PHỤNG VỤ CỦA GIÁO HỐI – P. 5
Nguyên tác: La Liturgie
de L’Église của Dom Robert le Gall,
Đan viện Trưởng đan viện Sainte Anne, Kergonan
Chuyển ngữ: Giuse Nguyễn Cao
Luật, OP.
————————
V. GIỜ, NGÀY
VÀ THỜI GIAN PHỤNG VỤ
Trong cuộc sống con người, có hai nhịp
sống nền tảng tự nhiên : nhịp sống ngày – đêm do việc trái đất xoay quanh
mình, và nhịp sống hàng năm do trái đất xoay quanh mặt trời, tạo nên những mùa
khác nhau. Phụng vụ là việc tôn kính Thiên Chúa qua tất cả những gì thuộc về
con người, nên cũng thánh hoá hai nhịp sống này : trong suốt năm, các cử
hành về Mùa phụng vụ và kính các thánh được dàn trải trong những ngày trong
suốt năm. Mùa phụng vụ cốt yếu là hai Mùa Giáng Sinh và Mùa Phục Sinh, được
cách quãng bằng Mùa Thường Niên. Người ta biết rằng Mùa Phục Sinh sẽ thay
đổi, không theo hệ mặt trời, nhưng theo mặt trăng. Lễ kính các thánh có ngày cố
định. Nhịp sống hàng ngày được tổ chức dựa trên thánh lễ và Các Giờ Kinh Phụng
Vụ (CGKPV) mà chúng ta sắp đề cập đến dưới đây. Ngoài hai nhịp tự nhiên ấy, còn
có một nhịp thứ ba, dựa trên quy ước, đó là nhịp tuần lễ : nhịp bảy ngày
phát xuất từ trình thuật sáng tạo được kể lại trong những chương đầu sách Sáng
thế, cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh : ngày thứ Bảy, Thiên Chúa nghỉ
ngơi sau công trình sáng tạo, ngày này được người Dothái thánh hiến bằng ngày
sabát. Đối với các Kitô hữu, ngày đầu tiên trong tuần, tức là ngày hôm sau ngày
sabát (samedi – thứ Bảy) trở thành ngày Chúa nhật (ngày của Chúa), và ngày này
được dành để cử hành cuộc Phục Sinh của Chúa.
Nhịp sống hằng ngày là nhịp nền tảng của
cuộc sống con người ; nhịp sống này tạo nên bối cảnh tự nhiên cho các cuộc
gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Trong vườn địa đàng, phải chăng Thiên
Chúa lại không có thời gian đến thăm các người bạn của mình vào “lúc gió thổi
trong ngày” sao (St 3,8) ? Thánh vịnh là các lời cầu nguyện ban sáng (Tv
5, 16, 56), lúc đêm khuya (Tv 62,7 ; 118,62). Ngôn sứ Đanien “mỗi ngày ba
lần, ông quỳ gối, cầu nguyện và ngợi khen Thiên Chúa của ông, y như ông đã làm
từ trước đến nay” (Đn 6,11). Sau khi Đức Giêsu lên trời, các tông đồ “hằng ở
trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24,53 ; Cv 2,46) và người ta
thấy hai ông Phêrô và Gioan “lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện, giờ thứ chín”
(Cv 3,1).
Chắc chắn rằng hy tế Thánh Thể là trọng
tâm của nhịp phụng vụ hằng ngày, đồng thời cũng là cử hành khơi gợi lời cầu
nguyện của Giáo Hội. Như đã nói, người Dothái cầu nguyện ba lần một ngày :
ban sáng, ban trưa, và ban chiều. Giáo Hội thời đầu đã tiếp tục thói quen tự
nhiên này. Người tín hữu vẫn được nhắc nhở tuân giữ thói quen này với ba lần
đọc kinh Truyền Tin trong ngày. Tuy vậy, đây vẫn chỉ là cử chỉ đạo đức riêng,
có thể nói như thế. Phụng vụ là một hành động của Giáo Hội, kết hiệp với Thiên
Chúa và Đấng Cứu Độ của mình, gồm có Kinh Ngợi Khen và Kinh Chiều, và giữa hai
giờ kinh (Kinh Đêm nơi các đan sĩ) và Kinh Tối (kết thúc ngày sống). Trong
phụng vụ đan tu, thứ tự các giờ kinh như sau : Kinh Đêm (cuối đêm), Kinh
Ngợi Khen, Kinh Giờ Ba, Giờ Sáu, Giờ Chín, Kinh Chiều và Kinh Tối.
Cuộc canh tân phụng vụ của Công Đồng
Vaticanô II đã nhấn mạnh đến điều được gọi là sự đích thực của các giờ kinh,
tức là mỗi giờ kinh phải được cử hành đúng vào giờ của nó. Điều này dễ hiểu vì
phụng vụ các giờ kinh có mục đích thánh hoá những thời điểm chính trong ngày.
Xưa kia, đôi khi các linh mục nguyện kinh của mình một lần duy nhất, như một
thứ hình phạt. Ngày nay, người ta nhấn mạnh đến tính Giáo Hội của lời kinh này,
và mời gọi các tín hữu cùng tham dự. Vì thế không hiếm tại các giáo xứ, giáo
dân cử hành giờ kinh với vị mục tử hay giữa họ với nhau. Điều này cũng xảy ra
nơi một số hội đoàn. Việc cầu nguyện này là một lợi ích của Giáo Hội, nên cần
phải được học hỏi, thực hành, yêu mến để Thiên Chúa luôn hiện diện tràn đầy
ngày sống của người tín hữu và họ được Người che chở.
2. Phụng vụ, trường
dạy cầu nguyện
Một trong những đòi hỏi hiện nay là rất
nhiều người cảm thấy nhu cầu về cầu nguyện. Một số nhóm hay phong trào luôn xem
việc cầu nguyện – trong cộng đoàn hay cá nhân, là một yếu tố cần thiết. Một số
người, nhất là giới trẻ, mong muốn học hỏi về cầu nguyện. Để khởi đầu, họ cần
sự nâng đỡ từ một cộng đoàn.
Việc cầu nguyện chung vừa là một yêu cầu
vừa là một bảo đảm cho đời sống Kitô hữu, như chính Đức Giêsu đã dạy : “Ở
đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt
18,20). Tuy nhiên không phải mọi việc cầu nguyện chung đều là phụng vụ :
các tín hữu cầu nguyện chung với nhau chưa phải là một hành vi phụng vụ :
Phụng vụ phải là công trình của Thiên Chúa và công trình của dân Người. Đó là
hoạt động chính yếu trong đời sống Giáo Hội, gồm có thánh lễ và các bí tích,
các á bí tích và phụng vụ các giờ kinh. Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần,
qua nhiều thế kỷ, Giáo Hội không ngừng xác định những hình thức cụ thể cho việc
gặp gỡ với Thiên Chúa của mình để hiện tại hoá Giao Ước Mới và vĩnh cửu. Công
Đồng Vaticanô II đã thực hiện điều này qua việc canh tân phụng vụ. Cử hành
phụng vụ luôn vượt lên trên các “việc đạo đức” (PV 13) ; các việc này phải
hài hoà với cử hành phụng vụ, phải phát xuất từ các cử hành này.
Từ đó, dấu chỉ cho thấy một nhóm cầu
nguyện hay một cộng đoàn có được nét quân bình đó là đó là cộng đoàn hay nhóm
ấy có sự liên kết với giám mục và các linh mục. Họ mong muốn đào sâu Kinh Thánh
và giáo lý Công Giáo, khám phá (hay tái khám phá) phụng vụ như là một sự bảo
đảm không thể thay thế cho việc cầu nguyện của mình.
Người ta đã mất nhiều thời gian để tổ
chức việc cầu nguyện chung trong các cuộc hội họp giữa các linh mục, tu sĩ, hay
các nhóm khác. Ngày nay, người ta hiểu rằng CGKPV cung cấp cho mọi người hình thức
căn bản việc cầu nguyện của Giáo Hội. Thay vì phải cố tìm những bài đọc, bài
hát, sao không cử hành các giờ kinh phụng vụ?
Trong phụng vụ, Giáo Hội là thầy dạy.
Không có sự dẫn nhập nào vào đời sống cầu nguyện thâm sâu tốt hơn là tham dự
vào một số giờ kinh. Trong các giờ kinh này, mỗi người được nếm thử hương thơm
của Thiên Chúa, được mời gọi thưởng thức và thấm nhuần cuộc gặp gỡ vừa đơn sơ
vừa long trọng là Giao Ước. Nếu không có điều kiện để tham dự toàn bộ, họ cũng
được khuyến khích tham dự một phần, hay ít ra, các bài đọc của thánh lễ. Nhờ
nối kết với phụng vụ của Giáo Hội, đời sống cầu nguyện và kết hợp với Thiên
Chúa của các tín hữu sẽ được vững mạnh hơn.
Dies dominica – Chúa nhật – ngày của
Chúa. Đó là ngày nghỉ. Theo các tác giả sách Tin Mừng, đó là ngày đầu tuần (Mt
28,1ss), và được gọi là “ngày của Chúa” (Kh 1,10) vì đây là ngày Chúa sống lại.
Sau khi Phục Sinh, Đức Giêsu đã hiện ra
với các tông đồ vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần (Ga 20,19 ; Lc
24 ; x. Ga 20,26), và đã dùng bữa với các môn đệ (Lc 24,30.41-43). Các
Kitô hữu thời đầu đã theo truyền thống này mà tụ họp vào chiều ngày Chúa nhật
để cử hành Thánh Thể (Cv 20,7).
Để cử hành biến cố Phục Sinh cách xứng
hợp hơn, các tín hữu đã tụ họp vào sáng Chúa nhật và thực hiện một buổi canh
thức để chuẩn bị cho buổi cử hành này. Theo cách ấy, ý nghĩa Kitô giáo đã được
áp dụng cho ngày này, ngày mà những người ngoại giáo gọi là “ngày của mặt trời”
(Sonntag ; Sunday). Chúa nhật thực sự là ngày của mặt trời, vì đó là ngày
mà Đức Kitô, “Mặt Trời công chính” (Ml 3,20) đích thực đã mọc lên từ nấm mồ sau
khi nghỉ yên qua cái chết sinh ơn cứu độ.
Theo quan niệm Kitô giáo, Chúa nhật là
ngày đầu tiên trong tuần, nên là ngày nguồn mạch cho toàn bộ hoạt động của các
Kitô hữu, đồng thời cũng là ngày thứ 8, mà theo ý nghĩa biểu tượng về con số,
ngày này gợi lên sự vượt qua thời gian, gợi lên sự vĩnh cửu mà Đức Kitô đã bước
vào và cũng là đích điểm người tín hữu trông chờ (Ga 21,4).
Vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm đến,
Chúa nhật là điểm quy chiếu của chu kỳ tuần lễ, cũng như thánh lễ là trung tâm
của chu kỳ hằng ngày và Phục Sinh là trung tâm của chu kỳ hằng năm. Chúa nhật
là ngày nguồn mạch và ngày đỉnh cao, nên đó là ngày thích hợp nhất để cử hành
hy tế Thánh Thể. Cử hành ngày này qua việc tham dự thánh lễ là một điều cần
thiết đem lại sức sống cho mọi Kitô hữu như các thánh tử đạo thời sơ khai đã
khẳng định. Để tạ ơn vì đời sống mới do Đức Kitô đem lại, người ta sử dụng ngày
này để thực hiện những sinh hoạt đem lại công ích và niềm vui.
Năm phụng vụ là các cử hành của Giáo Hội
theo chu kỳ hằng năm. Chu kỳ này được phân chia thành phần Thường Niên và phần
Kính nhớ các thánh, tức là tất cả các lễ kính các thánh được ghi trong lịch của
Giáo Hội toàn cầu, không phân biệt lễ riêng của Giáo Hội nào. Tuy nhiên, các
thánh chỉ là những nhân vật phụ trong công trình trọng tâm là Mầu nhiệm Cứu Độ
do Chúa Kitô thực hiện. Mùa Thường Niên được chia thành hai phần với 34 Chúa
nhật : Mùa sau lễ Giáng Sinh và mùa sau lễ Phục Sinh.
Mùa Giáng Sinh gồm có : Thời gian
chuẩn bị, tức Mùa Vọng ; lễ Giáng Sinh ; lễ Hiển Linh và một giai
đoạn ngắn cho đến lễ Đức Giêsu chịu phép rửa. Lễ này luôn được cử hành vào Chúa
nhật để kết thúc Mùa Giáng Sinh. Ngay sau ngày lễ này, bắt đầu giai đoạn I của
Mùa Thường Niên và được kéo dài tới thứ Tư lễ Tro.
Mùa Phục Sinh gồm có : Thời gian
chuẩn bị, tức Mùa Chay ; Tuần Thánh, kết thúc với Tam Nhật Vượt Qua (từ
thứ Năm Thánh đến Chúa nhật Phục Sinh) ; Mùa Phục Sinh với lễ Chúa Giêsu
lên trời và lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Mùa này kết thúc với lễ Chúa Thánh
Thần Hiện Xuống, sau đó tiếp tục Mùa Thường Niên.
Một tuần sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện
Xuống là lễ Chúa Ba Ngôi, tiếp đến vào thứ Năm – hay Chúa nhật là lễ kính Mình
Máu Thánh Chúa Giêsu. Lễ Thánh Tâm được cử hành cố định vào ngày thứ Sáu sau
Chúa nhật thứ hai sau lễ Hiện Xuống. Sau cùng, vào Chúa nhật cuối cùng của Năm
phụng vụ là lễ Chúa Giêsu Vua.
5. Mùa Vọng,
bản lề của Năm phụng vụ
Năm phụng vụ này nối tiếp năm phụng vụ
kia. Những Chúa nhật cuối Mùa Thường Niên hướng về Ngày Chúa Quang Lâm, tức là
ngày Chúa trở lại trong vinh quang và phán xét chung cuộc, như được diễn tả
trong các bài Tin Mừng trong tháng 11. Lễ trọng kính Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ là
đích điểm của toàn bộ năm phụng vụ và là sự gia nhập vào phụng vụ thiên
quốc : “Sau đó, mọi sự đều hoàn tất, khi Chúa Kitô đã tiêu diệt hết mọi
quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên
Chúa là Cha. Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con,
cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người ; và như vậy,
Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi loài” (1 Cr 15,24.28). Nhịp điệu của phụng vụ
vĩnh cửu là lãnh nhận mọi sự từ Chúa Cha, như Chúa Con, và trao lại mọi sự cho
Chúa Cha, cùng với Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần.
Các Chúa nhật đầu Mùa Vọng duy trì ý
hướng nhìn về ngày chung cuộc này. Thật vậy, Chúa nhật thứ I Mùa Vọng là sự chờ
đợi cuộc đăng quang cuối cùng của Đức Kitô, tức là cuộc Quang Lâm của Người.
Đây không phải là sự liên tục giữa hai năm phụng vụ. Không có gì minh hoạ cách
tuyệt hảo hơn sự tiến tới liên tục và hài hoà của phụng vụ. Kết thúc Mùa Thường
Niên và khởi đầu năm phụng vụ đều hướng về ngày Đức Kitô ngự đến trong vinh
quang. Giáo Hội chú tâm vào ngày Giáng Sinh của Đức Kitô được kỷ niệm trong Mùa
Giáng Sinh. Từ ngày 17-12, bắt đầu tuần lễ chuẩn bị chào đón sự xuất hiện
của Ngôi Lời nơi những kẻ thuộc về Người (x. Ga 1,11).
Hai lời tiền tụng của Mùa Vọng trình bày
nối tiếp nhau sự quy chiếu về tương lai và về quá khứ. Trong lời tiền tụng I,
Giáo Hội tạ ơn Chúa Cha, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta, vì Ngôi Lời nhập thể đã
“mang lấy bản tính nhân loại yếu hèn, mà thực hiện lời Cha đã hứa thuở xưa và
mở đường cứu độ cho nhân loại. Nhờ đó, khi Người đến lần thứ hai đầy uy nghi
vinh hiển, bấy giờ ơn cứu độ đã hiển nhiên, chúng con sẽ lãnh nhận hạnh phúc
Cha hứa ban, mà ngày nay chúng con đang tỉnh thức và vững dạ đợi chờ”. Trong
lời tiền tụng II, lý do của việc tạ ơn là : Đức Kitô “Đấng các ngôn sứ đã
tiên báo, Đức Mẹ đồng trinh đã âu yếm cưu mang, thánh Gioan đã loan tin sắp đến
và chỉ cho dân chúng thấy khi Người xuất hiện. Người là Đấng làm cho chúng con
vui sướng đón mừng Mầu nhiệm Giáng Sinh ; để khi ngự đến, Người sẽ thấy
chúng con đang tỉnh thức cầu nguyện và hân hoan ca tụng Người”.
Cần ghi nhận rằng, nếu như lời tiền tụng
II nhấn mạnh đến tương lai, tức là ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang, thì
cũng ám chỉ đến cuộc đăng quang trong quá khứ, và cũng nói đến sự trông chờ
trong hiện tại. Cũng vậy, lời tiền tụng II nhấn mạnh đến sự chờ đợi trong quá
khứ cuộc xuất hiện của Ngôi Lời, nhưng cũng cho thấy cuộc đăng quang trong quá
khứ có giá trị hiện tại “Người là Đấng làm cho chúng con vui sướng đón mừng Mầu
nhiệm Giáng Sinh”. Ngoài ra, lời tiền tụng này cũng hướng về cuộc đăng quang
cuối cùng.
Cũng nên lưu ý rằng, ngay từ đầu năm
phụng vụ, ba điểm quy chiếu về quá khứ, hiện tại và tương lai thuộc về cơ cấu
của phụng vụ tại trần thế. Mọi hành vi phụng vụ đều hiện thực hoá trong hiện
tại một biến cố cứu độ đã được thực hiện trong quá khứ, và hướng tới sự thực
hiện hoàn toàn trong tương lai. Điều này được chứng thực rõ ràng trong hy lễ
Thánh Thể khi mà hy tế trên đồi Canvê (quá khứ : x. Hr 7,27 ;
9,12.26) được hiện tại hoá để đem lại cho tín hữu bảo chứng về vinh quang, tức
là sự hoàn thành Giao Ước Mới và vĩnh cửu. Cũng vậy, cử hành cuộc sinh ra của
Đức Giêsu (quá khứ), có thể nói là làm cho tín hữu trở thành “những người cùng
thời” với Mầu nhiệm Nhập Thể, nhờ một biến cố ân sủng (hiện tại), và được tham
dự trước vào sự xuất hiện chung cuộc của Đức Kitô (tương lai). Phụng vụ chú tâm
đến sự tiếp nối lịch sử và một cách nào đó, làm cho người tín hữu tham dự vào
sự vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Tên gọi ngày lễ là một hình thức bình
dân của từ ngữ Latinh natalis (dies) : ngày của sự sinh ra. Cuộc sinh ra
tuyệt hảo nhất là cuộc sinh ra của Chúa Giêsu, được mừng vào ngày 25-12. Đây là
cuộc sinh ra của Chúa Giêsu, theo bản tính loài người, từ cung lòng Đức Trinh
Nữ Maria.
Lễ Giáng Sinh là trung tâm của Mùa Giáng
Sinh, với phần chuẩn bị là các tuần Mùa Vọng, tiếp đi là Mùa Giáng Sinh, với lễ
Hiển Linh, và kết thúc với lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa.
Sau khi đã loan báo mầu nhiệm cốt yếu là
vượt qua, các bản văn Tin Mừng về thời niên thiếu của Đức Giêsu được soạn thêm
sau. Cũng vậy, việc mừng lễ Giáng Sinh cũng xuất hiện khá muộn so với việc mừng
Mầu nhiệm Phục Sinh. Có lẽ việc cử hành Mùa Giáng Sinh được áp dụng vào khoảng
thế kỷ IV và sau khi lễ Hiển Linh của Đông Phương được du nhập.
Lễ Giáng Sinh đã được thiết lập tại Rôma
vào năm 336, và được ấn định vào ngày 25-12 với mục đích Kitô hoá những lễ của
dân ngoại mừng Natalis Invicti kính thần mặt trời sau ngày đông chí. Ngày đó
mặt trời sẽ dần dần sáng hơn. Đức Kitô chính là “Mặt Trời công chính” theo sách
ngôn sứ Malakhi (3,20). Từ lễ Giáng Sinh, Đức Giêsu lớn lên, trong khi ông
Gioan Tiền Hô, bắt đầu đi xuống (ngày 24-6, ngày hạ chí). Điều này minh hoạ,
qua thiên văn và phụng vụ, lời của vị Tiền Hô : “Người phải nổi bật lên,
còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Lễ Hiển Linh mừng việc Đức Giêsu xuất
hiện như là Đấng Mêsia. Lễ này phát xuất từ Đông Phương và được ấn định vào
ngày 6-1 với ý nghĩa : lễ của ánh sáng, lễ của nước, và có ý mừng việc
khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu, khi Người chịu phép rửa tại sông
Giođan, hơn là mừng các biến cố trong đời niên thiếu của Đức Giêsu.
Bên Tây Phương, lễ Hiển Linh, được ấn
định vào ngày 6-1 hay Chúa nhật từ ngày 2 đến 8 tháng Giêng, là lễ các nhà đạo
sĩ, hay “các vua”. Những lần xuất hiện khởi đầu cuộc đời công khai của Đức
Giêsu không bị lãng quên, vì phụng vụ của ngày lễ này nói đến ba mầu nhiệm như
chỉ là một : các nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Giêsu, Chúa Giêsu chịu phép
rửa, tiệc cưới Cana. Tuy nhiên, việc thờ lạy của các nhà đạo sĩ vẫn được quan
tâm nhiều hơn.
Để tạo cho lễ Hiển Linh thực sự là lễ
“Hiện Xuống” của Mùa Giáng Sinh, mới đây, Giáo Hội Latinh đã thiết lập lễ Chúa
Giêsu chịu phép rửa, được cử hành vào Chúa nhật sau lễ Hiển Linh.
Khởi đầu cuộc đời công khai, Đức Giêsu
đến sông Giođan để lãnh nhận phép rửa từ ông Gioan. Vị Tiền Hô muốn từ chối, vì
cảm thấy không xứng đáng làm phép rửa cho Đấng Cứu Thế, nhưng Đức Giêsu trả
lời : “Bây giờ cứ thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công
chính” (Mt 3,15). Câu chuyện này liên quan đến việc rửa chân sau này : ông
Phêrô không muốn “để” Thầy rửa chân cho mình, và Đức Giêsu trả lời : “Việc
Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13,7). Phép rửa
tại sông Giođan và việc rửa chân làm thành “những mầu nhiệm, có liên hệ chặt
chẽ với thiên ý nhiệm mầu của Chúa Cha” (Ep 1,9).
Đức Giêsu phải được dìm trong dòng nước
sông Giođan để như biểu tượng liên đới trọn vẹn với các tội nhân. Đồng thời
việc đó như biểu tượng việc chấp nhận bị dìm trong sự chết để cứu độ loài
người. Theo thánh Gioan, Đức Giêsu được vị Tiền Hô giới thiệu là “Chiên Thiên
Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1,29-30), gợi lên hình ảnh Người Tôi Tớ
đau khổ được ngôn sứ Isaia trình bày (Is 52,13 – 53,12). Ngoài ra, chính Đức
Giêsu cũng nói đến cái chết đang chờ đợi Người qua hình ảnh phép rửa :
“Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi
việc này hoàn tất” (Lc 12,50). Như thế ta hiểu rõ hơn tại sao phép rửa lại liên
hệ đến cả tội lỗi và sự chết : Đức Giêsu đến và đảm nhận cả tội lỗi và sự
chết để giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết.
Ý nghĩa của việc Đức Giêsu chịu phép rửa
còn lớn lao hơn. Chúng không chỉ đề cập đến khía cạnh sự chết, mà cả việc
Phục Sinh nữa. Thật vậy, khi Đức Giêsu “vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời
mở ra, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống như chim bồ câu và đậu trên
Người. Và kìa có tiếng từ trời phán rằng : Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta
hài lòng về Người” (Mt 3,16-17).
Vào lúc khởi đầu sứ vụ công khai, có thể
nói toàn bộ Mầu Nhiệm đã được tỏ bày : Đức Giêsu đón nhận nơi mình tội lỗi
của loài người và sự chết là hệ quả của nó, và Người ban cho nhân loại sự sống
của Người Con, tức là sự sống vĩnh cửu. Khi Đức Giêsu lên khỏi nước, Mầu nhiệm
Ba Ngôi được bày tỏ : Chúa Cha diễn tả sự hài lòng vô bờ về Chúa Con, Đấng
Người đã sinh ra từ muôn thuở trong Chúa Thánh Thần Tình Yêu.
Được tràn đầy Chúa Thánh Thần do Chúa
Cha ban, Đức Giêsu thực sự là Đấng Kitô, tức là Đấng được xức dầu. Theo danh
nghĩa này, chỉ mình Người có quyền làm phép rửa trong Thánh Thần (Ga 1,33), tức
là phép rửa đưa người tín hữu đi vào đời sống của Ba Ngôi.
Khi canh tân phụng vụ, Công Đồng
Vaticanô II đã tái lập lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, được mừng vào ngày cuối Mùa
Giáng Sinh. Ngày lễ này luôn là một trong những “mầu nhiệm” của việc Hiển Linh,
tức là việc Chúa tỏ mình ra. Có thể nói ngày lễ này là lễ Hiện Xuống của Mùa
Giáng Sinh. Cần phải yêu mến ngày lễ này, vì đây như một cánh cửa đi vào Tin
Mừng và của toàn bộ phụng vụ. Ngày lễ này cho các tín hữu biết mình là
ai : nhờ Đức Kitô, họ là những kẻ đồng phận với Người, Đấng đã dìm mình
vào trong tội lỗi và cái chết của nhân loại để họ có thể đến gần Thiên Chúa,
được làm con Thiên Chúa trong vĩnh cửu.
Mùa Chay là giai đoạn chuẩn bị hằng năm
để mừng Mầu nhiệm Phục Sinh (quadragessima – bốn mươi ngày). Nét nổi bật của
Mùa này là việc ăn chay và lời kêu mời sám hối. Mùa này kéo dài bốn mươi
ngày : ông Môsê và ông Êlia đã được chuẩn bị bốn mươi ngày để gặp Đức Chúa
(Xh 24,18 ; 1 V 19,8).
Chính Đức Giêsu cũng chiến đấu với Xatan
suốt bốn mươi ngày (Mt 4,2). Vì không giữ chay vào Chúa nhật, nên Mùa Chay được
khởi đầu từ thứ tư lễ Tro, trước Chúa nhật I Mùa Chay.
Thứ Tư lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh là
những ngày ăn chay theo luật Giáo Hội. Các tín hữu đã trưởng thành phải tuân
giữ luật này. Những ngày khác, mỗi người, tuỳ theo Thánh Thần hướng dẫn, đưa ra
những kiêng cữ riêng để dâng tiến cho Chúa.
Phẩm phục dùng trong Mùa Chay là màu
tím, trừ Chúa nhật thứ IV (Laetare) có thể dùng màu hồng. Việc trang trí trong
thánh đường cũng như tại bàn thờ được hạn chế, và cũng không sử dụng nhạc khí
khi không hát. Ngoài những hạn chế truyền thống này, cũng có thể đề nghị những
điều khác để kêu mời sự sám hối.
Nguồn gốc danh từ này không rõ ràng lắm.
Thông thường, người ta hiểu từ ngữ này phát xuất từ pásah trong tiếng Dothái,
có nghĩa là “nhảy”, “đi qua”, “bỏ qua” (x. Xh 12,11.23-27). Đức Chúa đã bỏ qua
các con trai đầu lòng của người Dothái vì có dấu máu bôi trên cửa nhà. Tuy
nhiên cũng có thể tìm đến nguyên gốc xa xưa của từ này trong pashahu, có nghĩa
là làm giảm bớt.
Nghi thức dâng tiến con chiên phát xuất
từ một hy lễ mà các người chăn chiên du mục quen thực hành, nhằm làm cho đàn
súc vật được sinh sôi vào mùa xuân. Ngược lại, việc tiến dâng các của đầu mùa
(lúa mì) là một nghi thức của những nông dân định cư. Đi liền với cuộc giải
thoát khỏi đất Aicập, các nghi thức này trở thành lễ Vượt Qua của người Dothái,
hành động tưởng nhớ việc Thiên Chúa giải thoát Dân Người.
Nhờ toàn bộ Mầu nhiệm Vượt Qua –Khổ Nạn,
chịu chết và Phục Sinh–, Đức Kitô, Con Chiên đích thực (Ga 1,29.36 ;
18,28 ; Lc 22,7-16), và Bánh Hằng Sống (Ga 6,35) đã giao hoà con người tội
lỗi với Chúa Cha và ký kết Giao Ước Mới. Như vậy, lễ Vượt Qua do Đức Giêsu
thiết lập, vừa thâu nhận, vừa hoàn thành việc cử hành cuộc đổi mới vào mùa xuân
–một dạng phục sinh của thiên nhiên và súc vật, được nhiều tôn giáo thần linh
hoá–, và việc cử hành tưởng niệm cuộc giải thoát lịch sử mà Thiên Chúa đã thực
hiện cho Dân Người.
Nói cho đúng, lễ Phục Sinh là lễ trọng
trên mọi lễ trọng, là trung tâm của năm phụng vụ. Lễ Phục Sinh được khởi đầu
với nghi thức canh thức vào chiều thứ Bảy Thánh, rồi được tiếp tục trong suốt
ngày Chúa nhật. Năm mươi ngày của Mùa Phục Sinh chỉ là sự trải rộng của “ngày
Thiên Chúa đã làm ra” (Tv 117,23).
Người Dothái hiến tế chiên Vượt Qua và
ăn bữa Vượt Qua vào chiều ngày 14 tháng Nisan, ngày trăng tròn của mùa xuân.
Đức Kitô chịu chết trên thập giá vào ngày thứ sáu 14 tháng Nisan và Phục Sinh
vào “ngày thứ nhất trong tuần” (Ga 20,1), tức là hôm sau ngày sabát. Người Công
Giáo có ba giải pháp để mừng lễ Vượt Qua : hoặc cố định vào ngày – sau
ngày hôm sau ngày 14 tháng Nisan, bất kể ngày 14 này có phải là thứ Sáu hay
không ; hoặc là mừng vào Chúa nhật sau ngày trăng tròn của mùa xuân ;
hoặc là theo Quarto-décimans, vào thế kỷ II, (tại tiểu Á, ấn định vào chính
ngày 14 tháng Nisan.
Công Đồng Nicêa (325) đã ấn định ngày
mừng lễ Vượt Qua vào Chúa nhật sau ngày trăng tròn ngày xuân phân. Tuy nhiên,
vì việc tính ngày lễ khác nhau, nên các Giáo Hội Đông và Tây không mừng lễ
trong cùng ngày. Vấn đề vẫn còn gây tranh cãi là nên chăng mừng lễ Vượt Qua vào
một ngày Chúa nhật cố định (có thể là Chúa nhật II tháng 4)? Quan điểm ấy, Công
Đồng Vaticanô II không phản đối (xem phụ trương Hiến chế Phụng Vụ), nhưng những
người theo Chính Thống Giáo quyết liệt phản đối.
Lễ Chúa Giêsu Lên Trời được mừng vào
ngày thứ bốn mươi sau lễ Phục Sinh.
Sau khi Phục Sinh, nhân tính của Đức
Giêsu đã hoàn toàn mặc lấy Vinh Quang của Chúa Cha. Nhưng Đức Kitô vinh hiển
vẫn “lưu lại” trần gian để củng cố niềm tin của các tông đồ, qua những lần hiện
ra với các ông. Bốn mươi ngày (Cv 1,3) Đức Giêsu lưu lại nơi dương thế liên hệ
cách biểu tượng đến quãng thời gian, qua đó con người có được những kinh nghiệm
về Thiên Chúa (x. Xh 24,18 ; 1 V 19,8 ; Mt 4,2). Sau quãng thời gian
này, Đức Giêsu “lên” trời và ngự bên hữu Chúa Cha. Đây không phải là điều phụ
thuộc trong niềm tin Kitô hữu, nhưng đây là một tín điều trong Kinh Tin Kính,
diễn tả vương quyền của Đức Kitô, như các bản tuyên xưng đức tin thời đầu minh
chứng (Cv 2,33 ; 7,55-56 ; Tv 109,1 ; Mt 22,44 ;
26,64 ; Mc 16,19 ; Rm 8,34 ; 1 Cr 15,25 ; Ep 1,20 ; Cl
3,1 ; Hr 1,3.13 ; 8,1 ; 10,12 ; 12,2 ; 1 Pr 3,22).
Mầu nhiệm Lên Trời cho thấy những bước
khởi đầu của việc người Kitô hữu bước vào vinh quang. Với nhân tính của Đức
Kitô, sự tháp nhập vào đời sống Ba Ngôi kể từ nay đã hoàn tất, điều này đem lại
cho các bạn hữu Đức Kitô niềm vui sâu xa, và là một bảo đảm cho họ về vinh quang
chung cuộc. Thật vậy, mọi tín hữu đều là những chi thể của thân mình :
điều gì xảy ra cho Đầu thì cũng xảy ra cho các chi thể. Phụng vụ không ngừng
thông truyền cho họ, qua Chúa Thánh Thần, sức sống của vị Thủ Lãnh. Họ vẫn còn
sống trong mây mù, kể cả bão tố, nhưng quê hương của họ đã ở “trên trời, và họ
nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu họ. Người sẽ dùng quyền năng
khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của
họ nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21). Rước lễ là đồng hoá
với Đức Kitô vinh hiển, nên là bước khởi đầu cho người tín hữu được “cự ngụ”
trong lòng Chúa Cha bên cạnh Chúa Con.
Năm mươi ngày sau lễ Phục Sinh, việc
mừng lễ Hiện Xuống là điểm cuối của chu kỳ Phục Sinh. Từ ngữ Hiện Xuống –
Pentecôtè – phát xuất từ tiếng Hylạp pentècostè (hèméra) : ngày thứ năm
mươi.
Trong thời Cựu Ước, tục mừng lễ Mùa Gặt
(Xh 23,16 ; 34,22) hay lễ mừng các Thần (Lv 23,15-22) được tổ chức vào
ngày thứ năm mươi sau lễ mùa xuân (x. Tb 2,1). Con số năm mươi gợi lên một sự
tròn đầy, hay theo quy định của dân Dothái về năm sabát (bảy tuần năm : x.
Xh 21,2 ; 23,10tt ; Lv 25,3), đó là một sự đổi mới toàn diện. Như xưa
kia dân Dothái đã ra khỏi đất Aicập, vượt qua biển đỏ, tiến vào sa mạc để ký
kết Giao Ước tại núi Xinai, thì ngày lễ Năm Mươi (Hiện Xuống) trở thành ngày kỷ
niệm về “Ngày Cộng Đoàn” (Hr 9,10 ; 10,4 ; 18,16) diễn ra vào khoảng
50 ngày sau cuộc giải thoát khỏi đất Aicập (x. Xh 19,1 : tháng thứ ba).
Được khai sinh từ cuộc Vượt Qua, dân – Hôn Thê, đạt được ý nghĩa trọn vẹn của
mình cũng như vượt qua toàn diện khi kết hiệp với Thiên Chúa, khi ký kết Giao
Ước.
Trong Giao Ước Mới, Đức Kitô thanh tẩy
và chuộc lại Giáo Hội của Người nhờ hy lễ tại đồi Canvê, và đã trao ban Thần
Khí (x. Ga 19,30). Vào ngày Phục Sinh, Đức Giêsu thông ban Thần Khí cho các
tông đồ, để các ông thi hành sứ mạng là tiếp tục công trình của Người (Ga
20,22-23) ; nhưng chỉ 50 ngày sau cái chết của Đức Giêsu – ngày lễ Hiện
Xuống (Cv 2), Thánh Thần mới đến để canh tân toàn thể Giáo Hội qua việc dìm họ
vào (x. Cv 1,5) Dòng Sông sự sống (Kh 22,1) là chính Người. Mầu nhiệm Phục Sinh
đạt được ý nghĩa trọn vẹn trong sự viên mãn của lễ Hiện Xuống, ngày Giáo Hội
lãnh nhận những hoa trái đầu mùa trong di sản của mình (Ep 1,13-14) và thi hành
đời sống phụng vụ của mình qua việc ca tụng “những công trình của Thiên Chúa”
(Cv 2,1), dưới sự tác động của Thánh Thần.
Ngày lễ Hiện Xuống khép lại “Mùa Năm
Mươi”, và sau đó Tuần Bát Nhật đã được bãi bỏ nhằm làm nổi bật ý nghĩa của ngày
lễ này. Tuy nhiên, tuần chín ngày từ lễ Chúa Giêsu lên trời đến lễ Hiện Xuống
được xem như phần chuẩn bị long trọng chờ đón Chúa Thánh Thần, cùng với sự hiện
diện của Đức Maria, Thân Mẫu Chúa Giêsu (Cv 1,14).