PHỤNG VỤ CỦA GIÁO HỘI – P. 6
Nguyên tác: La Liturgie
de L’Église của Dom Robert le Gall,
Đan viện Trưởng đan viện Sainte Anne, Kergonan
Chuyển ngữ: Giuse Nguyễn Cao
Luật, OP.
————————
1. Hướng đến sự kết hợp mật
thiết với Thiên Chúa : Các bí tích
Khởi đầu Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội,
Công Đồng Vaticanô II định nghĩa Giáo Hội như sau : “Giáo Hội ở trong Chúa
Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên
Chúa” (s.1). Đức Kitô còn hơn là một bí tích, vì xét như một Con Người, Đức
Kitô kết hợp với Thiên Chúa trong chính ngôi vị của Ngôi Lời. Giáo Hội đã lãnh
nhận từ Đức Kitô mọi uy quyền dưới đất lẫn trên trời (x. Mt 28,18), nên tiếp
tục sứ mạng của Người. Giáo hội đưa những ai muốn cứu độ vào việc kết hợp
mật thiết với Thiên Chúa. Cũng vậy, có thế nói Giáo Hội là bí tích, là nguồn từ
đó phát sinh mọi ân sủng. Đó là 7 bí tích, các á bí tích, việc cầu nguyện công
cộng và riêng tư dưới mọi hình thức.
Đối với mọi Kitô hữu, có thể nói các bí
tích đặt Giao Ước, biến Giao ước trở nên gần gũi trong mọi biến cố hay mọi giai
đoạn của cuộc đời. Các bí tích không hoạt động cách máy móc, càng không phải là
ma thuật, nhưng là những hành vi đầy sức mạnh của Thiên Chúa và của Giáo Hội để
đem lại cho tất cả các con cái niềm hạnh phúc là sự kết hợp mật thiết với Thiên
Chúa. Đó không phải là một thứ liên hệ theo kiểu lỏng lẻo trần gian, nhưng là
một sự gắn kết chặt chẽ. Trong những điều kiện bình thường của cuộc sống, sẽ
chẳng có sự kết hợp với Thiên Chúa đích thực, ngoài các bí tích. Ta cần phải
nhớ câu châm ngôn “Thiên Chúa không bị ràng buộc vào bí tích”. Điều này có
nghĩa là khi vì một lý do nào đó, tín hữu không thể lãnh nhận bí tích, Thiên
Chúa có những nguồn mạch khác để kết hợp với linh hồn.
Cần phải suy niệm điều khoản giáo luật
trong phần nói về các bí tích : “Các bí tích của Giao Ước Mới, được Đức
Kitô thiết lập và được uỷ thác cho Giáo Hội, xét như là hành động của Đức Kitô
và của Giáo Hội, là những dấu chỉ và phương thế biểu lộ và củng cố đức tin, cử
hành việc thờ phượng Thiên Chúa và thực hiện việc thánh hoá loài người, vì thế
các bí tích góp phần rất nhiều vào việc xây dựng, củng cố và biểu lộ sự hiệp
thông của Giáo Hội ; do đó các thừa tác viên có chức thánh cũng như các
Kitô hữu khác phải cử hành các bí tích với tất cả lòng kính cẩn và sự chăm chú
cần thiết” (K.840).
2. Truyền thông từ xa và các bí
tích
Ngày nay, con người quá quen với các
phương tiện về khoa học kỹ thuật, phương tiện truyền thông. Chúng giúp con
người đạt được mọi sự hầu như ngay tức khắc. Phương tiện truyền thông từ xa,
không chỉ loại bỏ những khoảng cách thông tin, nhưng còn tạo điều kiện cho con
người có rất nhiều phương thức hoạt động. Nhờ điện thoại, người ta có thể nghe
được từ xa; nhờ truyền hình, họ xem được những hình ảnh từ khắp nơi trên mặt
đất, và cả không gian nữa ; điện báo là một loại máy đánh chữ từ xa…
Phương tiện truyền thông từ xa là những phương thức cho phép con người hiểu
biết và hành động trong mọi lãnh vực mà không cần di chuyển. Tuy nhiên, để
những cửa này mở ra, cần phải có chìa khoá. Phải biết sử dụng máy vi tính, hay
đơn giản hơn phải biết những con số để có thể truy cập hệ thống này hoặc hệ
thống kia. Nếu không, máy móc sẽ nên vô dụng.
Tin học cho phép người tín hữu có những
so sánh gần gũi để hiểu rõ điều gì diễn ra trong bí tích. Nơi bí tích, Thiên
Chúa hành động trên tín hữu, với tín hữu và vì tín hữu. Thật vậy, các bí tích
là phương thức Thiên Chúa thiết lập để các tín hữu đụng đến từ xa, và có thể
nói, để họ có thể tiếp xúc với Người. Các bí tích là những dấu chỉ thánh về
tình yêu cụ thể mà Thiên Chúa đem đến cho con người. Và cũng như mọi dấu chỉ
khác, chúng vượt quá những tỏ hiện bên ngoài. Làn sóng say mê trò chơi điện tử
là những lớp bọt nguy hiểm, vì chúng trì hãm người ta trong chủ nghĩa cá nhân
đơn độc. Có thể nói rằng mọi hình thức điện tử đều ghê gớm vì tính vô ngã thầm
lặng của những máy móc nhỏ bé tinh vi đang làm giảm đi rất nhiều những tương
giao cá nhân là điều làm nên niềm vui của đời sống con người.
Trái lại, các bí tích là những phương
thức thần linh trong việc giao tiếp giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con
người với nhau. Toàn bộ việc cử hành thánh lễ là việc quy tụ người tín hữu
chung quanh Thiên Chúa, để đưa họ vào mầu nhiệm tình yêu của Người, được bày tỏ
tuyệt vời qua hy lễ thập giá. Đối với các tín hữu, bí tích là chìa khoá mở ra
cho họ đời sống tương giao hoán vị là chính Chúa Ba Ngôi.
Trái với điều người ta thường nghĩ xưa
này : các bí tích không hoạt động cách tự động : không phải chỉ ấn
nút hay đánh máy trên bàn phím. Trước tiên các bí tích là những hành động của
Thiên Chúa, chúng chỉ tự mình có hiệu quả khi người ta làm điều Thiên Chúa
truyền và điều Giáo Hội chuyển thông. Và chúng chỉ đem lại hiệu quả ân sủng nơi
con người tuỳ theo mức độ họ mở ra cho hoạt động ấy. Các bí tích có hiệu quả
nơi mình khi hành động được thực hiện đúng luật (ex opere operato).
Thiên Chúa, Đấng tạo nên con người có tự
do, đã để lại trong tâm hồn họ chìa khoá để mở, và các ân sủng bí tích sẽ dừng
lại ở cửa một khi tâm hồn đóng kín. Con người càng biết mở rộng, ân sủng
lại càng phong phú. Trong Tin Mừng, người ta thấy Đức Giêsu buồn trước sự cứng
lòng của con người (Mc 3,5). Điều này đã xảy ra với cư dân Nadarét : Người
đã không thể làm được phép lạ nào tại đó ; Người chỉ đặt tay trên một vài
bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin. Chỉ có đức tin,
phát xuất từ Thiên Chúa, mới có thể mở tâm hồn những người cùng thời với Đức
Giêsu để họ nghe lời Người ; chỉ có sự tuân phục của đức tin – ân huệ
Thiên Chúa ban và con người có quyền từ chối –, mới có thể mở tâm hồn tín hữu
trước các hoạt động cứu độ của Thiên Chúa nơi các bí tích. Đó là sự kéo dài
nhân tính thánh thiện của Đức Giêsu trong không gian và thời gian. Liệu người
tín hữu có để cho Thiên Chúa ghi dấu trên tâm hồn họ ?
3. Bí tích Thanh Tẩy, sự dìm vào
trong Ba Ngôi
Đối với Kitô hữu, lãnh nhận phép rửa
không phải là một nghi thức bên ngoài, nhưng là cùng với Đức Kitô, được dìm vào
trong Chúa Ba Ngôi.
Theo nghĩa đen, từ ngữ thanh tẩy – phép
rửa – baptême, có nghĩa là dìm vào. Thật vậy “dìm xuống” là hình thức cổ xưa
nhất và có ý nghĩa nhất của bí tích thanh tẩy. Một cách độc đáo, chính Đức Kitô
“dìm” mình vào vực thẳm sự dữ, tội lỗi, và cái giá phải trả là đau khổ. Người
đến để thi hành thánh ý Chúa cha bằng cách đón nhận nơi mình tội lỗi thế gian
(Ga 1,29) để chôn vùi nó vĩnh viễn. Niềm khao khát và nỗi ưu tư của Người là
hướng đến sự dìm vào ấy : “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy
khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12,50). Tuy nhiên việc
dìm vào đau khổ và sự chết chưa phải là chung cuộc : nhờ cái chết cứu độ,
Đức Giêsu đi xuống tận âm phủ để dẫn đưa về bờ bến vĩnh cửu tất cả những ai
chấp nhận để được cứu.
Để tham dự vào sự sống của Đức Kitô Phục
Sinh, các tín hữu phải đi vào mầu nhiệm Phục Sinh qua việc lãnh nhận bí tích
Thanh Tẩy : “Việc được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng
được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết
nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống
mới” (Rm 6,4). Con người cũ phải được chết đi và điều này không thể xảy ra
trong một ngày. Tất cả những lần chết đi lần lần hay những thử thách trong cuộc
sống thường ngày là một phần trong cuộc biến đổi của con người ; chúng cần
phải được kết hợp với hy lễ của Đức Kitô để trở thành những yếu tố đem lại ơn
cứu độ. Như thế, người tín hữu được dìm vào trong cái chết của Người.
Tuy nhiên, ngay từ bây giờ, sự sống của
Người vẫn khích lệ các tín hữu rằng việc dìm vào trong cái chết của Người chưa
phải là cùng đích ; nhưng cùng đích chính là dìm vào trong sự sống của
Chúa Con, trong Chúa Ba Ngôi. Bí tích Thanh Tẩy làm cho các tín hữu trở thành
những người con, và do vậy trở thành những người thừa kế, “những người được
Thiên Chúa cho thừa kế, tức là đồng thừa kế với Đức Kitô” (Rm 8,17). Như vậy, các
tín hữu được tưới đẫm, được đầy tràn nhờ Thánh Thần (1 Cr 12,13), đang khi chờ
đợi được dìm vào trong vinh quang. Đó chính là được thanh tẩy “nhân danh Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” như lệnh Đức Giêsu truyền cho các tông đồ
trước khi Người về trời (Mt 28,19).
“Người này có ấn tích !” Nhận xét
trên là một lời khen ngợi vì người có ấn tích là người được ghi dấu trở
thành một cá nhân riêng biệt. Tuy vậy điều này không có nghĩa là cá nhân này
trở thành ngoại hạng, nhưng chỉ có nghĩa là họ là chính mình, có khả năng diễn
tả và củng cố xác tín của mình. Có ấn tích tức là không dễ bị ảnh hưởng, không
để mình bị dư luận lôi kéo, nhưng là biết suy nghĩ, quyết định và hiểu được vấn
đề… Ấn tích, đó là dấu ấn của một nhân cách đúng mực, tương tự như phẩm chất
của một tác phẩm độc đáo. Theo tiếng Hylạp, từ này có nghĩa là một dấu ấn, và
ngày nay thường được hiểu theo nghĩa tốt.
Trong các bí tích, ấn tích là dấu ấn của
Đức Kitô. Bí tích Thanh Tẩy in vào linh hồn ấn dấu của Con Thiên Chúa làm người.
Bí tích Thêm Sức tăng cường dấu ấn này với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Bí
tích Truyền Chức làm cho các thừa tác viên của Chúa Kitô trở thành hình ảnh đặc
biệt của Chúa. Ba bí tích có ấn tích này để lại hiệu quả đầu tiên và bền vững.
Vì thế không thể lãnh nhận nhiều lần các bí tích này, trong khi người ta có thể
thường xuyên lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và Hoà Giải, đồng thời cũng có thể
hưởng ân phúc lãnh nhận hơn một lần các bí tích Hôn Phối và Xức Dầu.
Người ta có thể đánh mất ân sủng, hiệu
quả cuối cùng của bí tích, nhưng không thể mất dấu ấn thiêng liêng được ghi
trong tâm hồn qua ba bí tích kể trên. Ấn tích là một quyền thiêng liêng được
trao ban để cử hành việc thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ người Con Thiên Chúa, được
Thánh Thần ghi dấu (2 Cr 1,22 ; Ep 1,13) mới có thể cử hành Giao Ước được
ký kết trong Máu Đức Kitô và có thể tham gia vào việc ngợi khen vinh quang
Thiên Chúa (Ep 1,14) đã được khởi đầu qua việc nhận làm nghĩa tử. Chỉ những ai
được Thiên Chúa đóng ấn trên trán (Kh 7,3 ; 9,4) mới có thể đi vào phụng
vụ trên trời, đã được khai mào nơi trần gian.
Ấn tích của các bí tích Rửa Tội và Thêm
Sức làm cho mọi Kitô hữu có khả năng tham dự phụng vụ cách hoàn toàn, như được
khẳng định trong Hiến chế Phụng Vụ của Công Đồng Vaticanô II. Vì thế, các tín
hữu phải tìm hiểu và thi hành các ấn tích đã lãnh nhận. Trong các cử hành, ấn
tích của các bí tích Rửa Tội và Thêm Sức làm cho các tín hữu được tháp nhập vào
Đức Kitô, hành động với Người để sống sự sống của Người Con.
Ấn tích của bí tích Truyền Chức làm cho
người lãnh nhận được nên đồng hoá cách chặt chẽ hơn với sứ mệnh của Ngôi Lời
Nhập Thể, trong hướng phục vụ cứu chuộc (phó tế) và trong hướng tư tế (giám
mục, linh mục) để đem lại phúc lộc cho toàn thể Dân Thiên Chúa. Linh mục không
chỉ là người hành động trong sự hiệp nhất với Đức Kitô để dâng lên Chúa Cha lời
chúc tụng tôn vinh, như mọi tín hữu, nhưng còn là người hành động “nhân danh
Đức Kitô – in persona Christi”. Trước mặt cộng đoàn, linh mục là sự hiện diện
sống động của Đức Kitô cho Giáo Hội, là dấu chỉ bí tích của chính Hôn Phu.
Không có ấn dấu của bí tích Truyền Chức, dấu ấn được ban cho một số người để
phục vụ Dân Chúa, thì dấu ấn của các bí tích Rửa Tội và Thêm Sức không thể thi
hành các hoạt động cấp cao : đó là sự tháp nhập cách khách quan và bí tích
vào Đức Kitô và tham dự trọn vẹn hy lễ của Người. Các cộng đoàn Chúa nhật không
có linh mục không vì thế mà bỏ qua vai trò của linh mục, nhưng trái lại đây là
cơ hội để khám phá tính cách không thể thay thế của tác vụ này.
Kitô hữu không phải là những người “nhập
môn” theo nghĩa từ ngữ này được sử dụng trong các hội kín. Trái lại, Giáo Hội
được mở rộng cho tất cả mọi người. Tự bản chất Giáo Hội có tính cách phổ quát,
vì Thiên Chúa “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4).
Khai tâm Kitô giáo không phải là loại bình lọc bí truyền nhằm thu nhận
những người “đã nhập môn” như các giáo phái. Dù vậy, cũng cần phải nói đến sự
khai tâm đích thực vào đời sống trong Đức Kitô Giêsu.
Trước hết, có một sự dẫn nhập tiệm tiến
vào niềm tin Kitô giáo, đó là mục tiêu của huấn giáo. Ngày nay, Giáo Hội tái đề
cao việc chuẩn bị lãnh phép rửa cho người lớn, chú trọng đến các giai đoạn huấn
giáo như thời xưa. Đang khi người tân tòng được giáo huấn về đức tin mà họ sẽ
tuyên xưng, họ cũng được khai tâm cách tiệm tiến, không chỉ là huấn luyện lý
thuyết về các tín điều của kinh Tin Kính, nhưng là bước vào các mầu nhiệm theo
từng nấc, theo nghĩa bí tích của từ ngữ này.
Nghi thức khai tâm Kitô giáo cho người
lớn dự liệu ba giai đoạn chính:
* Trước hết là việc thâu nhận vào số các
ứng viên. Người tân tòng bày tỏ ý muốn của mình muốn tháp nhập vào Đức Kitô qua
việc gia nhập Giáo Hội ; họ nói lên sự khước từ ma quỷ và tất cả những gì
có thể đưa đến tội lỗi ; sau cùng, họ được ghi dấu thánh giá trên tai,
mắt, môi, ngực, và vai, trước khi được nhận vào phần phụng vụ Lời Chúa. Tiếp
đến có thể cử hành nghi thức trừ quỷ.
* Giai đoạn hai bắt đầu khi người tân
tòng có quyết định chắc chắn, và tên họ được ghi vào số các ứng viên lãnh bí
tích Thanh Tẩy. Tiếp đến là thẩm vấn. Đây là “thẩm vấn” ý hướng của người tân
tòng, đánh giá về sự sẵn sàng bên trong cũng như sự hiểu biết về đức tin, rồi
sau đó là nghi thức trừ quỷ. Quy luật hiện hành duy trì 3 lần thẩm vấn vào các
tuần 3, 4, 5 Mùa Chay với các bài Tin Mừng về người phụ nữ xứ Samari, người mù
từ lúc mới sinh, và sự phục sinh của ông Ladarô. Tiếp đến là việc long trọng
trao kinh Tin Kính và kinh Lạy Cha, những lời kinh thiết yếu của đời sống Kitô
giáo. Đây là một “truyền thống theo nghĩa chặt,” người ta lãnh nhận kho tàng
của toàn bộ dòng dõi các tín hữu. Sau đó là nghi thức Effata – hãy mở ra, phát
xuất từ phép lạ Đức Giêsu chữa người câm điếc (Mc 7,34) : tai và môi người
tân tòng được chạm đến để lắng nghe và ca tụng trong phụng vụ. Ứng viên chọn
cho mình một tên, rồi họ được xức dầu dự tòng. Sau khi đã được chuẩn bị lâu dài
như thế, ứng viên có thể được nhận sự khai tâm đích thực, tức là cử hành các bí
tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể.
* Giai đoạn ba là gia nhập vào chính các
mầu nhiệm bí tích. Cử hành ý nghĩa nhất là ba bí tích được gọi là “khai tâm.”
Chúng được trao trong một nghi thức duy nhất : bí tích Rửa Tội và Thêm Sức
được cử hành trong thánh lễ, nếu có thể là Đêm Vọng Phục Sinh. Khi một linh mục
cử hành bí tích Rửa Tội cho người lớn, ngài được quyền ban bí tích Thêm Sức.
6. Dẫn nhập vào các mầu nhiệm
bằng các mầu nhiệm
Để lãnh nhận các bí tích khai tâm, cần
phải được học hỏi về giáo lý cách phù hợp : theo nghĩa này, cần phải được
dẫn nhập vào các mầu nhiệm bí tích.
Các giáo phụ, những vị thầy về huấn
giáo, cho rằng việc khai tâm vào các mầu nhiệm được thi hành cách chính yếu qua
các mầu nhiệm. Người ta có thể đọc các bài viết về bí tích, có thể nghe thuyết
trình, dự khoá học về đề tài này. Nhưng tất cả những điều này vẫn chỉ là bên
ngoài nếu người ta không có kinh nghiệm về hoạt động của Thiên Chúa trên con
người và với con người trong đời sống bí tích.
Thánh Amrôsiô nói như sau về người tân
tòng : ”Bạn đã đi, bạn đã rửa, bạn đã đến trước bàn thờ, bạn đã bắt đầu
thấy điều trước đây bạn không thấy, tức là nhờ giếng nước của Chúa và lời giảng
về cuộc khổ nạn của Chúa, mắt bạn đã mở ra. Trước đây dường như tâm hồn
bạn mù tối, bây giờ bạn đã nhìn thấy ánh sáng các bí tích” (về các bí tích
3,15). Như ta biết, thánh Amrôsiô đã rửa tội cho thánh Âutinh : vị thánh
này được rửa tội lúc còn là trẻ nhỏ – không phải là tục lệ thời bấy giờ – vì
mắc bệnh nặng. Thánh Âutinh thuật lại rằng thân mẫu của ngài – Thánh Monica, đã
phải vội vàng chuẩn bị để ngài được khai tâm nhờ các bí tích (xem tự thuật I,
II, 17).
Về bí tích Thánh Thể cũng vậy :
người nào rước lễ, cũng sẽ hiểu khi lãnh nhận. Thánh Âutinh khuyên : “Nếu
bạn không biết, hãy làm cho biết” (Chú giải về Thánh vịnh 33,12) và ngài
thêm : “nếu bạn chưa biết, hãy nếm thử”. Trong lãnh vực này, không có gì
có thể thay thế kinh nghiêm. Chờ đợi ân huệ của Thiên Chúa, thì việc chuẩn bị
của con người không thể nào đủ ; chỉ có ân sủng mới có thể đưa con người
lên xứng tầm với ân sủng ; chỉ có các bí tích mới đủ sức nâng con người
đúng với hoạt động của Thiên Chúa. Giáo Hội long trọng công bố chân lý này là
trung tâm của ơn công chính hoá :
Lạy Chúa, khi chúng con dự tiệc Mình và
Máu Đức Kitô,
Chúa đã thân hành đến gặp con cái Chúa.
Xin cho bí tích kỳ diệu này
sinh hoa kết quả trong lòng chúng con
để hồng ân Chúa vừa ban tặng
giúp chúng con sẵn sàng lãnh nhận những hồng ân khác nữa
(Lời nguyện sau hiệp lễ, thứ Sáu Tuần Bát Nhật Giáng Sinh)
Cho dù có chuẩn bị thế nào chăng nữa,
thì cũng chỉ có các bí tích mới có khả năng làm cho các tín hữu lãnh nhận cách
trọn vẹn.
Theo nhãn quan này, có thể hiểu rằng,
theo các giáo phụ, chỉ có được giải thích trọn vẹn về các bí tích sau khi cử
hành. Chỉ sau khi lãnh nhận các bí tích Thanh Tẩy, Thêm Sức, và Thánh Thể,
những người vừa gia nhập Kitô giáo mới hiểu được các bí tích của các “mầu
nhiệm” bí tích. Cần nhắc lại rằng “các bài huấn giáo khai tâm” là những bài
thuyết giảng của các giáo phụ dành cho những tín hữu mới gia nhập Kitô giáo.
Các vị chỉ muốn rút ra những bài học từ kinh nghiệm mà những người tân tòng vừa
trải qua.
Đây chỉ là sự bí nhiệm đích thực của
Kitô giáo được liên kết với các “mầu nhiệm” bí tích. Theo hướng này, ngoài việc
gia tăng lời đọc và phụng vụ Lời Chúa, chiều kích thinh lặng là điều cần lưu
tâm cho việc cử hành bí tích. Nơi đó, Thiên Chúa đụng chạm đến con người.
7. Trở nên người Kitô hữu vững
mạnh
Bí tích Thanh Tẩy đem lại cho con người
sự sống thần linh và làm cho họ trở thành con cái Thiên Chúa, nhưng họ vẫn mãi
là “những trẻ nhỏ trong Đức Kitô”, những người chỉ uống sữa chứ không thể dùng
thức ăn cứng (x. 1 Cr 3,1-2). Như trong định luật tăng trưởng, con người không
thể cứ mãi là trẻ nhỏ, thì trong đời sống Kitô giáo cũng vậy, sau thời gian
huấn luyện sơ khởi, người tân tòng phải đạt tới trình độ trưởng thành trong đức
tin. Từ trẻ nhỏ, họ trở thành người lớn. Nếu chỉ lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy,
người ta là người “dừng lại” trong đời sống thiêng liêng. Thật vậy, mặc dù đời
sống thiêng liêng được trao ban cho mỗi người qua phép rửa, nhưng chỉ có bí
tích Thêm Sức – theo trật tự bình thường của việc thánh hoá –, mới có khả năng
đưa con người ra khỏi tình trạng thơ ấu để đạt tới trình độ trưởng thành. Không
có hoạt động của một số tế bào trong cơ thể, con người không phát triển. Không
lãnh nhận bí tích Thêm Sức, đời sống thiêng liêng của người đã được thanh tẩy
cũng dừng lại.
Các xã hội con người thuộc mọi thời đại
đã thần thánh hoá không chỉ sự sinh ra, mà cả thời điểm trưởng thành, vào lúc
một gia đình được xây dựng.
Bí tích Thêm Sức hoàn tất việc khai tâm
do bí tích Rửa Tội khởi đầu và làm cho người Kitô hữu trẻ có thể đảm nhận đức
tin của mình. Người bạn trẻ này không còn là người lãnh nhận, nhưng là người có
khả năng cho đi, có khả năng làm chứng, và tham dự trọn vẹn vào đời sống của
Giáo Hội. Với người Dothái, người thiếu niên được 12 tuổi sẽ lãnh nhận nghi
thức Bar-Mitsva, trở thành “con của Lề Luật”, tức là đến tuổi phải tuân giữ lề
luật (có thể nối kết với câu chuyện Đức Giêsu lên 12 tuổi : Lc 2,41-50).
Trở thành một “con người thực thụ”, một
Kitô hữu được xác nhận trong đời sống thiêng liêng. Điều này không có nghĩa là
bí tích Thêm Sức làm cho người ta nên thánh ngay tức thì, nhưng chỉ có nghĩa là
người lãnh nhận có đủ điều kiện để trở thành một vị thánh, tức là hoàn toàn sẵn
sàng dưới sự tác động của Thánh Thần.
Cũng như ngày lễ Hiện Xuống là sự hoàn
tất Mầu Nhiệm Phục Sinh (Đức Giêsu gọi đây là phép rửa Lc 12,50), bí tích Thêm
Sức sẽ hoàn thành và xác nhận hiệu quả của bí tích Rửa Tội, làm cho người lãnh
nhận bí tích này nên đồng hình đồng dạng hơn nữa với Đức Kitô.
Toàn bộ công trình thánh hoá có liên hệ
đặc biệt đến Thần Khí. Người là nguyên lý của việc tái sinh trong bí tích Thanh
Tẩy (x. Ga 1,33). Khi chịu phép Rửa Tội, người tân tòng mới lãnh nhận hạt giống
của đời sống thiêng liêng, họ cần phải được lớn lên, sung mãn nhờ ân sủng. Họ
phải lãnh nhận một bí tích khác để được hưởng trọn vẹn ân huệ của Thần Khí. Bí
tích này khác với bí tích Rửa Tội như được nhắc đến trong sách Công vụ Tông
Đồ : Các ông Phêrô và Gioan đến với dân miền Samari, “hai ông cầu nguyện
chọ họ, để họ nhận được Thánh Thần. Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong
nhóm họ : họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ hai ông
đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần” (Cv 8,15-17 ; x. 19,4-6).
Nghi thức Thêm Sức gồm :
·
Đặt tay trên các ứng viên,
·
Lời nguyện xin Chúa Cha sai Thánh Thần,
nguồn bảy ơn,
·
Sau đó là xức dầu trên trán mỗi ngưởi
với công thức : “Con hãy nhận ấn tín Chúa Thánh Thần”.
Thừa tác viên thông thường của bí tích
Thêm Sức là giám mục, người đã lãnh trọn vẹn ân huệ Chúa Thánh Thần qua bí tích
Truyền Chức. Tuy nhiên ngài có thể uỷ quyền cho một hay nhiều linh mục đại diện
ngài để cử hành bí tích này.
Khí có đông người lãnh nhận bí tích Thêm
Sức, các linh mục có thể phụ giúp giám mục, cùng đặt tay khi đọc lời nguyện,
rồi sau đó xức dầu cá nhân.
Trong trường hợp rửa tội cho người lớn,
nên ban bí tích Thêm Sức ngay sau khi rửa tội, các linh mục có thể cử hành.
Thời cổ, các bí tích khai tâm là Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể được cử hành
trong cùng một lần.
9. Các phép lành của Dothái giáo
và Thánh Thể của Kitô giáo
Con người là một sinh vật được dựng nên
để nói lời cám ơn. Và ta biết, con người chỉ có thể triển nở trong niềm vui,
một niềm vui bắt nguồn từ căn nguyên là đau khổ, gắn liền với thân phận làm
người. Thân phận vốn rất giới hạn và đầy tội lỗi.
Toàn thể thụ tạo đã xuất hiện nhờ những
chúc lành của Thiên Chúa. Sự chúc lành hệ tại việc “nói tốt” hay “nói về điều
tốt”. Đối với Thiên Chúa, không chỉ là nói. Khi Người nói tức là Người
làm : “Thiên Chúa phán : ‘Phải có ánh sáng’. Liền có ánh sáng. Thiên
Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp” (St 1,3-4). Sáu ngày tạo dựng đã diễn ra như
thế. Thiên Chúa nói tốt, Thiên Chúa làm tốt : Người phủ đầy mặt đất bằng
các phúc lành và những điều tốt Người làm. Lời tiền tụng trong kinh Tạ Ơn công
bố : “Cha là Đấng duy nhất tốt lành và là nguồn mạch sự sống, đã tác tạo
mọi loài để ban cho chúng đầy tràn ơn phúc và cho nhiều thụ tạo được vui hưởng
ánh sáng huy hoàng của Cha”.
Còn Thánh vịnh 113 cho thấy rằng, con
người được Thiên Chúa chúc lành, không chỉ do công trình tạo dựng, nhưng còn do
công trình cứu độ :
“Chúa nhớ đến ta và sẽ ban phúc
cả :
sẽ ban phúc cho nhà Ítraen,
sẽ ban phúc cho nhà Aharon,
sẽ ban phúc cho người kính sợ Chúa
cho người lớn cũng như kẻ nhỏ.
Nguyện xin Chúa rộng rãi thi ân
cho anh em và cho con cháu.
Nguyện xin Chúa, Đấng dựng nên đất trời,
xuống muôn phúc lành cho anh em” (cc. 15-17)
Trước muôn vàn hình thức chúc phúc của
Thiên Chúa, con người phải nói lên lời chúc tụng : Nếu Thiên Chúa chúc
phúc cho con người, thì con người phải chúc tụng Chúa. Thánh vịnh 118 kết
luận :
“Chính chúng ta, những người còn đang
sống,
chúng ta chúc tụng Chúa
từ nay đến muôn đời”.
Theo gương ông Ápraham, con người phải
thông truyền cho anh em của mình phúc lành của Thiên Chúa. Người phán với ông
trong lần gặp gỡ đầu tiên : “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ
chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối
phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi ; ai nhục mạ
ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”
(St 12,2-3).
Ý thức mình luôn được Thiên Chúa chúc
phúc, con người không chỉ chúc tụng Thiên Chúa, – là điều phụng vụ làm –, mà
còn phải chúc phúc cho những người khác. Thánh vịnh 108 kết án kẻ dữ bằng những
lời này :
Nó đã thích nguyền rủa,
thì cho lời nguyền rủa đổ lên đầu nó ;
nó chẳng ưa lời chúc lành,
thì cho lời chúc lành bỏ nó ra đi.
Chúng cứ nguyền rủa đi,
nhưng phần Ngài, xin Ngài giáng phúc.
Chúng cứ việc nổi dậy chống con,
chúng sẽ phải nhục nhằn xấu hổ.
Nhưng tôi tớ Ngài đây sẽ được vui mừng” (cc. 17.28)
Phụng vụ Dothái đã được hình thành từ
rất nhiều lời chúc tụng (buakoth trong tiếng Hípri). Những lời chúc tụng được
biết đến nhiều nhất là 18 lời chúc lành (Shémoné-Esré) tượng trưng cho lời cầu
nguyện kiểu mẫu nhất của Do Thái giáo, rồi lời chúc tụng Đấng Sáng Tạo (Bukat
Yotser) dẫn vào lời kinh Thánh Thánh Thánh, rồi các lời chúc lành trong bữa ăn
mà ý tưởng có thể thấy qua việc tiến dâng bánh rượu trong Thánh lễ. Như đã nói,
Đức Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong khung cảnh bữa ăn vượt qua với
những lời chúc tụng đặc biệt. Cần phải nhớ rằng mầu nhiệm phụng vụ được sắp xếp
qua việc trao đổi những chúc lành giữa Thiên Chúa và con người, trong Đức Kitô.
10. Thiết lập Bí tích Thánh Thể
Khi thiết lập bí tích Thánh Thể trong
bữa Tiệc Ly, trước khi đến đồi Canvê, Đức Giêsu đã tỏ cho các môn đệ thấy rằng
“các hy lễ xưa đã được hoàn thành” (Lời tiền tụng V Phục Sinh). Vì vậy cần phải
nhắc lại những “cội nguồn hay những hình ảnh của thánh lễ”.
Mở đầu bữa tiệc vượt qua, việc chúc tụng
trên chén thứ nhất (không phải Thánh Thể) quy hướng toàn bộ cuộc cử hành (cả
ngày nay nữa) về bữa tiệc cánh chung trong Vương Quốc Thiên Chúa (Lc 22,16).
Trong khi dọn bàn và rót đầy chén thứ
hai, vị chủ toạ sẽ diễn giảng để nhấn mạnh rằng bữa tiệc vượt qua hiện tại hoá việc
giải thoát khỏi đất Aicập mà họ đang tưởng niệm. Chính vào thời điểm này Đức
Giêsu đã giải thích cho các tông đồ biết chính Người là Chiên Vượt Qua đích
thực, Bánh Không Men chân thực, Người Tôi Tớ hiến mình làm của lễ đền tội để
thiết lập Giao Ước Mới.
Khi sửa soạn dùng bữa chính – đã được
chuẩn bị, vị chủ toạ sẽ đọc một lời chúc lành – một lời tạ ơn, Eucharistie –,
trên bánh không men ; vào lúc ấy, Đức Giêsu thêm : “Đây là Mình Thầy,
bị nộp vì anh em” (Lc 22,19).
Vào cuối bữa ăn, người ta chúc tụng chén
thứ ba ; Đức Giêsu công bố : “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng Máu
Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,20). Lời chúc tụng chén thứ tư mở đầu việc
hát Thánh vịnh để kết thúc bữa ăn (Tv 114 – 118). Sau bài hát này, Đức Giêsu đi
ra Núi Cây Dầu (Mc 14,26).
Được đặt trong bối cảnh bài ca tụng
Thánh vịnh và trong khung cảnh một bữa tiệc hiến tế, Thánh Thể đem lại ý nghĩa
cho sự kiện đồi Canvê, hành vi yêu thương tuyệt hảo Đức Kitô dâng lên Chúa Cha
và trao tặng cho những kẻ thuộc về Người (Ga 14,31 và 13,1). Sau hiến lễ duy
nhất trên thập giá (Hr 9,26.28 ; 10,10), Thánh Thể trở thành bí tích của
hy lễ Canvê, là tưởng niệm biến cố này. Khi nói : “Hãy làm việc này mà
tưởng nhớ đến Thầy”, Đức Giêsu quy chiếu về việc tưởng niệm tại Ítraen.
Hiện diện trước bàn thờ, trước Mình và
Máu Đức Giêsu, con người trở thành người cùng thời với hy lễ của Đức Giêsu,
được Giáo Hội mời gọi để
* Cùng với Giáo Hội hiến dâng chính mình
như Đức Giêsu.
* Họ được mời gọi tham dự vào bàn tiệc
Vương Quốc, vì chính Đức Kitô vinh hiển trao ban chính mình làm của ăn.
* Hiện tại hoá đồi Canvê, Thánh Thể cũng
là lời mời gọi “hướng đến” Chúa Cha, để Người hoàn tất công trình của Người là
thực hiện cuộc Quang Lâm của Chúa Con, Đấng dẫn đưa con người vào Vinh Quang.
Chính vì thế các tín hữu tung hô sau
truyền phép : “Lạy Chúa Giêsu, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, chúng
con tuyên xưng Chúa sống lại, chúng con đợi chờ Chúa lại đến trong vinh quang”.
11. Thánh Thể, đá đỉnh vòm của
phụng vụ
Tại đồi Canvê, một lần thay cho tất cả,
Đức Giêsu đã lấy máu mình làm của lễ để đóng ấn Giao Ước Mới và vĩnh cửu. Điều
ấy đã được thực hiện vì Đức Kitô là Thiên Chúa và cũng là Người. Với người phàm
thì không thể như thế. Khi trao ban ân huệ Thánh Thể, Đức Kitô bảo đảm cho Giáo
Hội khả năng mỗi ngày đi sâu hơn vào công trình tuyệt vời của tình yêu :
đón nhận Chúa Con từ Chúa Cha, đón nhận Chúa Thánh Thần từ Chúa Cha và Chúa
Con. Trở nên Hiền Thê của Chúa Con, Giáo Hội có thể tiến về Chúa cha nhờ tác
động của Thánh Thần, Đấng làm cho Giáo Hội đi đến tận cùng của tình yêu. Vì
thế, Thánh Thần là trung tâm của cuộc trao đổi Thánh Thể, như chính Người là
hồng ân chung cuộc của mọi bí tích. Điều này không có gì là ngạc nhiên, vì con
người đã được trao ban nguồn sự sống là Thánh Thần, Đấng là sự liên hệ cá vị
với Chúa Cha và Chúa Con.
Thánh Thể là bí tích từ một hy lễ, là đá
đỉnh vòm của phụng vụ, nên Thánh Thể bao gồm toàn bộ Mầu Nhiệm mà Giáo Hội cử
hành, hợp nhất với thiên quốc. Mọi bí tích, á bí tích và Các Giờ Kinh đều quy
hướng về Thánh Thể, vì Thánh Thể là nguồn mạch và đỉnh cao của tất cả cuộc sống
Giáo Hội, của toàn bộ công trình của Thiên Chúa. Trong cử hành trung tâm này,
Giáo Hội thực sự gặp gỡ Thiên Chúa của mình. Mỗi người con thực hiện điều mình
là. Các tín hữu là những chứng nhân và những tác viên trong công trình của
Thiên Chúa, họ lập lại lời Amen đối với Giao Ước và Vinh Quang Thiên
Chúa. Trong khi đó, các thừa tác viên có chức thánh tượng trưng cách khác
nhau về chính Đức Kitô : như Thượng Tế (giám mục, linh mục), như Tôi Tớ
(phó tế). Chính điều này bảo đảm tính khách quan của việc hiện tại hoá cách bí
tích về tuyệt phẩm của tình yêu.
Hợp nhất với vị tư tế của mình, cộng
đoàn là Hiền Thê kết hợp với Hôn Phu, tức là Chúa con để tiến về Chúa Cha.
Thánh Thần là sức sống của sự hợp nhất hữu cơ này. Như thế, nhờ việc tiến dâng
Mình và Máu Chúa Giêsu, Giáo Hội ngày càng trở nên “một dân tộc được hiệp nhất
nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (GH 4).
Rước lễ là của ăn đặc biệt của tín hữu.
Không thể nào có đời sống Kitô giáo đích thực nếu không rước lễ thường xuyên.
Mỗi ngày, con người cần có thức ăn thích hợp để nuôi sống chính mình, do vậy
cũng thật là hợp lý khi mà đời sống thiêng liêng, – nhờ bí tích Thanh Tẩy đã
được gieo vào trong tâm hồn con người, được nuôi dưỡng bằng bí tích. Trong đó
Thiên Chúa trao ban chính Người như là của ăn thiêng liêng nuôi sống đời sống
thiêng liêng.
Đã có những giai đoạn trong lịch sử Giáo
Hội, việc rước lễ rất hiếm, ngay cả với những người sống đời tu trì. Ta biết
Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng đã rất đau khổ khi không thể rước lễ thường xuyên như
chị muốn. Chị hiểu rằng Chúa Giêsu không hiện diện trong Mình Thánh để rồi được
đặt trong bình ở nhà tạm. Bánh sự sống là của ăn dành cho con người. Thánh Thể
không phải là phần thưởng dành cho bậc thánh thiện hoàn hảo, nhưng là sức mạnh
thần linh có khả năng giúp những con người yếu đuối thắng vượt những khuynh
hướng xấu của mình. Vì vậy, không phải cứ đợi đến khi nào hoàn hảo mới rước lễ.
Ngày nay, việc rước lễ trở nên thường
xuyên hơn. Từ đầu thế kỷ trước, Đức Giáo Hoàng Piô X đã khuyến khích các tín
hữu nên rước lễ nhiều hơn và quy luật về giữ chay Thánh Thể cũng nhẹ nhàng hơn
hầu mọi người có thể dễ dàng rước lễ. Tuy nhiên, không vì thế mà việc rước lễ
trở thành thói quen của tín hữu. Lời cảnh báo của thánh Phaolô với các tín hữu
Côrintô vẫn có trọn vẹn ý nghĩa : sau khi nhắc lại “truyền thống” về bữa
tiệc của Chúa, thánh nhân thêm : “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa
cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi
hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được
Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình” (1 Cr 11,27-29).
Để ăn, phải là người đang sống. Những
người đang sống sự sống thiêng liêng là những người đã được thánh tẩy nuôi sống
mình bằng Bánh Sự Sống, mà vẫn duy trì nơi mình sự đói khát. Nhưng nếu hạt
giống thiêng liêng đã lãnh nhận khi chịu phép rửa bị héo tàn hay còi cọc, vì
không được chăm sóc, thì đời sống thiêng liêng nơi tín hữu cũng có thể bị tàn
lụi : Mọi tội trọng, tức là tội phạm có ý thức và lòng muốn, đi ngược với
các điều răn , cách trực tiếp hay gián tiếp đều đưa đến sự cắt đứt mối liên lạc
với Thiên Chúa. Do đó ta không thể đến với bí tích tình yêu. Khi đời sống
thiêng liêng bị thương tích cách nghiêm trọng, tín hữu không thể lãnh nhận
lương thực cứu độ thần thiêng : một người đã chết không thể ăn uống gì
được.
Với lòng nhân từ, Đấng Cứu Thế đã thiết
lập một bí tích có khả năng tái lập đời sống thiêng liêng nơi tín hữu đã vi
phạm nặng nề là bất trung với Thiên Chúa. Bí tích Sám Hối được lập ra để tha
các tội, không chỉ các tội trọng, nhưng tha tất cả những gì nơi tín hữu đang
làm suy yếu sự sống do Thiên Chúa thông ban.
13. Những hành vi của hối nhân
Hiệu quả riêng của bí tích Sám Hối là sự
giao hoà mối thân tình giữa Thiên Chúa và tín hữu. Mối thân tình này đã bị
đổ vỡ (tội trọng) hay bị suy yếu do những yếu kém của con người. Trước khi được
xá giải, hối nhân phải thực hiện một số hành vi. Một mặt chúng như là điều kiện
cần có; một mặt để ân sủng của Thiên Chúa đến hoạt động nơi tâm hồn tín hữu.
Hành vi đầu tiên và chính yếu của người
muốn xin ơn tha thứ của Thiên Chúa qua tác vụ của Giáo Hội là lòng sám hối, tức
là tâm tình nặng nề, tan nát vì điều xấu đã phạm, sự đau buồn gây ra cho người
khác và Thiên Chúa. Đây không chỉ là sự hối hận suông, mà mọi người đều cảm
nghiệm sau khi làm điều xấu, nhưng đây là một tâm tình thực sự hối tiếc được
gợi lên do tình yêu đối với Thiên Chúa và người khác. Lòng sám hối chính là
hành vi của tình yêu ; đó là tâm tình được nhắc đến trong Tv 50 :
“Một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài đã chẳng khinh chê”.
Người ta phân biệt lòng sám hối hoàn hảo
và không hoàn hảo. Lòng sám hối hoàn hảo phát xuất từ đức ái, tức là từ lòng yêu
mến chân thành đối với Thiên Chúa mà mình đã xúc phạm, còn sám hối không hoàn
hảo là do sợ hình phạt hay vì lo giữ luật Chúa và luật Giáo Hội. Nếu linh mục
nhận thấy hối nhân không tỏ ra lòng sám hối thật sự, ngài có thể không ban phép
tha tội.
Lòng sám hối là một tâm tình bên trong
phải được bày tỏ ra bên ngoài bằng việc xưng thú các tội đã phạm (hành động thứ
hai). Nếu đã cảm thấy ăn năn thực sự về lầm lỗi của mình, người ta sẽ thấy cần
phải xưng thú các điều ấy với người đã lãnh nhận từ Đức Kitô quyền tha các
tội : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy
được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
Trong việc xưng thú này, không nhất thiết phải liệt kê chi tiết các tội đã phạm
sau lần xưng tội trước ; chỉ cần xưng thú các tội trọng và những gì, do sự
soi sáng thiêng liêng, làm cản trở hay tắc nghẽn lòng yêu mến đối với Thiên
Chúa và người khác. Nói tóm lại, tất cả những gì gây trở ngại cho những tương
giao của người tín hữu đối với Thiên Chúa và người khác.
Hành vi thứ ba của hối nhân được gọi là
đền tội : đây là hành vi có tính tượng trưng (cầu nguyện, làm việc lành
hay đền bù) do linh mục đề ra và tín hữu chấp nhận. Qua đó tín hữu bày tỏ ý
muốn đền bù, cách nào đó, điều mình đã chống đối hay gây phiền muộn cho Thiên
Chúa vì tội đã phạm.
Các tên gọi hiện nay về bí tích này nhấn
mạnh đến hành vi của hối nhân : sám hối, xưng tội, đền tội. Thật ra, các
hành vi này chỉ có ý nghĩa một khi phát xuất từ tấm lòng chân thành, từ tình
yêu vì đã xúc phạm đến Tình Yêu.
Lịch sử về việc thực hành bí tích này
khá phức tạp. Khởi đầu bí tích này dành cho những người mắc tội trọng và công
khai : hối nhân phải xưng thú và được giao hoà cách công khai ; bí
tích này chỉ được thực hiện một lần và không thể lặp lại. Dần dần, việc sám hối
được áp dụng cho các tội bên trong, và việc thực hành được phát triển nhiều
nhất do sự ảnh hưởng của các vị giải tội người Ái Nhĩ Lan từ thế kỷ VII. Năm
1215, Công Đồng Latran IV truyền phải xưng tội hàng năm, và ngày nay điều này
vẫn là một đòi buộc : mọi tín hữu phải xưng tội ít là một lần một năm.
Một tín hữu quan tâm đến đời sống thiêng
liêng không thể bằng lòng với việc xưng tội hằng năm, một điều tối thiểu. Cần
phải xưng tội, không phải chỉ sau khi phạm tội trọng, trước khi rước lễ, nhưng
còn để lãnh nhận sức sống thần linh, kể cả khi không ý thức về tội trọng. Đối
với các tu sĩ, những người khao khát sống thân thiết với Đức Kitô, như những
dấu chỉ sống động về lời mời gọi hướng đến sự thánh thiện cho mọi Kitô hữu,
giáo luật truyền phải “thường xuyên” lãnh nhận bí tích Sám Hối. Khi người ta
càng khao khát đáp trả lời mời gọi của Chúa, người ta càng khám phá, dưới ánh
sáng của ân sủng, tất cả những gì làm cản trở lòng yêu mến.
Cách thức thông thường duy nhất để lãnh
ơn tha tội là việc xưng thú cá nhân. Mặc dù tội lỗi có nhiều khía cạnh liên
quan đến đời sống cộng đồng, nhưng đòi vẫn có tính cá vị, và do đó cần có sự
tha thứ cá nhân. Tốt nhất là tổ chức các buổi sám hối cộng đồng để giúp cho các
tín hữu hiểu những liên luỵ do tội lỗi gây ra và trách nhiệm của họ, sau đó là
việc xưng tội và tha tội riêng (xem Tông Thư của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
về sám hối và hoà giải, ban hành ngày 2-12-1984).
Việc tha tội chung chỉ được dành cho
những trường hợp rất đặc biệt. Cách thức thông thường duy nhất để lãnh nhận ơn
tha thứ của Thiên Chúa trong Giáo Hội là cá nhân xưng tội và lãnh ơn tha tội,
hoặc trong một cử hành có nhiều linh mục, hoặc trong cử hành chỉ có hối nhân và
linh mục. Hình thức sau này rất đáng khuyến khích vì đây là cơ hội để mỗi tín
hữu bày tỏ tình trạng tâm hồn và nhận được những lời khuyên thích hợp. Chính
trong kinh nghiệm cá nhân về tội lỗi mà mỗi người hiểu hơn về tội lỗi.
Về bí tích Sám Hối ; cũng giống như
về các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể : dù rất cần phải có sự
chuẩn bị, nhưng mỗi khi lãnh nhận bí tích này, người tín hữu lại được ân sủng
của bí tích giúp cảm nghiệm sâu xa hơn về Tình Yêu đã cứu chuộc họ.
Các ân xá diễn tả phụng vụ theo mức độ
chúng là một điều bổ sung cho bí tích Sám Hối. Thật vậy, ân xá (indulgentia) là
việc tha hình phạt phải chịu vì tội lỗi đã phạm, do Giáo Hội ban qua một số
hành động rõ ràng. Khởi đầu được nối kết với việc hành hương Đất Thánh, và được
phát triển nhiều hơn vào thời thánh Phanxicô Átxidi. Cuối thời Trung Cổ, các ân
xá đã tăng thêm rất nhiều, đến mức quá đáng và trở thành điều hầu như máy móc.
Đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra sự phản đối của Luther.
Sau Công Đồng Vaticanô II, Đức Giáo
Hoàng Phaolô VI đã ban hành Tông Hiến về giáo lý các ân xá (1-1-1967). Theo văn
kiện này, các ân xá, thay vì trở thành lỗi thời, lại được nối kết với tín điều
các thánh cùng thông công. Thật vậy, ân xá là việc tha tất cả hay một phần
về hình phạt tạm thời phải chịu do tội lỗi gây ra. Chúng được ban cho tín hữu
đã chuẩn bị kỹ càng, qua trung gian Giáo Hội như là thừa tác viên của ơn cứu
độ, lấy ra từ kho tàng công nghiệp của Đức Kitô và các thánh. Các ân xá, tất cả
hay một phần, được dành cho tín hữu nào muốn lãnh cho mình, hay cho những người
đã qua đời, nhưng không dành cho những người còn đang sống.
Về phụng vụ, các linh mục có thể ban ơn
toàn xá trong trường hợp nguy tử – in articulo mortis, nhất là khi ban bí tích Xức
Dầu Bệnh Nhân hay trao của ăn đàng. Tuy nhiên, người lâm cơn nguy tử có thể
hưởng ân xá ngay cả khi không có linh mục.
Mọi việc lành, có thể để hưởng ân xá,
một cách nào đó, đều có liên hệ với đời sống phụng vụ, nguồn mạch và đỉnh cao
của toàn bộ đời sống Kitô hữu.
Truyền chức – ordre bao hàm ý tưởng sự
tổ chức của một nhóm người. Mọi cộng đoàn, mọi xã hội đều phải có một cơ cấu
nội tại, ngay cả “xã hội” của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. 1 Ga
1,3). Chúa Cha sai Chúa Con – chứ không ngược lại : đó là trật tự Ba Ngôi
–, cũng vậy Chúa Con sai các tông đồ đi tiếp tục sứ mạng của Người trong không
gian và thời gian, ban cho các ông các quyền cần thiết để thi hành nhiệm
vụ : các ông cũng lãnh nhận Thánh Thần như Người đã lãnh nhận (Ga
20,21-22 ; x. Mt 3,16). Thật vậy, tất cả mọi quyền bính đều được coi
như để phục vụ một sứ mạng, chứ không phải là điều để tăng uy tín cá nhân.
Người ta thường vẫn có khuynh hướng xem các trách nhiệm trong Giáo Hội dưới
lăng kính danh dự, trong khi thực sự đây là một gánh nặng (honor, us – theo
tiếng Latinh). Ngày nay, dường như người ta hiểu rõ hơn những khó khăn của hàng
giáo phẩm, nên thường tránh không mời các ngài trong các nghi lễ có tính danh
dự.
Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến chế
Tín Lý về Giáo Hội đã dành vị trí ưu tiên cho Dân Thiên Chúa (các số 9-17), sau
đó mới đến phẩm trật Giáo Hội, đặc biệt là hàng giám mục : “Để chăn dắt và
phát triển Dân Thiên Chúa luôn mãi, Chúa Kitô đã thiết lập các chức vụ khác
nhau trong Giáo Hội hầu mưu ích cho toàn thân. Thực vậy, các thừa tác viên sử
dụng quyền bính thiêng liêng phục vụ anh em mình để mọi người thuộc Dân Thiên
Chúa được hưởng phẩm giá đích thực Kitô hữu và đạt đến phần rỗi, nhờ nỗ lực
tiến đến cùng một cứu cánh trong tự do và trật tự” (s.18).
Trong Giáo Hội và để phục vụ anh chị em,
các thừa tác viên có chức thánh bảo đảm cho Dân – Hiền Thê, sự hiện diện và
hoạt động của Đức Kitô – Hôn Phu. Là những chi thể trong Thân Thể huyền
nhiệm như mọi người đã lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, các thừa tác viên này có
thể diễn tả cho mọi người sự hiện diện của Đầu ; là những người nói thay
cho cộng đoàn, các vị này cũng hiện diện trước vị Thủ Lãnh. Đó chính là vai trò
trung gian. Thánh Âutinh nói : “Với anh em, tôi là Kitô hữu ; vì anh
em, tôi là giám mục”.
17. Tình yêu nhân loại – Mặc
khải về Thiên Chúa – Tình yêu
Đức Giêsu Kitô, Đấng là Khởi Nguyên và
Cùng Đích (Kh 1,8) đồng thời là trung tâm của toàn thể lịch sử cứu độ, đã không
đến để phá huỷ điều tích cực của các Giao Ước Cũ, nhưng là để kiện toàn (x. Mt
5,17). Theo thần học, ân sủng không phá đổ tự nhiên, trái lại ân sủng làm cho
tự nhiên được phát triển trọn vẹn theo chương trình của Thiên Chúa. Tình yêu
của con người cũng diễn ra như thế, một tình yêu đạt được chiều kích trọn vẹn
trong bí tích Hôn Phối.
Điều làm nên một con người, điều làm cho
họ được quân bình, đó là yêu thương và được yêu thương. Trong mỗi con người
luôn có nỗi khát khao, sự mong mỏi một con người yêu thương họ thật lòng :
điều này cho thấy mọi vết thương, mọi lầm lạc về tình cảm chỉ có thể được nghỉ
yên trong Thiên Chúa như lời thánh Âutinh trong “Tự Thuật”. Để một kinh nghiệm
yêu thương của con người được bền vững, nhất thiết tình yêu ấy phải được nâng
đỡ nhờ mầu nhiệm tình yêu của chính Thiên Chúa.
Người ta vẫn thường nói về mặc khải tự
nhiên mà Thiên Chúa bày tỏ về chính mình trong công trình sáng tạo : Lửa, gió,
khí mát, bầu trời đầy sao,… (x. Kn 13,2). Tất cả những sự vật hữu hình này giúp
con người nhận ra Đấng Sáng Tạo. Ai lại không cảm thấy tâm hồn phải thốt lên
lời cảm tạ khi đứng trước núi cao hùng vĩ hay bên bãi biển mênh mông ? Tất cả
vũ trụ đều nói cho con người biết về Thiên Chúa. Nhưng họ lại quên vũ trụ nhỏ
bé là con người, sinh vật đặc biệt để mặc khải về Thiên Chúa. Con người là công
trình quý báu không chỉ theo nghĩa thông thường, nhưng còn vì con người là sinh
vật duy nhất trong vũ trụ được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa.
Ngoài ra, Thiên Chúa còn dựng nên người phụ nữ để họ cùng tạo nên những tương
quan như Người muốn có đối với họ.
Người nam và người nữ là tuyệt phẩm
Thiên Chúa dựng nên trong công trình sáng tạo. Tình yêu giữa người nam và
người nữ là đời sống thâm sâu nhất. Tình yêu hỗ tương của họ diễn tả mặc
khải sáng tạo cao cả nhất của Thiên Chúa. Mọi kinh nghiệm tình yêu đích thực
của con người đều hướng tới tình trạng “luôn luôn – mãi mãi”. Ai yêu thương
chân thực là ghi tên mình vào vĩnh cửu, chính là Thiên Chúa.
18. Các cặp vợ chồng trao cho
nhau bí tích Hôn Nhân
Nếu người nam và người nữ đi đến tận
cùng trong tình yêu, họ hiểu rằng sức mạnh kết hợp họ còn mạnh mẽ hơn chính họ
và vượt trên tất cả. Cách minh nhiên thường là mặc nhiên, những người yêu nhau
chân thành đều hiểu rằng Thiên Chúa ở trong tình yêu của họ, hay tình yêu của
họ ở trong Thiên Chúa. Bảo đảm chắc chắn nhất cho tình yêu con người chính là
tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu là Thiên Chúa.
Tình yêu Thiên Chúa không làm lu mờ tình
yêu nhân loại. Trái lại tình yêu Thiên Chúa làm cho tình yêu con người thêm rực
rỡ : tình yêu Thiên Chúa đi qua tình yêu con người, như ánh sáng chiếu qua
bình pha lê, không có ánh sáng, bình pha lê không toả ra vẻ rực rỡ ; còn
bình pha lê làm cho ánh sáng có sắc mầu độc đáo. Thiên Chúa không thay thế tạo
vật, trái lại nhờ ánh sáng tình yêu, Người làm cho chúng phát triển và chúng có
thể hiểu biết và yêu thương. Nhờ đó chúng nhận biết và yêu mến Người.
Nếu những điều vừa trình bày là chính
xác, thì sẽ không khó để hiểu được truyền thống bí tích được gọi là hôn nhân
Kitô giáo. Trong khi cử hành bí tích này, cần phải có một nhân chứng, nhân danh
Giáo Hội, thông thường là linh mục hay phó tế, để xác nhận sự ưng thuận giữa
hai người nam & nữ. Khi trao cho nhau sự ưng thuận, hai người trao cho nhau
bí tích Hôn Nhân.
Một bí tích là một dấu chỉ hữu hình về
ân sủng vô hình, hay đúng hơn là một dấu chỉ và dụng cụ của ân sủng, tức là một
dấu ấn cụ thể về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Trong hôn nhân, dấu
chỉ hữu hình và là khí cụ về tình yêu của Thiên Chúa chính là một con người.
Nói chính xác hơn, hai người chấp nhận làm cho tình yêu của mình đạt tới ý nghĩa
trọn vẹn khi đặt tình yêu ấy vào trong mầu nhiệm Tình Yêu là chính Thiên Chúa.
Trong hôn nhân, người này đón nhận tình yêu của người kia như sự bày tỏ đặc
biệt về tình yêu Thiên Chúa dành cho mình. Như vậy tình yêu của mỗi bên
được nâng lên hàng dấu chỉ và khí cụ tình yêu của Thiên Chúa. Ngược lại, khi
đón nhận tình yêu của người kia như là phát xuất từ Thiên Chúa, mỗi người sẽ
lấy chính nguồn mạch thần thiêng mà nuôi dưỡng tình yêu của mình dành cho người
kia.
Nói cách khác, vì đôi vợ chồng bày tỏ
trước Thiên Chúa sự dấn thân mang tính bí tích, nên mỗi người mong thấy trong
tình yêu của người kia có trọn vẹn tình yêu Thiên Chúa dành cho mình, và ngược
lại, họ cũng hứa yêu thương, không chỉ theo cách tốt nhất của tình yêu nhân
loại, nhưng với tất cả sự phong phú và vững bền của chính Thiên Chúa. “Tôi yêu
em/anh hết lòng !” Đó chính là điều mà các đôi vợ chồng Kitô giáo phải nói lên
cách thật lòng. Trao tặng cho nhau tình yêu của Thiên Chúa, họ cũng trao cho
nhau Đấng là Tình Yêu trong Ba Ngôi, như Chúa Cha và Chúa Con yêu mến nhau từ
muôn đời “hiệp nhất với Chúa Thánh Thần”. Như thế tình yêu nhân loại của họ
hướng đến nguồn mạch và cùng đích của mình.
19. Cần phải xin lãnh nhận bí
tích Xức Dầu
Hiển nhiên là các bí tích thánh hoá mọi
giai đoạn của cuộc sống con người, từ lúc sinh ra (Rửa Tội), trưởng thành (Thêm
Sức) đến khi chọn một bậc sống (Hôn Phối, Truyền Chức), vậy nên cũng hợp tự
nhiên là cần phải có một bí tích để trợ giúp con người trong những thời điểm
khó khăn của cuộc sống. Đó là vai trò của bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (cách gọi
ngày nay khác ngày xưa).
Qua bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, Giáo Hội
muốn tiếp tục công trình thương xót của Chúa để đem lại ơn phúc cho các bệnh
nhân thuộc đủ mọi lứa tuổi, những người mà Đức Giêsu đã đặt tay để chữa lành
(Mt 8,3.15 ; Mc 6,5 ; x. Cv 4,30). Lúc sinh thời, Đức Giêsu đã
sai các môn đệ đi thi hành sứ vụ : “Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu
cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” (Mc 6,13). Trước khi mãi mãi xa
rời các môn đệ, Đức Giêsu đưa ra “những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin”
(Mc 16,17), trong đó có dấu lạ này : “Họ đặt tay trên những người bệnh,
thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (c.18). Cũng chẳng có gì là ngạc nhiên
khi thấy rằng ngay từ thời các tông đồ, nghi thức đặt tay trên bệnh nhân đã
được phổ biến rộng rãi. Chúng được dựa trên lời thánh Giacôbê : “Ai trong
anh em đau yếu ? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến ; họ
sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do
lòng tin sẽ cứu người bệnh ; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy
đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha” (Gc 5,14-15).
Vì thế, khi một người lâm trọng bệnh,
cần phải mời linh mục đến ban bí tích Xức Dầu, đồng thời phải huấn luyện để xoá
đi quan niệm xưa cũ : bí tích Xức Dầu sau hết.
Nghi thức xức dầu bệnh nhân thiết yếu
gồm : – sau phần sám hối và đọc kinh cầu, linh mục thinh lặng đặt tay trên
tín hữu, rồi xức dầu trên trán và trên tay bệnh nhân (dầu đã được đức giám mục
làm phép trong thánh lễ làm phép Dầu ngày thứ Năm Tuần Thánh. Trong khi xức
dầu, linh mục đọc : “Nhờ việc xức Dầu Thánh này và nhờ lòng từ bi nhân hậu
Chúa, xin Chúa dùng ơn Chúa Thánh Thần mà giúp đỡ con”, tiếp đến là lời nguyện,
kinh Lạy Cha, và phép lành kết thúc.
Đôi khi việc xức dầu thánh có thể làm
suy giảm cơn bệnh, nhưng điều thiết yếu nhất là bí tích này đem lại sự bình an
cho tâm hồn, tha thứ tội lỗi và các hiệu quả của nó. Bí tích Xức Dầu không miễn
chuẩn bí tích Hoà Giải, nhưng có thể coi là sự hoàn thành bí tích này, theo
nghĩa bí tích Xức Dầu tha hết các hình phạt phải chịu vì tội.
Vì vậy nên khuyến khích các tín hữu lãnh
nhận bí tích này khi gặp nguy hiểm về sức khoẻ, cũng như khi gặp những bệnh tật
lúc tuổi già, thời điểm mà khó có thể chữa lành được.