liên kết với nhau. Do vậy, Đức Kitô chính là cầu nối
Thiên Chúa với con người, tức là thi hành vai trò trung gian.
Nếu như kể từ khi nhập thể, Đức Kitô là Giao Ước – theo cách gọi của
ngôn sứ Malakhi, sứ giả của Giao Ước (Ml 3,1), và nếu như phụng vụ được định
nghĩa là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Dân Người để cử hành Giao Ước, thì vai
trò trung gian của Đức Kitô giữ vị trí trọng tâm trong phụng vụ. Có phải vô
tình chăng khi mà văn kiện đầu tiên của Giáo Hội về phụng vụ mang tên Đấng
Trung Gian giữa Thiên Chúa và con người – Mediator Dei ? (Thông điệp
của Đức Giáo Hoàng Piô XII ban hành ngày 20-11-1947). Chức tư tế của Đức Kitô
đặt nền tảng trên vai trò trung gian, hành động trọng tâm của Người là hy tế
trên đồi Canvê luôn được hiện tại hoá trong Thánh lễ. Nếu như qua mầu nhiệm
Nhập Thể, Đức Kitô không có vai trò trung gian thì công cuộc cứu độ thực hiện
tại đồi Canvê sẽ không có được tầm mức quan trọng. Nhưng vì Đức Giêsu là Thiên
Chúa thật và là người thật nên hy lễ của Người là Giao Ước Mới và vĩnh cửu.
Theo Hiến chế Phụng Vụ của Công Đồng Vaticanô II, toàn bộ phụng vụ là “việc
thực thi chức vụ tư tế của Đức Kitô, thực thi vai trò trung gian và cứu độ,
hoạt động nối kết Giáo Hội với cuộc sống của Ngôi Lời.
Sự sống của Chúa Con trong Chúa Ba Ngôi hệ tại việc đón nhận Chúa Cha,
Đấng sinh ra Chúa Con trong tình yêu là Chúa Thánh Thần. Chúa Con quy hướng về
Chúa Cha cũng nhờ sức mạnh của Thánh Thần. Sứ mệnh của Chúa Con và sứ mệnh của
Chúa Thánh Thần cùng kết hợp với nhau. Ngôi Lời nhập thể, do Chúa Cha gửi đến,
được sinh ra trong tình yêu và trao ban tình yêu, tức là Chúa Thánh Thần. Hoạt
động trung gian của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, trong lịch sử cứu độ cũng như
trong đời sống vĩnh cửu của những người được tuyển chọn, chính là bảo đảm cho
các con cái của Thiên Chúa khả năng sống đời sống của Ba Ngôi, trong tư cách là
những người con.
Trong đời sống Ba Ngôi, có thể nói, Thánh Thần cũng thực hiện vai trò
“trung gian” theo nghĩa Người là dây nối kết, là “nụ hôn” và sự hiệp nhất giữa
Chúa Cha với Chúa Con. Sứ mệnh trung gian của Ngôi Lời nhập thể và của Chúa
Thánh Thần vì lợi ích của các thụ tạo được cứu chuộc và thánh hoá, giúp cho họ
đi vào trong dòng sông lưu chảy của phụng vụ vĩnh cửu. Căn bản của phụng vụ đó
chính là sự trao đổi không cùng giữa Chúa Cha và Chúa Con, hiệp nhất với Chúa
Thánh Thần.
2. Chúa Thánh
Thần : Hoa trái thần linh của Giao Ước
Nối dài trực tiếp vai trò trung gian của Đức Kitô Thượng Tế, Thánh Thần
là điểm gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Dân Người, như là hoa trái thần linh của Giao
Ước.
Là gió, là hơi thở (nghĩa của từ Spiritus theo tiếng Latinh), Chúa Thánh
Thần – theo Cựu Ước, là sức mạnh thần linh tức là nguồn mạch sự sống (St 1,2).
Là nguyên lý hoạt động, Thánh Thần thổi vào con người một hơi thở sự sống –
Spiraculum vitae, để họ hoàn toàn thuộc về sự sống của Thiên Chúa. Một sinh vật
đều sống nhờ Thánh Thần Thiên Chúa (x.Tv 103, 29-30), nhưng những người được
trao sứ mệnh này luôn mang dấu ấn của Người cách đặc biệt : thẩm phán,
vua, tư tế và ngôn sứ (St 41,38 ; Ds 24,30 ; Tl 3,10 ; 1 Sm
10,10-12 ; 16,13-14). Thánh Thần Thiên Chúa tấn phong Đấng Mêsia để tái
sinh động hoá toàn thể Dân Giao Ước, bởi vì đám dân này đã bất trung nên không
còn khả năng tiến dâng Thiên Chúa việc phụng tự “thiêng liêng” (Ed 37 ; Tv
49,50).
Nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đã thụ thai trong cung lòng
Đức Maria, và trở nên Đấng Mêsia tràn đầy Chúa Thánh Thần, với sự hiện diện
sống động phong phú (x. Ga 1,33 ; 3,34), và được Thánh Thần giải
thoát vào giờ được tôn vinh trên thập giá (Ga 7,39 ; 19,30). Sau đó Thánh
Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa vào ngày lễ Hiện Xuống
giúp cho các ông đón nhận và thông hiểu sứ mệnh của Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần
đã khai sinh Giáo Hội. Và trong tiến trình thánh hoá, Chúa Thánh Thần đã giúp
Giáo Hội hiểu rõ về Đức Giêsu, gợi hứng cho Giáo Hội và tiếp tục hoạt động
trong thế giới (kinh tạ ơn 4). Chính Người kết hợp với nước và máu (Thanh tẩy
và Thánh thể) để làm chứng về Đức Giêsu và đưa các tín hữu đi vào cuộc sống của
Chúa Con nhờ kêu lên “Ápba – Cha ơi” (Ga 19,34 ; 1 Ga 5,6-8 ; Ga
4,6 ; Rm 8,15).
Sau khi Đức Giêsu lên trời, Thánh Thần luôn được Chúa Cha và Chúa Con
gửi đến cho Giáo Hội. Chính trong Người mà các tín hữu được dìm trong bí tích
Thanh Tẩy (Ga 3,4-8) ; chính trong Người mà họ được ghi dấu ấn khi lãnh
nhận bí tích Thêm sức. Người là Đấng bảo trợ các tín hữu (Ga 14,16.26 ;
16,7), là Đấng được khẩn cầu ngự đến trên lễ vật, và qua các linh mục đã được
Người thánh hiến, Người thực hiện việc tưởng nhớ ơn cứu chuộc trong hiến tế tạ
ơn. Trong mọi bí tích, Thánh Thần là Đấng hoạt động và cũng là Đấng được trao
ban. Người là ân huệ tuyệt hảo, là Đấng hoàn thành công trình của Thiên Chúa.
Khi các tín hữu lãnh nhận Thánh Thần, như Chúa Con, họ được Chúa Cha
sinh ra và trở thành những người có thể kêu lên “Ápba – Cha ơi” cùng với Chúa
Con.
Phụng vụ, cũng như toàn bộ cuộc sống Kitô giáo làm cho người tín hữu
lãnh nhận và trao ban Thần Khí. Phụng vụ trần gian là bảo chứng cho phụng vụ
thiên quốc, tức là sự thông chuyển tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con trong
Chúa Thánh Thần. Bởi vậy, Thánh Thần là “Trung gian” của phụng vụ trong vinh
quang.
3. Giám mục
“nhà phụng vụ” tuyệt hảo
Đức Kitô là Trung Gian của Giao Ước Mới. Người là Thiên Chúa thật và
cũng là người thật, nên Người là cầu nối giữa thiên tính và nhân tính. Khi về
trời, để tiếp tục chuyển cầu cho nhân loại (Hr 7,25), Đức Kitô đã muốn qua
các bí tích, trao quyền cho người phàm thực thi chức vụ tư tế của Người. Những
người này là những dấu chỉ hữu hiệu để tiếp tục sứ vụ trung gian ơn cứu độ. Họ
là giám mục- những người kế vị các tông đồ, và các linh mục- những người tham
dự vào chức tư tế của các giám mục.
Giám mục – episkopos theo tiếng Hylạp, có nghĩa là một người coi sóc
những người mình có nhiệm vụ cai quản. Trong Giáo Hội sơ khai, giám mục là các
“trưởng lão” (presbuteroi) được các tông đồ giao nhiệm vụ “coi sóc” các cộng
đoàn tín hữu. Dường như lúc ban đầu, nhiệm vụ này được thi hành do cả cộng đoàn
các trưởng lão (Cv 20,28). Ít lâu sau, giám mục được hiểu là người được trao
trách nhiệm coi sóc một Giáo Hội (1 Tm 3,1-7 ; Tt 1,7-9), có các linh
mục phụ giúp (Tt 1,5 ; 1 Tm 5,17), cùng các phó tế (1 Tm
3,8-13). Như vậy, giám mục trở thành dấu chỉ và sự bảo đảm cho sự hiệp nhất của
một Giáo Hội, là người kế vị các tông đồ để coi sóc cộng đoàn do việc đặt tay
(2 Tm 1,6).
Sau thế kỷ thứ II, thánh Ignatio thành Antiokia đã nhiều lần nhấn mạnh
đến vai trò trọng tâm của giám mục, hình ảnh siêu việt của Chúa Cha, Chúa Kitô
và các tông đồ. Sứ vụ giám mục, với sự trợ giúp của linh mục đoàn và các phó tế
được thể hiện rõ nhất trong việc cử hành Thánh lễ : “Vậy hãy cận thận
trong việc tham dự vào Thánh lễ, vì chỉ có một thân thể Đức Kitô Chúa chúng ta
và một chén để kết hợp chúng ta với máu Người ; chỉ có một bàn thờ, cũng
như chỉ có một giám mục cùng với linh mục đoàn và các phó tế, những người bạn
của tôi cùng có nhiệm vụ phục vụ (Thư gửi tín hữu Philadelphia 4).
Ít lâu sau đó, truyền thống nhìn nhận nơi con người vị giám mục có sự
hiện diện đặc biệt của Đức Kitô với Giáo Hội của Người. Được liên kết với tất
cả những người kế vị các tông đồ, nhất là người kế vị thánh Phêrô ở Rôma, nên
giám mục có trọn vẹn chức thánh. Như Ngôi lời Nhập thể được Chúa Cha sai đến
“Không phải để người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mt 20,28), giám mục cũng
nhận sứ mệnh tiếp tục thực thi công trình cứu chuộc cho một Giáo Hội cụ thể mà
Ngài được trao trách nhiệm.
Giám mục là Thầy dạy, mục tử và tư tế, là dấu chỉ hữu hiệu, là bí tích
sống động, là bảo đảm sự hợp nhất của Giáo Hội Ngài coi sóc với Đức Kitô. “Việc
phục vụ” của Giám mục đạt tới đỉnh cao trong việc long trọng cử hành bí tích
Thánh Thể, bởi vì việc giảng dạy và cai quản của những người kế vị các tông đồ
nhằm quy tụ Dân Thiên Chúa trong bí tích hiệp nhất. Thánh lễ, dưới sự chủ toạ
của giám mục, với các linh mục đồng tế, và các phó tế “phục vụ”, là đỉnh cao
của phụng vụ Giáo Hội, vì đó là sự quy tụ các thành phần khác nhau trong sự
hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi, nhờ hy lễ của Đức Kitô và ân huệ của Chúa Thánh
Thần.
Vì giám mục không thể đích thân quy tụ hết mọi cộng đoàn trong giáo
phận, nên ngài có các linh mục trợ giúp, cùng với các phó tế.
Để tấn phong giám mục, cần có tối thiểu ba giám mục, với mục đích chuẩn
nhận vì được tuyển chọn vào hàng ngũ Giám mục, kế vị tông đồ đoàn. Nghi thức
chính yếu trong việc tấn phong giám mục là việc đặt tay của các giám mục, cùng
với lời nguyện tấn phong mà phần chính sẽ do toàn thể các giám mục cùng
đọc : “Lạy Chúa, giờ đây, xin ban xuống trên linh mục này người Cha sẽ
tuyển chọn, sức mạnh của Chúa là Thần Khí tối cao. Cha đã ban Thánh thần cho
Đức Giêsu Kitô, Con chí ái của Cha, và Người đã trao lại cho các tông đồ là
những vị đã thiết lập Giáo Hội ở khắp nơi, như là thánh điện của Cha để ca tụng
vinh quang và nguyện danh Cha mãi mãi”.
Công thức cho thấy rõ sứ mệnh của Giám mục có mục tiêu là Phụng
vụ : quy tụ Giáo Hội để Giáo Hội trở nên đền thờ cho vinh quang Thiên
Chúa, vang lên lời ca tụng Thiên Chúa (Kh 21). Những nghi thức phụ như xức dầu
Thánh trên đầu, trao sách Tin mừng, trao nhẫn và gậy, đều cho thấy rõ vai trò
của Giám mục là thủ lãnh, người hướng dẫn, Hôn Phu và thầy dạy của Giáo Hội,
thay mặt Đức Kitô, vị Trung Gian duy nhất của Giao Ước Mới.
4. Linh mục,
người ở vị trí bản lề của hai thế giới
Dù rằng số chủng sinh vẫn còn nhiều, nhưng không phải dễ để trở thành
linh mục, không phải cứ muốn là được. Từ Công Đồng Vaticanô II, việc thăng tiến
giáo dân đã có thể được giải thích đây đó như một thứ giải phóng. Trong thực
tế, linh mục và tín hữu bổ sung cho nhau : cộng đoàn cần có một linh mục,
còn linh mục được truyền chức để phục vụ một cộng đoàn Giáo Hội. Vì lý do thiếu
linh mục người ta đã phải tổ chức hình thức mang tên là “cộng đoàn Chúa nhật
không có linh mục”. Những cộng đoàn này không thể loại trừ các linh mục, trái
lại giúp khám phá tính cách duy nhất trong sứ vụ của linh mục.
Vậy linh mục có thể phục vụ điều gì ? Điều quan trọng nhất không
phải là điều linh mục làm, nhưng điều ngài làm là trở thành người cộng tác với
giám mục, nối dài sứ vụ của giám mục. Linh mục là sự hiện diện cụ thể của Đức
Kitô cho Giáo Hội, là bảo đảm sống động cho sự tháp nhập thật sự của tín hữu
với Đức Giêsu. Phụng vụ là nguồn mạch và đỉnh cao của toàn bộ cuộc sống Giáo
Hội và đó cũng là sứ mệnh của linh mục. Phụng vụ là một mầu nhiệm của Giao Ước
Mới, của sự hiệp thông, hợp nhất. Phụng vụ thực hiện việc tháp nhập tình yêu
giữa Thiên Chúa và Dân Người, và được Kinh Thánh diễn tả qua hình ảnh Hôn Phu
và Hôn Thê. Do đó, nếu như cộng đoàn là sự hiện diện của Hôn Thê, thì linh mục
là sự hiện diện của Hôn Phu.
Để Giáo Hội tại trần thế này có được xác tín về sự tháp nhập với Hôn
Phu, về việc sống mầu nhiệm Giao Ước, cần phải có những dấu chỉ sống động và
hữu hiệu về sự hiện diện của Người, hay nói cách khác, cần có những bí tích của
Đức Giêsu Kitô – Hôn Phu, Đức Kitô – Thủ Lãnh. Trước mặt cộng đoàn, linh mục,
chính là Đức Kitô. Trong Giáo Hội, chỉ có các giám mục và các linh mục có thể
hành động thay thế và nhân danh Đức Kitô, theo cách diễn tả truyền thống và
được Công Đồng Vaticanô II lập lại : “Các linh mục thực thi thánh vụ mình
cách tuyệt hảo nhất là trong thánh lễ hoặc cộng đồng tạ ơn, trong đó các ngài
thay thế Chúa Kitô công bố mầu nhiệm của Chúa, kết hợp những ước nguyện của tín
hữu vào hy tế của thủ lãnh họ, đồng thời trong hy tế thánh lễ, các ngài hiện
tại hoá và áp dụng hy tế duy nhất của Tân Ước và là hy vật tinh tuyền của Chúa
Kitô đã một lần tự dâng hiến lên Chúa Cha cho tới khi Chúa lại đến” (GH 28).
Như ý nghĩa tiếng Hylạp – presbuteros, linh mục thi hành vai trò của
“trưởng lão”, bao hàm ý nghĩa “kính trọng”, và kèm theo đó là vai trò “người
đại diện”. Nếu như linh mục đại diện Chúa Kitô nơi các tín hữu, giúp cho cộng
đoàn kết hợp với Đức Kitô và như thế là bước vào đời sống thần linh, thì linh
mục cũng đại diện cho các tín hữu trước Thiên Chúa : Ngài là phát ngôn
viên của cộng đoàn, có tư cách cầu nguyện với Đức Kitô và nhờ Người, cầu nguyện
với Chúa Cha nhân danh toàn thể Giáo Hội. Vì tính cách chuyển cầu đặc biệt này,
linh mục thi hành nhân danh Giáo Hội. Noi theo Đức Kitô, các giám mục và các
linh mục là những người có vị trí bản lề giữa thế giới thần linh và thế giới
người phàm : các ngài là những người trung gian, là những cây cầu giữa
Thiên Chúa và Con người, và vì thế bất khả thay thế. Trong Chúa Con, các ngài
trao ban Thiên Chúa cho con người để dâng tiến con người cho Thiên Chúa.
5. Phó tế,
dấu chỉ của Đức Kitô Tôi Trung
Nhiệm vụ này thỉnh thoảng xuất hiện trong các buổi cử hành phụng vụ.
Nhân vật này là ai ? Không phải là linh mục, không phải là giáo dân, dường
như không thuộc về một loại nào cả. Cho đến gần đây, chức phó tế là một giai
đoạn bắt buộc để tiến lên chức linh mục, nhưng rất ngắn ngủi. Ngày nay, không
chỉ các phó tế vĩnh viễn sống đời thánh hiến, nhưng còn có những người đã lập
gia đình được lãnh nhận chức này, trong khi các linh mục thuộc Giáo Hội Latinh
vẫn sống độc thân. Tại sao lại có những nét đặc thù này ?
Phó tế là dấu chỉ bí tích về Đức Kitô – Tôi Tớ (theo tiếng Hylạp,
diakonos nghĩa là tôi tớ). Mầu nhiệm “Người Tôi Tớ của Thiên Chúa” đã được ngôn
sứ Isaia loan báo trong những bài ca thời danh được gọi là “các bài ca của
Người Tôi Tớ” (42,1-9 ; 49, 1-6 ; 50, 4-11 ; 52,13 ;
53,12) : “Nếu ngươi chỉ là tôi tớ của Ta để tái lập các chi tộc Giacóp, để
dẫn đưa các người Ítraen sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta
đặt người làm ánh sáng muôn dân, để người đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng
trái đất” (49,6). Người Tôi Trung sẽ thực hiện sứ vụ phổ quát của mình qua việc
sẵn sàng đón nhận hy tế. Đức Giêsu Kitô chính là người tôi trung này, như Người
xác nhận : “Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để
phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Tất cả các
Kitô hữu với tư cách là những người đi theo Đức Kitô, cũng phải có khả năng
“trao tặng cuộc sống của mình” để “phục vụ”. Tuy nhiên, để việc phục vụ cứu độ
được bảo đảm vững vàng hơn nhằm mưu ích cho mọi người, Đức Giêsu đã chủ tâm lo
liệu cho Giáo Hội của Người có những thừa tác viên xứng hợp để tiếp tục sứ mệnh
của Người : đó là ông Phêrô, các tông đồ, những người kế vị các ngài và
các cộng tác viên. Khi Giáo Hoàng ký tên là : “Tôi tớ của các tôi tớ”, đó
không chỉ là một cách nói, nhưng có nghĩa là vị giám mục, với sự cộng tác của
các linh mục, trong việc “phục vụ” vương giả những người đã được thanh tẩy.
Tuy nhiên, giám mục và những người tham dự vào chức tư tế của ngài, tức
là các linh mục, cũng không thể là những dấu chỉ để nói đầy đủ về Đức Giêsu –
Tôi Trung, vì nhiệm vụ cai quản và giảng dạy của các ngài quá nặng nề. Do đó,
phó tế là dấu chỉ bí tích về Đức Kitô – Tôi trung, là sự biểu lộ hữu hình và cụ
thể về tác vụ phục vụ thánh.
Ngoài trình thuật thiếp lập bảy phó tế đầu tiên để phục vụ bàn ăn (Cv
6,1-6), thì nền tảng Thánh kinh về chức phó tế có thể tìm thấy trong những lời
nói và hành động của Đức Giêsu khi trình bày quyền bính trong Giáo Hội như là
một việc phục vụ (Mt 20,24-28) ; và việc rửa chân cho các môn đệ trong Ga
13,2-17). Phó tế là những người tham gia vào sứ vụ phục vụ của các giám mục,
những người kế vị các tông đồ, nên phó tế do giám mục truyền chức. Việc truyền
chức này hệ tại việc đặt tay, và lời nguyện thánh hiến. Sau đó phó tế được nhận
dây Stola và áo phó tế – Dalmatica. Áo này xuất phát từ vùng Dalmatie (ngày nay
thuộc Nam Tư). Vào khoảng thế kỷ IV – V, áo này cùng với dây Stola trở thành y
phục riêng của phó tế như một dấu chỉ sống động về việc phục vụ trong Giáo Hội.
Một công thức chào rất quen thuộc, vẫn được giám mục, linh mục, phó tế
sử dụng để chào các tín hữu khi bắt đầu cử hành phụng vụ. Công thức này có
nguồn gốc lâu đời, có lẽ từ đầu thế kỷ thứ III.
Dominus Vobiscum – Chúa ở cùng anh chị em là lời chào đẹp nhất người ta
có thể gửi đến các Kitô hữu : ước gì Thiên Chúa cư ngụ nơi anh chị em,
đồng hành với anh chị em làm cho anh chị em được sống động ! Công thức này
được rút ra từ Thánh kinh : “Ta sẽ ở với người”. Đó là bảo đảm nền tảng mà
Đức Chúa cam kết với ông Môsê, khi trao cho ông sứ mệnh khó khăn là đưa dân
Dothái ra khỏi đất Aicập (Xh 3,12 ; 18,19). Toàn thể dân Ítraen đều được
thừa hưởng lời cam kết kỳ diệu này (Đnl 20,1). Trong dân này, những ai lãnh
nhận một sứ vụ đặc biệt để phục vụ đều cảm thấy được vững mạnh nhờ cùng một lời
hứa : “Chúa ở với người”. Vì vậy, ông Giôsuê, các thủ lãnh, vua Đavít và
các vua trung tín, các ngôn sứ đều nhận được bảo đảm này. Khi đến gặp Đức
Maria, sứ thần Gáprien đã chào : “Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28). Danh xưng
Emmanuel, một tên gọi của Đấng Cứu Thế (Is 7,14 và Mt 1,23) lại không có nghĩa
là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta sao ?”.
Ở cuối sách Khải huyền, chính Thiên Chúa đã xác định về thành Giêrusalem
mới : “Đây là Nhà Tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng
với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ”
(21,3).
Trong nhãn quan này, ta hiểu được chiều sâu của lời chào. Dominus
vobiscum – Chúa ở cùng anh chị em. Linh mục mở rộng đôi tay khi đọc lời chào
vừa diễn tả vừa thực hiện ân sủng là sự hiện diện của Thiên Chúa, từ đó hình thành
sự hiệp thông trong cộng đoàn mà Thiên Chúa là nền tảng.
Lời thưa của cộng đoàn cũng có nhiều ý nghĩa, vì đây là một hành động
đức tin vào khả năng của thừa tác viên : ân sủng do việc truyền chức làm
cho ngài đủ tư cách để thi hành việc hiệp thông với Thiên Chúa.
Sau cùng, phần đối thoại ngắn ngủi này cũng cho thấy ý nghĩa của phụng
vụ : Thiên Chúa trao ban chính mình, qua trung gian các thừa tác viên, Dân
đáp lại ân huệ này trong đức tin. Như vậy là Giao Ước Mới được cử hành.
7. Cộng đoàn
phụng vụ : Công trình của Thiên Chúa
Đức Kitô vị trung gian của Giao Ước Mới và vĩnh cửu, đã hiến dâng hy lễ
là chính cuộc sống của Người “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp
nơi về một mối” (Ga 11,52). Chức tư tế của Đức Kitô và của các thừa tác viên có
mục đích là quy tụ thành một thân hình duy nhất tất cả những ai muốn liên kết
với Đầu. Chính Thiên Chúa Cha đưa ra sáng kiến và thực hiện qua sứ mệnh của
Ngôi Lời Nhập Thể và của Chúa Thánh Thần. Lời tiền tụng trong Kinh tạ ơn II
thưa với Chúa Cha như sau : “Để chu toàn tôn ý và quy tụ một dân thánh
dành riêng cho Cha, Người (Chúa con) đã dang tay chịu khổ hình để tiêu diệt sự
chết và biểu dương sự sống lại”. Còn kinh tạ ơn III diễn tả mạnh hơn :
“Cha không ngừng quy tụ một dân riêng, để từ đông sang tây cùng dâng lên Cha
một hiến lễ tinh tuyền”.
Chỉ riêng việc các Kitô hữu quy tụ nhân danh Đức Giêsu, nhân danh Chúa
Ba Ngôi, đã là một công trình của Thiên Chúa. Cộng đoàn các tín hữu không giống
bất cứ một cuộc tụ họp nào, cũng không phải là cuộc tụ họp tùy ý giữa các Kitô
hữu, trong đó họ có thể lựa chọn người nào họ muốn. Không phải các tín hữu tự
quy tụ ; nhưng chính Thiên Chúa quy tụ họ. Chắc chắn rằng mỗi người tự do
tham dự phụng vụ, tuy nhiên khi quyết định tham dự vào một nghi lễ, chẳng hạn
thánh lễ, họ đáp trả một lời mời gọi của Thiên Chúa được cụ thể hoá qua các chỉ
dẫn hay khuyến khích của Giáo Hội. Tham dự vào cử hành phụng vụ, đó là nghe
được lời mời gọi của Thiên Chúa, để đi vào mầu nhiệm Giao Ước. Như thế, cộng
đoàn phụng vụ, tự bản chất, là công trình của Thiên Chúa. Chúa Cha và Chúa Kitô
là nguồn gốc và cũng là cùng đích của tất cả các cuộc quy tụ Kitô giáo, theo
lời Đức Giêsu : “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy
ở đó, giữa họ” (Mt 18,20). Để hiểu rõ hơn nét đặc trưng cốt yếu của cộng đoàn phụng
vụ, cần phải đặt thực tại vừa thần linh vừa nhân trần này trong lịch sử cứu độ.
Các công trình của Thiên Chúa luôn có mục đích quy tụ một Dân thánh
thuộc về Thiên Chúa. Cần lưu ý là, khi nói về cộng đoàn phụng vụ, quy tắc tổng
quát sách lễ Rôma thường sử dụng từ ngữ “Dân” : mọi cộng đoàn phụng vụ đại
diện cho toàn thể Dân Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước, chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho đám đông những nô lệ
đang bị bóc lột ở Aicập trở thành một dân có tổ chức để thi hành “việc phụng
vụ”, được khởi đầu qua Giao Ước tại núi Sinai. Thiên Chúa giải thoát những kẻ
thuộc về Người khỏi ách nô lệ với mục đích duy nhất là để họ cùng với Người đi
vào “phụng vụ” (Xh 7,16.26 ; 8,16 ; 9,1.13 ; 10,3-7.11.26). Do
đó từ ngữ phụng vụ vừa có ý nghĩa là công trình Thiên Chúa thực hiện cho Dân
Người, vừa có nghĩa là công trình Dân thực hiện cho Thiên Chúa của mình. Thế
nên, phụng vụ là công trình chung trong đó Thiên Chúa và Dân gặp gỡ nhau, là
hành động trong đó mầu nhiệm Giao Ước được sống cách trọn vẹn.
Việc ký kết Giao Ước Sinai đã làm cho Ítraen thành Dân của Thiên Chúa,
được quy tụ do Thiên Chúa và vì Thiên Chúa : “Các ngươi thấy Ta đã xử với
Aicập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng mà đem đến với Ta
(Xh 19,4). Đối với Ítraen, phụng vụ long trọng tại núi Sinai (Xh 24) là “Ngày
cộng đoàn” tuyệt hảo (Đnl 9,10 ; 10,4 ; 18,16). Đối với họ, mọi cộng
đoàn phụng vụ là sự nhắc lại hay là hiện tại hoá ngày đầu tiên, ngày làm cho họ
thành Dân – Hôn Thê, thành người đối tác với Thiên Chúa trong Giao Ước.
Tuy nhiên, Dân đã không ở lại lâu dài trong sự chở che của Thiên Chúa.
Giao Ước đã mau chóng bị phá vỡ do hành vi ngoại tình là thờ lạy Bò vàng ;
mặc dù Giao Ước này đã được tái lập và không ngừng được cử hành suốt thời Cựu
Ước, nhưng càng lúc càng cho thấy sự suy yếu của nó, như được nói đến qua các
vị ngôn sứ. Nhờ lời các ngôn sứ ngỏ với Dân, hay với số còn sót lại, một khao
khát mãnh liệt về một Giao Ước Mới đã làm bùng lên, mà chỉ một Giao Ước này có
khả năng quy tụ vĩnh viễn Dân chung quanh Thiên Chúa và hiện diện trước nhan
Người.
Đức Kitô, Đấng là Thiên Chúa và là Người, là vị trung gian đích thực đã
đem lại Giao Ước Mới, Giao Ước vĩnh cửu và “quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản
mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52). Hy tế trên đồi Canvê là hành vi yêu thương
cao cả nhất qua đó Đức Giêsu, Lời của Chúa Cha, kêu mời (hay quy tụ) Giáo Hội
đã được chuộc lấy nhờ máu Người (Cv 20,28) hướng đến chính sự hợp nhất của Ba
Ngôi (Ga 17,11.21.22).
Mỗi thánh lễ và mỗi cộng đoàn phụng vụ, đều thực hiện sự hợp nhất Dân
mới của Thiên Chúa là Giáo Hội, sự hợp nhất hữu cơ mà trong đó mỗi chi thể của
Thân mình có chức năng riêng. Các vị giám mục, linh mục, phó tế, nhờ bí tích
Truyền Chức, thể hiện sự hiện diện của Đức Kitô – Hôn Phu, Đức Kitô – Đầu. Còn
các tín hữu, nhờ bí tích Thanh Tẩy và Thêm Sức, thi hành điều được gọi là chức
tư tế cộng đồng (GH 10). Cộng đoàn phụng vụ, đó là sự hợp nhất giữa Thiên Chúa
và Dân Người, giữa Đức Kitô và Giáo Hội, khi được diễn tả và thực hiện qua sự
hợp nhất giữa mục tử và đàn chiên của mình.
“Các tín hữu tháp nhập vào Giáo Hội bởi phép rửa, và nhờ ấn tích, họ
được đề cử hành việc phụng tự Kitô giáo. Khi tham dự thánh lễ, nguồn mạch và
chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo, họ dâng lên Thiên Chúa Lễ vật Thần
linh và cùng với lễ vật ấy, họ tự dâng chính mình. Khi dâng lễ cũng như khi
hiệp lễ, không phải cách hỗn độn, nhưng mỗi người một cách góp phần vào việc cử
hành phụng vụ. Hơn nữa, được bổ dưỡng bởi Mình thánh Chúa Kitô trong thánh lễ,
họ biểu lộ cách cụ thể sự hiêp nhất của Dân Thiên Chúa, sự hợp nhất ấy được
diễn tả và thực hiện cách kỳ diệu trong bí tích cực trọng này” (GH 11).
8. Chức tư tế
cộng đồng của các tín hữu
Trong cộng đoàn phụng vụ, các tín hữu thực thi ở mức độ cao nhất chức tư
tế họ đã lãnh nhận qua bí tích Thanh tẩy, tức là khả năng có thể tiến gần đến
Thiên Chúa nhờ được hợp nhất với Đức Kitô. Trong Cựu Ước, chỉ có các tư tế mới
có thể “đến gần” Thiên Chúa (Xh 3,5 ; Lv 9,7 ; 21,17-21 ; Ed
44,15 ; v.v..), mặc dù, theo kế hoạch của Thiên Chúa, toàn Dân được dành
để trở thành “vương quốc tư tế” (Xh 19,6 ; Tv 148,14). Phải đợi đến Giao
Ước Mới và vĩnh cửu, kế hoạch này mới trọn vẹn. Thánh Phêrô viết : “ Anh
em hãy tiến lại gần Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã
được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như
những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên
Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng
Người, nhờ Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 2,4-5).
Nhờ các bí tích Thanh Tẩy và Thêm Sức, các Kitô hữu là “giống nòi được
tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa”
(1 Pr 2,9). Họ có thể đến gần Đức Kitô, đến nỗi trở nên một thân thể với
Người. Theo quan điểm này, chức tư tế cộng đồng của các tín hữu là khả năng có
thể tháp nhập vào Đức Kitô, vào hy lễ, vào vinh quang của Đấng tiến dâng chính
mình cho Chúa Cha, nên một với Người trong tiến trình tiến về Chúa Cha. Mọi tín
hữu đều là tư tế, theo nghĩa họ chỉ làm nên một Thân Mình với Đức Kitô, Đấng là
Thượng Tế. Sự hợp nhất hữu cơ giữa tín hữu và Đức Kitô đem lại hiệu quả là họ
được dự phần vào ân sủng tư tế của Người. Là những người đồng phận với Đức Kitô
– Tư tế, các tín hữu cũng là tư tế với Người.
Chức tư tế của các thừa tác viên được truyền chức và chức tư tế vương
giả liên kết chặt chẽ với nhau như được khẳng định trong hiến chế tín lý về
Giáo Hội của Công Đồng Vaticanô II.
“Chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật,
tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về yếu tính, song cả hai bổ túc cho
nhau. Thực vậy, cả hai đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô theo
cách thức riêng của mình. Tư tế thừa tác, nhờ có quyền do chức thánh, đào tạo
và cai quản dân tộc tư tế, đóng vai trò Chúa Kitô cử hành hy tế tạ ơn và dâng
của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân chúng. Phần tín hữu, nhờ chức
tư tế vương giả, cộng tác dâng thánh lễ và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh
nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời sống chứng tá thánh thiện,
bằng sự từ bỏ và bác ái đích thực”.