Việt Nam Văn Hóa Chi Ðạo
Dự Thảo về Công
Cuộc Ði Tìm và Xây Dựng Việt Triết
Giáo Sư Vincent Trần Văn Ðoàn
Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan
1. Lời Khai
Lộ
Chúng ta từng
kiêu hãnh về văn hóa của Việt dân, song khi được hỏi đến, chúng ta thường không
thể trả lời, hay chỉ có thể trả lời một cách vu vơ. Lý do chính, là chúng ta
cảm nghiệm song thiếu tri thức về văn hóa Việt. Khi giao tiếp với ngoại nhân,
cái tri thức hạn hẹp của chúng ta càng hiển nhiên: ngoài ngôn ngữ, một số phong
tục, nghệ thuật và.. nghệ thuật nấu ăn, chúng ta có chi để mang trống đi đánh
nước người?
Sự nghèo đói
tư tưởng càng rõ rệt hơn khi chúng ta bàn tới Việt Triết: chúng ta có triết lý
gì đáng được thế giới chú trọng, có thể làm chỉ đạo cho Việt tộc và cho nhân
loại?
Chúng ta có
Triết lý nào để hướng đạo, làm tinh thần cho Việt tộc hay không? Một dân tộc,
một quốc gia thiếu tinh thần dân tộc... chỉ là một ô hợp của các sắc dân, hỗn
tạp, vô định mà thôi.
Sự nghèo đói của Việt Triết
khiến chúng ta ở trong một tình trạng bần cùng, cho đến độ chúng ta chạy theo
bất cứ một lý thuyết nào, chạy theo một cách vô ý thức. Dưới thời đô hộ của
Tàu, tổ tiên ta chỉ biết tư tưởng của Tàu, cái học vị chương của Hán nho, cái
tổ chức phong kiến, cái chính trị hủ bại của họ. Cho tới thời Pháp thuộc, đa số
dân trí thức lại mù quáng chạy theo, học văn minh cũng như tư tưởng của Pháp.
Chúng ta học giỏi đến độ chúng ta thuộc lòng những vần thơ của La mạc tinh
(Lamartine), những bản văn của Huy-cơ (Victor Hugo), song chúng ta không đọc
nổi chữ nôm, chữ của tổ tiên, của dân tộc. Tới thời Mỹ thuộc, Nga thuộc...
chúng ta chạy theo y hệt như vậy. Những bản văn "nửa người nửa ngợm nửa
đười ươi", những ngôn ngữ lạ hoặc được nhập cảng từ Hoa thịnh đốn, từ Mạc
tư khoa, lại được tâng bốc, tôn thờ như "khuôn vàng thước ngọc", như
bản đo lượng "trí thức", như một "dấu chỉ" của "bước
tiến dân tộc".
Triết lý được
"nhập cảng" một cách ồn ào vào Việt Nam: những làn gió hiện sinh của
Sa thời, Ca mỹ (Sartre, Camus)... những tư tưởng "vĩ đại" của Lê nin,
Sử tà linh (Stalin), những bài "khảo luận" về Ấn Ðộ Giáo, và gần đây
những "phát minh táo bạo vĩ đại" của một số "triết gia" làm
cho chúng ta càng cảm thấy cái nghèo khó tư tưởng Việt.
Chúng ta sẽ
tiếp tục vật vờ như con đom đóm, chúng ta sẽ tiếp tục ở trong tình trạng vong
thân cho tới khi nào?
2. Triết lý,
Văn hóa không chỉ trong một ngày, do một người... hay của một thời đại hay chế
độ
Văn hóa biểu
lộ trong mọi sinh hoạt của dân tộc: sinh hoạt nghệ thuật, chính trị, kinh tế,
suy tư, khoa học, kỹ thuật... Văn hóa của Việt khác biệt với những nền văn hóa
khác, bởi vì văn hóa Việt có thể đưa ra: (1) một cộng tính, (2) cộng thể, (3)
cũng như một lối giải quyết hữu hiệu cho những vấn nạn của Việt dân, mà những
nền văn hóa khác không thể giải quyết. Tuy nhiên trên một phương diện khác, có
những vấn nạn, thí dụ như vấn nạn khoa học và kỹ thuật, hay kinh tế, chúng ta
không thể phân biệt một cách minh bạch văn hóa cá biệt, bởi vì những vấn nạn là
những vấn nạn chung của con người. Nói cách khác, văn hóa của Việt tộc bao gồm
hai bộ phận:
(1) Bộ phận cá
biệt, chỉ thấy trong cách sống của Việt dân như ngôn ngữ, phong tục, nghệ
thuật, luân lý và tôn giáo.
(2) Bộ phận
nhân sinh, có tính cách hoàn vũ như sinh hoạt khoa học và kỹ thuật, kinh tế, y
học...
Ngoài ra
chúng ta cũng nhận thấy một khía cạnh thứ ba không minh bạch, bao gồm văn hóa
cá biệt cũng như văn hóa hoàn vũ như sinh hoạt chính trị giáo dục...
Một nền văn
hóa lý tưởng là một nền văn hóa có cả hai tính chất cá biệt và hoàn vũ, có thể
giải quyết những vấn nạn nhân sinh trên một bình diện quảng bác. Ðó là một nền
văn hóa phát xuất từ tinh thần của dân tộc nhưng đủ sức hướng đạo tinh thần
nhân loại cũng như phát triển văn minh con người.
Thế nhưng,
một nền văn hóa lý tưởng như trên không phải tự tại, từ trên trời rơi xuống.
Nền văn hóa nầy được xây dựng qua bao thế hệ dựa trên kinh nghiệm nhân sinh,
những kinh nghiệm về thiên nhiên, về tương giao con người, về định mệnh, hy
vọng cũng như tinh thần. Nói cách khác, văn hóa được kiến tạo trong một lịch
trình lịch sử của con người, của một dân tộc...
Như vậy,
chúng ta phải chấp nhận như triết gia Huyền cách (Hegel) từng nhận định: mỗi
thời đại, mỗi chế độ, mỗi nền văn minh chỉ biểu hiệu tính cách cá biệt, giai
đoạn của lịch trình nhân loại.
3. Nhận định
về Việt Triết
Việt triết
được coi như là tinh thần của Văn hóa Việt. Việt Triết nói lên Việt tính hiển
nhiên trong các bình diện của văn hóa. Nó chỉ đạo, hướng dẫn cũng như thúc đẩy
người Việt phản tỉnh, tìm hướng vươn lên cũng như đi tìm giải đáp cho những vấn
nạn của dân Việt.
Thế nên, câu
hỏi quan trọng không phải là chúng ta có Việt triết hay không, mà là "làm
sao để khai quật, vun trồng, cũng như giúp Việt triết phát động năng lực".
Nhiều nhân sỹ
từng bi quan nghi ngờ Việt triết. Thực tế lịch sử làm chúng ta bi quan: Việt
triết bị ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo. Gần đây chúng
ta bị ảnh hưởng của những lý thuyết Âu Tây như thuyết của Mã sỹ (Marx), hiện
sinh thuyết... Nhưng bi quan như trên chỉ nói lên một tình trạng mà Nghịch tài
(Nietzche) cũng như Tạ lạc (Max Scheler) gọi là "phẫn chí"
(Ressentiment) mà thôi. Thực tế, chúng ta đã có một nền Việt Triết cá biệt,
từng được phong phú hóa qua những trào lưu triết ngoại tại. Việt Triết chưa bị
bất cứ một lý thuyết nào thôn tính. Ngược lại qua Việt tính, Việt Triết việt
hóa chúng. Thế nên điều mà chúng tôi đề nghị trên con đường khai quật Việt
Triết bao gồm: (1) Ði tìm cội nguồn của Việt Triết hay Việt tính qua những công
cuộc khảo cổ, ngữ học, nhận diện các bộ mặt của văn hóa Việt. (2) Tiếp tục vun
dựng trong phương thế Siêu việt biện chứng, bằng cách tổng hợp những tư tưởng
mới. (3) Phát huy Việt Triết bằng cách nhận định tính chất hữu hiệu của nó
trong công việc giải quyết các vấn nạn của Việt dân và (4) Khẳng định Việt tộc
cũng như tính chất đặc thù của chúng ta trong diễn đàn thế giới.
4. Ði tìm cội
nguồn của Việt triết
Triết gia Hãi
đức cách (Heidegger) từng nhận định sự mất gốc rễ như là "dị hương"
(Verfremdung), "vô hương" (Heimatslosigkeit) hay "thất
huong". Trước ông, các đại triết gia như Huyền cách (Hegel) và Mã sỹ
(Marx) đồng nghĩa sự mất gốc rễ với dị hóa hay vong thân (Entausserung /
Entfremdung). Nói cách khác, một dân tộc thiếu lịch sử, vô ý thức về cội nguồn
của giống nòi... là một dân tộc nô lệ.
Thế nên công
cuộc đào bới gốc rễ, công việc trở về nguồn là điểm quan trọng để xây dựng tinh
thần và phát triển dân tộc. Trên thực tế chúng ta đã bắt đầu công cuộc khảo cổ
nầy từ thời Pháp thuộc và xúc tiến tới ngày nay. Chúng ta không được phép chối
bỏ những biên khảo hay phát minh của các bậc tôn huynh. Sự khám phá trống đồng
tại Ðông sơn có một ảnh hưởng quyết định trong văn hóa Việt. Những bài khảo
luận của viện Viễn Ðông Bác Cổ, của một số thừa sai hay của những học giả đáng
được tuyên dương, mặc dù những khám phá trên không hội đủ tính cách vẹn toàn.
Ðiểm quan
trọng là chúng ta không được phép tự mãn, ngây thơ tin vào tính chất tuyệt đối
của công việc khảo cổ. Công việc của Triết học bao gồm: (1) tiếp tục dùng tinh
thần phán đoán lại, nhận định những khám phá trên, (2) thúc đẩy các khoa học
gia tiếp tục khám phá, (3) tìm ra tương tính giữa những khám phá và tinh thần
dân tộc, và (4) nhận định quan trọng tính của những khám phá trên trong mạch
sống hiện đại.
Như đã trình
bày trên, công cuộc đào bới cội nguồn của những chuyên gia thời Pháp thuộc và
sau khi giải phóng chưa được trọn vẹn vì nhiều lý do như kỹ thuật thô sơ, khoa
khảo cổ chưa được hoàn toàn khoa học, và quan trọng hơn là, các vị chuyên gia
bị ảnh hưởng hay bị lôi cuốn bởi những mục đích chính trị, tôn giáo hay ý thức
hệ. Thế nên các khám phá và nhất là những lối giải thích dữ kiện bị lệch lạc
hay bóp méo. Một phần khác, những nghiên cứu thường bị hạn hẹp trong một số bộ
môn như khảo cổ (Viễn Ðông Bác Cổ) hay nhân chủng học. Một số biên khảo về tôn
giáo hay ngữ học hoàn toàn bị ảnh hưởng của tâm linh tây phương, nên khó có thể
nói lên được tâm linh Việt. Ðiểm đáng buồn hơn nữa là những biên khảo nầy hoàn
toàn do các vị truyền giáo ngoại quốc soạn thảo. Bộ sách của linh mục P.
Cadière về tôn giáo Việt, tuy cố gắng trung thực, nhưng sai lầm phần lớn: tất
cả những quan sát cũng như nhận định về tính sinh hoạt, tập tục, nghi lễ... tôn
giáo hoàn toàn theo những phạm trù thần học Công giáo. Tác giả không nhìn ra cá
biệt giữa hai quan niệm về tôn giáo: quan niệm của truyền thống Hy lạp và Do
thái và quan niệm của Ðông phương. Nếu Tây dân hiểu tôn giáo (Religion) theo
nghĩa Re-ligere, một hoạt động nối kết tâm linh thì người Ðông phuong hiểu tôn
giáo như Tông giáo, một lối sư phạm về tôn kính tổ tông. Không hiểu cách biệt
như trên, các vị truyền giáo cho công việc thờ kính tổ tiên là man di, vô thần
hay phiếm thần. (Xin xem P. Cadière, Croyances et Pratiques Religieuses des
Vietnamiens, S.E.I., 1958, cũng như Trần trọng Kim, Nho Giáo, Tân Việt, tr. 41
về Tông giáo). Chúng ta không phủ nhận giá trị của những biên khảo của các học
giả ngoại quốc, song chúng ta cũng không được phép tin theo lập luận của họ một
cách thiếu phê phán.
Cho tới những
thập niên gần đây, một số biên khảo của học giả Việt về ngữ học hay tôn giáo
hoặc nhân chủng học mới bắt đầu xuất hiện một cách khêm tốn. Về ngữ học, Tiến
sỹ Lê Văn Lý chú ý tới văn phạm Việt ngữ trong luận văn Le Parler vietnamien:
Esquisse d'une grammaire vietnamienne (1949?), cũng như ông Nguyễn Bạt Tụy
nghiên cứu về ngôn ngữ của các sắc tộc ở Việt Nam (1960-1970). Về nhân chủng
học, không có chi tiến bộ. Số lớn chép lại những khám phá của Viễn Ðông Bác Cổ
(thí dụ cuốn Nguồn gốc Mã lai Á của dân tộc Việt của nhà văn bình dân Bình
Nguyên Lộc). Chúng tôi đương chờ đợi những khám phá mới trong bộ môn nầy.
Trong phạm vi
triết học, đa số những đóng góp đều hạn hẹp trong công việc dịch thuật và chú
thích những tác phẩm kinh điển Nho học như Ðại Học, trung Dung và của lão Trang
như Ðạo Ðức Kinh, Nam Hoa Kinh, và đặc biệt một số kinh như Kinh Dịch, Xuân
Thu. Nghiên cứu về Việt triết hoàn toàn là một con số không. Chúng ta phải đợi
tới khoảng ba mươi năm gần đây mới thấy xuất hiện những biên khảo của Kim Ðịnh
(đặc biệt với Việt Lý Tố Nguyên, Sứ Ðiệp Trống Ðồng, Kinh Hùng Khai Triết, Dịch
Kinh Linh Thể, v.v.), và Vũ Ðình Trác (Triết Lý Chấp Sinh của Nguyễn Công Trứ,
triết học của Nguyễn Du). Ngoài ra những bài viết của Nguyễn Ðăng Thục, Nghiêm
Toản... cũng đã đóng góp một phần nào vào Việt triết.
Thế nhưng
những tác phẩm của quý tiên sinh chỉ có giá trị trong phạm vi đi tìm nguồn gốc,
chứ chưa có thể đưa ra một tổng hợp hay một triết thuyết mới đáp ứng được Việt
tính cũng như hiện đại tính. Chúng ta cần phải đi thêm một bước trong công việc
tổng hợp, thu thập những tư tưởng mới, nhìn ra những khó khăn của thời đại ngày
nay, cũng như nỗ lực đào bới những khả thể có thể giải quyết những vấn nạn dân
tộc và thời đại. Trước khi đi vào công việc xây dựng Việt triết, một điểm cần
phải nhắc đến là đề nghị của Bác sỹ Vũ Ðình Trác: Trong những bài viết gần đây,
cụ nhận định là công cuộc xây dựng Việt Triết phải được bắt đầu với sự tái dựng
của Việt nho. Thế nên công việc khai quật những kho tàng Việt nho là điều tối
cần thiết (1983). Trước đây cụ đã từng nhận định là thư tịch của Việt nho rất
phong phú, bao gồm kinh bộ, tử bộ, sử bộ, thi bộ và văn bộ (1974), có thể được
cứu xét làm những đề án cho nghiên cứu (1985). Quan trọng hơn, tiên sinh đề
nghị:
"1.
Chuẩn bị cho các luận án triết học Việt Nam ra đời, bằng cách hướng dẫn cho các
thế hệ đang lên trở về với văn hóa dân tộc và dấn thân vào con đường phục hồi,
khai thác và phát huy văn hóa đặc trưng của chúng ta.
2. Tìm tòi và
thu góp những tài liệu về văn hóa Việt Nam đã bị mất mát quá nhiều trong cuộc
đốt sách do cộng sản Bắc Việt gây nên từ 1975 tới 1980.
3. Thành lập
một tổ chức gồm các bậc thầy để hướng dẫn cho các luận án mới về các vấn đề
Việt Nam, cách riêng triết học Việt Nam.
4. Dịch thuật
và ấn loát các luận án bằng Pháp văn, Anh văn, Hán văn, Latinh, Ý ngữ ra Việt
văn. Ðồng thời dịch các luận án Việt văn, Hán văn ra Anh văn, Pháp văn để giới
thiệu toàn bộ văn học và triết học Việt Nam".
Những đề nghị
của Hán Chương tiên sinh đáng được chú ý. Trong phần chót của đoản luận nầy,
chúng tôi mạn phép xin bổ túc những đề nghị trên.
5. Công việc
Tổng Hợp
Chúng tôi
nhận định rằng chỉ hạn hẹp vào công cuộc đào bới nguồn gốc thì chưa đủ để xây
dựng Việt Triết. Như trong văn hóa, triết học không có tính chất vĩnh cửu bởi
vì một nền triết học chỉ là tinh hoa của một thời đại. Những cố gắng tìm kiếm
một nền triết lý trường cửu (philosophia perennis) thường kết cục với một thất
bại ê chề. (Trừ khi nền triết học nầy đồng hóa với thần học như trong Kinh
Viện). Càng nhiều tinh hoa, triết học càng phong phú. Càng gặp nhiều vấn nạn,
triết học càng tiến bộ. trong tinh thần nầy chúng tôi muốn bàn tới tính chất
tổng hợp hay siêu việt tính, một tính chất thiết yếu trong Việt Triết.
Công việc
tổng hợp bao gồm nhiều giai đoạn:
(a) giai đoạn khai quật giá trị truyền
thống,
(b) thu nhận những tư tưởng, kinh
nghiệm mới hay
(c) học hỏi những giải đáp thức thời
đương khi đối diện với những vấn nạn hiện đại, và
(d) tìm trong những tư tưởng mới những
khả thể giúp chúng ta giải quyết vấn nạn hiện đại của Việt Nam. Trong giai đoạn
cuối cùng nầy, hai đặc tính của tổng hợp cần phải được nhấn mạnh, đó là:
(d1) khả thể tính trong tư tưởng mới phải thích hợp
với tâm thức, cuộc sống và truyền thống giá trị của dân Việt,
(d2) khả thể nầy có tính cách hữu dụng giải quyết
những vấn nạn của Việt Nam.
(a) Công cuộc
khai quật đã được bàn ở phần trên, nên trong phần nầy chúng tôi đặc biệt xin
mạn đàm công việc thu thập tư tưởng và kinh nghiệm mới, và công việc tổng hợp.
(b và c và d). Phần (d2) sẽ bàn trong phần 6.
(b) Công cuộc
thu thập bao gồm giới thiệu những tư tưởng mới qua công tác dịch thuật, trước
tác, biên khảo. Những tư tưởng kinh điển, hay có liên quan đến sinh mệnh nhân
loại từ những nước ngoài, đặc biệt từ Anh (Mỹ), Pháp, Tàu, Ðức, Nhật... Những
tư tưởng gia thời danh, những nhà bác học, những nghệ sĩ đại gia... phải được
học hỏi và trình bày cho giới trí thức nhà. Trên thực tế, như chúng tôi biết, ở
trong miền Nam đã có nhiều dịch thuật và biên khảo. trong phạm vi triết học,
những giáo sư như Tiến sỹ Trần Thái Ðỉnh, Tiến sỹ Trần Văn Toàn, Tiến sỹ Lê Tôn
Nghiêm, Linh mục Cao Văn Luận, Trần Văn Hiến Minh... đã dịch, giới thiệu và
bình luận nhiều nền triết học Âu tây như Mã Son (Bergson), Mã sỹ (Marx), Giã
phi (K. Jaspers), triết hiện sinh, Hiện tượng học, Cơ cấu luận, Khang Ðức
(Kant)... Ðồng thời nhiều tác phẩm về Thiền của Linh Mộc (Suzuki), về Ấn độ của
Krisnamurti, Radhakrisnan,... cũng được giới trí thức Việt lưu ý. Triết Ấn và
Phật giáo như Thích Minh Châu, Thích Nhất Hạnh, Ðoàn Trung Còn, Nguyễn Duy
Cần... và một tu sỹ Dòng Tên, Tiến sỹ Hoàng Sỹ Quý.
Tuy thế, công
cuộc dịch thuật và trước tác thiếu tổ chức, thiếu nhận định (nên trở nên hỗn
độn). Chúng ta nhận thấy những tác phẩm kinh điển của Âu tây, những đại triết
gia như Bồ La Thư (Platon), Nhã lí đa đức (Aristotle), Ða mã tư (Thomas
Aquinas), Khang Ðức (Kant), Huyền Cách (Hegel)... bị quên lãng, trong khi những
tác giả "hạng hai" lại được dịch và giới thiệu. Những danh từ dịch
thuật không được đồng nhất nên thường gây ra nhiều hiểu lầm hơn là làm sáng tỏ.
Có những bản dịch tối tăm đến độ người đọc không hiểu nỗi từ ngữ, đừng nói đến
ý nghĩa của câu văn hay đoạn văn.
Nơi đây chúng
tôi không muốn đi sâu vào chi tiết phê bình môn dịch thuật, nhưng muốn nhấn
mạnh đến sự thiết yếu của dịch thuật cũng như sự khó khăn trong khi giới thiệu
tư tưởng mới. Dù sao, chúng tôi cũng cảm phục sự can đảm và cố gắng của những
người như Phạm Công Thiên. Một điểm nữa mà chúng tôi tuy phê bình song bên vực
họ Phạm, là bất cứ một bản dịch hay biên khảo nào cũng có lỗi lầm, thế nên qua
lời phê bình và đóng góp của độc giả, chúng ta càng hoàn bị những tác phẩm
trên. Ngoài ra, nếu có thể được, chúng ta dịch trực tiếp từ nguyên ngữ. Bản
dịch từ nguyên ngữ có thể tránh được một số lỗi lầm và trung thực hơn.
(c) Ngoài
dịch thuật, những trước tác, biên khảo về những vấn đề sôi bỏng hiện đại có
liên quan tới sinh mệnh con người... đáng được khuyến khích và lưu ý. Về phương
diện nầy, chúng ta còn thiếu sót nhiều. Ða số những báo chí, tuyển tập, thông
luận... ở Việt Nam, hay của cộng đoàn Việt ở hải ngoại thường quá chú trọng tới
văn, thơ, hay tranh luận nên chỉ dành cho biên khảo một không gian hạn hẹp, nhỏ
bé. Ðã có một thời, những tạp chí như Ðại Học, Phương Ðông, Tư Tưởng... đã tạo
nên một phong trào hưng đông, hưng triết, hưng Việt đáng cho chúng ta cảm phục.
Gần đây ở hải ngoại có những tờ như Hội Hữu (đáng tiếc chỉ ra được vài số), tờ
Văn Lang, hay phổ thông hơn như Thời Ðiểm Công Giáo, hoặc chuyên về phên dịch
như Tư Tưởng Thần Học (do các linh mục Dòng Tên tại Ba-lê chủ trương), hay tại
Việt Nam, tờ Khoa Học Xã Hội (Hà Nội)... Tuy nhiên nội dung vẫn còn ở trong
giai đoạn khiêm tốn chứ chưa đi tới được giai đoạn sáng tác. Ðã đến lúc mà
những nhà trí thức Việt, những vị lãnh đạo phải để ý tới những tạp chí nghiên
cứu, bởi vì đó là một trong những phương tiện học hỏi, truyền bá và khuyến
khích sáng tác.
Chúng tôi xin
phép đề nghị cổ võ những bạn trẻ nghiên cứu hay dịch thuật những tác phẩm cổ
điển của Tây phương, từ Hy lạp cho tới hiện đại. Ðây là những công việc không
kém quan trọng mà chúng ta không được phép quên lãng.
6. Tổng hợp
hay Siêu Việt
Khai quật và thu thập những tư
tưởng mới chỉ có giá trị nếu qua công việc nầy chúng ta đi tìm ra những khám
phá mới, hay tư tưởng hữu hiệu trong việc giải quyết khó khăn của dân tộc, hoặc
niềm hy vọng hướng dẫn dân tộc đi vào tương lai. Ðể có thể đạt được mục đích
trên, chúng ta không được phép mù quáng bắt chước hay lập lại những điều học
hỏi được một cách máy móc. Chúng ta càng phải để ý tới tính chất hiệu năng của
bất cứ một phương thế nào trong lịch trình tiến hóa của con người, cũng như sự
cần thiết của "nhật nhật tân" (hay cập nhật tiến, aggiornamento). Nơi
đây chúng tôi mạn phép đưa ra hai điều kiện trong công việc tổng hợp hay siêu
việt: (1) tìm ra Việt tính (hay Việt Ðạo) và (2) Việt hóa những kết quả khảo cổ
cũng như những thành quả học được từ ngoại nhân.
6.1. Việt Tính chi đạo,
Khi nói tới
Việt tính chúng tôi hiểu như bản tính tất nhiên đồng thời phổ biến của dân tộc
Việt, mà nếu thiếu, chúng ta không thể nhận diện được Việt dân hay Việt xã. Nói
cách khác, Việt tính là tinh thần, là linh hồn của dân tộc. Do đó khi nói Việt
tính mang phổ biến tính, tất nhiên tính và cá biệt tính, chúng tôi muốn nhấn
mạnh đến cộng tính của dân tộc Việt. Cộng tính nầy tuy phổ biến giữa dân Việt
song tách biệt khỏi các dân tộc khác.
Chúng ta
không cần bàn thêm về tầm quan trọng của Việt tính nơi đây. Chỉ một điểm làm
chúng ta phải suy nghĩ là nếu thiếu Việt tính, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng
thất hương hay vô hương, vô tự ý thức. Thế nên bất cứ một dân tộc nào đều phải
có một nền văn hóa cá biệt mà linh hồn của nền văn hóa đó chính là tinh thần.
Ðiểm tối yếu
nơi đây bao gồm: (1) làm thế nào để phát hiện hay nhận ra Việt tính, và (2) làm
thế nào để bảo vệ và vun trồng Việt tính.
Việt tính ẩn hiện trong ngôn
ngữ, trong lối cấu kết của ngữ cấu, trong cách biểu tả và trong ngữ ý; rõ rệt
nhất trong ngữ dụng (pragmatic). Qua cơ cấu (hay văn phạm), qua lối biểu tả, qua
tính chất thực dụng của ngôn ngữ Việt, chúng ta nhận ra một tính chất cá biệt
với ngôn ngữ khác, thí dụ ngôn ngữ của tây phương. Nhưng chúng ta cũng thấy
Việt ngữ khác với Hoa ngữ hay cả Hán ngữ. Song Việt ngữ cũng có thể cấu tạo
theo lối cấu kết của Âu ngữ hay Hoa ngữ nhưng không mất tính chất đặc thù của
mình. Nơi đây, trong phạm vi của bản dự thảo, tuyên ngôn, chúng tôi xin miễn đi
vào chi tiết và xin dành công việc tìm tòi cho các ngữ học gia. Chúng tôi chỉ
xin phép nhấn mạnh tính chất siêu việt trong Việt ngữ.
Việt ngữ có
thể tự cấu kết theo kiểu của Hoa ngữ, bao gồm tượng thanh, tượng hình, chỉ sự,
hội ý, chuyển chú và giả tá. Việt ngữ cũng có thể được hình thành theo lối phát
âm (phonetics), hay theo lí đơn tử (nguyên tử) như Ferdinand de Saussure từng
nhận xét trong ngôn ngữ tây phương. Ðồng thời Việt ngữ giàu hơn trong cách biểu
tả, một điều ít thấy trong Hoa ngữ hay Tây ngữ. Thí dụ, để diễn đạt tương quan
giữa chủ thể và khách thể, Anh ngữ chỉ có I / me, You, Thou; trong Hoa ngữ chỉ
có Ngộ (ngã) và Nị (nễ); trong khi Việt ngữ có Tôi, ta, tao, cha, bố , mẹ
mình... cho chủ thể và mày, anh, chị, cô, bác, chú, ông, bà... cho khách thể.
Nói như thế,
chúng tôi đã thấy một động lực của tổng hợp, một năng lực phát triển của Việt
ngữ mà chúng tôi gọi là siêu việt tính.
Việt tính
tiềm ẩn trong huyền thoại, ngụ ngôn, ca dao, vè đối. Huyền thoại Trọng Thủy -
Mỵ Châu, chuyện cổ tích Bánh giầy bánh chưng, những câu sấm của Trạng... đều
nói lền một tinh thần bất khuất, hòa thuận cũng như khôn ngoan của giống nòi
Việt; khôn ngoan, bất khuất, yêu chuộng hòa bình, tương hộ tương thành... là
những sắc thái của Việt tính.
Việt tính
cũng tiềm tàng trong cơ cấu xã hội, lối tương giao giữa dân Việt, trong tổ chức
hành chánh của giới bình dân... Câu nói "Pháp vua thua lệ làng" nói
lên một lối hành chánh khác biệt với chế độ tập trung quyền hành.
Nói cách
chung, Việt tính ần hiện trong tất cả những hành động, trong cuộc sống chung
của Việt dân, và ngay cả trong niềm hy vọng mà mỗi người Việt cưu mang.
6.2. Việt tính chi phát
triển
Thế nhưng, Việt tính không bất
định và bất biến. Qua sự tổng hợp những văn hóa ngoại lai với nội tính, qua
sinh hoạt hiện đại nhằm giải quyết vấn nạn hiện tại... Việt tính trên con đường
phát triển. Công việc của triết học là vạch định, cũng như phản tỉnh và phê
phán giúp Việt tính phát triển và hoàn bị. Nơi đây chúng tôi xin nhấn mạnh đến
điểm thứ hai, tức phát hiện và giải quyết vấn nạn hiện tại, một điểm mà chúng
tôi bàn kỹ lưỡng hơn trong Việt triết Khả Khứ Khả Tùng?
Trong phần
nầy, các chuyên gia Việt đi tìm những vấn nạn ngăn trở, làm hại hay biến hóa
Việt tính... như vong thân, thất hương, dị hóa, hư không, vô ý nghĩa, hoặc
những vấn nạn sinh tồn của Việt dân. Nói như thế, triết gia không chỉ chú trọng
tới tâm linh mà còn phải để ý tới những điều kiện căn bản như kinh tế... của
nước nhà. Triết học Mã sỹ (Marxism) có một tầm giá trị đặc biệt ở điểm họ Mã
phản tỉnh về những điều kiện sinh hoạt sinh tồn (kinh tế) của con người, tìm ra
nguyên nhân bất công, nghèo khổ, vô nhân tính. Ðúng hay sai, Mã sỹ nói lên được
một điểm quan trọng, đó là công việc phản tỉnh về sinh hoạt sinh tồn của con
người là một nhiệm vụ của triết học. Khi nhận ra khuyết hay nhược điểm, cùng
với chuyên gia, triết gia đi tìm giải đáp, hay ít nhất, khả thể đưa đến giải
đáp cho những vấn nạn trên. Giải đáp hay hay dở tùy theo hữu hiệu tính của nó.
Tính chất hữu hiệu được đo lường từ (1) tính chất tạm thời của giải đáp, tạm
giữ lại tính quân bình, không biến thành có hại, (2) hoàn toàn có thể giải
quyết, khiến vấn nạn biến mất và (3) không những giải quyết vấn nạn mà còn giúp
con người phát triển. Triết gia không đi tìm một giải đáp tạm bợ ở giai đoạn
một, song chú trọng đến giai đoạn ba, giúp con người phát triển tới một giai
đoạn toàn vẹn. Trong khi đi tìm giai đoạn thứ ba, chúng ta phải bước qua hai
giai đoạn đầu. Trường hợp chỉ thành công ở đợt đầu, triết học đã có đủ lực góp
mặt vào cộng đồng hoàn vũ. Nếu thành công trong giai đoạn hai, Việt Triết chắc
chắn sẽ có một chỗ đứng trong vũ trụ; và nếu có thể đạt tới giai đoạn ba, Việt
Triết sẽ bất tử. Ðức Ky tô, Khổng Tử... bất tử chính vì quý Ngài đã vươn tới
giai đoạn thứ ba của Triết học.
7. Việt Triết
trong quỹ đạo địa cầu
Một số nhân
sỹ có lẽ không đồng ý với nỗ lực đưa Việt Triết vào lòng thế giới. Họ có lý khi
đặt ra câu hỏi: chúng ta có triết lý chi để giới thiệu cho nhân loại?
Không quá bi
quan như họ, nên trong phần trên chúng tôi đã khẳng định sự hiện diện của Việt
Triết trong các sinh hoạt, trong cộng tính của Việt dân, tiềm tàng trong ngôn
ngữ, ca dao, luân lý, tập quán, huyền thoại, tôn giáo và kỹ thuật (hay khoa học
theo nghĩa rộng). Ðiểm mà chúng ta phải làm là đào bới, tổng hợp và kiến cấu
(construct) Việt Triết, cũng như phải thí nghiệm hữu hiệu tính của Việt Triết.
Ðưa Việt Triết vào trong quỹ đạo toàn cầu có hai tác dụng: giới thiệu với giới
triết gia hoàn vũ để học hỏi thêm, kiếm ra một tổng hợp thích hiệu hơn, và quan
trọng hơn, để kiểm nghiệm tính chất hữu hiệu của Việt Triết. Nếu triết học là
khoa học về nhân loại, Việt Triết không được phép đóng kín trong "Việt tỉnh",
nằm trong đáy giếng, vì đó chỉ là nấm mộ của An Dương vương và Mỵ Châu mà thôi.
Ðể đi vào quỹ
đạo, chúng ta phải (1) giới thiệu Việt Triết, (2) đối thoại với các nền triết
khác, và (3) đưa ra một lối nhìn, chỉ đạo hay phương pháp... Việt đạo có thể đóng
góp vào kho tàng trí tuệ của con người.
Trong phạm vi
khó khăn, tứ cố vô thân của chúng ta, điều mà chúng ta có thể, chỉ là một cố
gắng giới thiệu, cũng như nỗ lực khiến thế giới chú ý tới Việt Triết mà thôi.
Ðể đạt tới một chỗ đứng vững chãi như triết Ðức hay Tàu... chúng ta phải cố
gắng và vun trồng thế hệ sau.
8. Những đề
nghị cụ thể trong chương trình xây dựng Việt Triết
Chương trình
nầy phân ra ba đề mục chính: khai quật, tổng hợp và phát triển:
8.1.Khai quật:
Thành lập những nhóm nghiên cứu làm việc theo tinh thần cộng hoạt (team-work),
thí dụ chuyên về ngữ học, huyền thoại, ca dao, văn chương bình dân, văn chương
bác học, khảo cổ, xã hội, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật...
Như chúng tôi
viết ở phần bốn, nhiều hiền sỹ đã làm và tiếp tục chú ý tới công việc quan
trọng nầy. Những công việc của Trần Trọng Kim, Vũ Ðình Trác, Nghiêm Toản,
Nguyễn Bạt Tụy... của những học giả ngoại quốc ở Viễn Ðông Bác Cổ, của những
nhà truyền giáo như Lm Cadière... đáng được tuyên dương và khuyến khích tiếp
tục.
Công việc nầy được bổ túc bằng
cách phiên dịch hay giới thiệu những tác phẩm liên quan tới Việt học.
8.2.Tổng hợp:
Tiếp
tục công việc khảo cổ bằng cách:
(1) Học tập những quan niệm, khám phá
mới trong những lãnh vực trên. Nơi đây công việc dịch thuật, trước tác... giữ
một địa vị quan trọng. Những vị như các Tiến sỹ Ðỉnh, Toàn, Nghiêm, Luận hay
Hiến - Minh... đáng được kính trọng. Những tác phẩm của các học giả về thiền
học, ấn độ giáo... đáng được khuyến khích, bởi vì thiếu công việc giới thiệu,
chúng ta khó có thể làm công việc tổng hợp.
(2) Qua những
học hỏi và dựa vào những khám phá ở phần khai quật, chúng ta có thể hiểu một
cách thấu triệt những vấn nạn cũng như tìm ra một phương pháp thích đáng để tìm
hiểu cũng như giải quyết.
Công việc
tổng hợp đòi hỏi nhiều công phu và hiểu biết hơn công cuộc khai quật song không
thể đơn thế vì phải dựa vào những thành quả của những học giả trên. Thế nên,
nói cách chung, việc tổng hợp vẫn còn trong giai đoạn nghèo nàn. Những triết
gia làm việc tổng hợp rất ít ỏi, và nếu thành công thì càng họa hiếm. Nơi đây
xin tạm đưa ra một vài vị đã từng làm công chuyện nầy:
Người đầu
tiên đó là ông Trần Ðức Thảo. Công việc tổng hợp của ông nhằm chứng minh tính
cách khoa học của biện chứng duy vật. Tuy chỉ nằm trong phạm vi của hiện tượng học
và chủ thuyết Mã-sỹ, tổng hợp của ông đã gây ra một tiếng vang trong giới triết
học Pháp. Lần đầu tiên trên diễn đàn thế giới có tên một triết gia Việt. Tuy
nhiên tác phẩm của ông không thể đại diện cho triết Việt, một phần vì triết học
của ông nằm trong mạch văn Âu tây, một phần vì tính chất hạn hẹp của luận đề do
ông đưa ra, một luận đề sai nhiều hơn đúng. Người thứ hai đáng nói là vị giáo
thụ lão thành, linh mục Lương Kim Ðịnh. Khác với họ Trần, linh mục đi từ mạch
nguồn Ðông phương và dân tộc, song linh mục áp dụng những phương pháp của triết
học Tây phương, không những để khai quật nguồn gốc Việt, mà còn đưa ra một
triết lý cá biệt của dân tộc mà linh mục gọi là Triết Lý An Vi. Sau khi từ bỏ
đại học Sài gòn, Lương tiên sinh có lẽ là người có nhiều nhiệt huyết nhất trong
công cuộc xây dựng văn hóa Việt và nhất là Việt Triết. Những tác phẩm của tiên
sinh đã gây được một ảnh hưởng đáng kể, nếu không dám nói là quyết định, thúc
giục thế hệ trẻ đi tìm kiếm Việt Triết.
(3) Tuy nhiên chúng ta phải
nhận rằng, một tổng hợp đích thật vượt khỏi công việc giải thích. Việc mà Lm
Kim Ðịnh đương theo đuổi chỉ thỏa mãn "tâm lý" và khát vọng của những
người Việt tha thiết với văn hóa nước nhà. Một tổng hợp chân thực phải đưa ra
những phương thế hay đạo sống, giúp chúng ta giải quyết vấn nạn hiện đại và
phát triển cuộc sống. Vì lý do đó chúng ta nên lưu ý đến sứ mệnh phát triển văn
hóa Việt.
8.3. Phát triển:
Công việc
phát triển Việt Triết bao gồm hai giai đoạn: đi tìm vấn nạn, và nỗ lực tìm kiếm
phương thế giải quyết vấn nạn dân tộc. Tuy giản dị, song đây là những công việc
khó khăn nhất. Ðể tìm ra vấn nạn, chúng ta phải hiểu thấu triệt cuộc sống hiện
đại, nắm vững truyền thống. Chúng ta cũng phải có một cái nhìn đa diện bao quát
mọi môi trường sinh hoạt, và trong quỹ đạo thế giới. Nếu thiếu những điều kiện
trên, chúng ta không thể bắt mạch được bệnh trạng, đừng nói là nhìn ra sự khiếm
khuyết hay vô dụng của những phương thúc gia truyền. Ðể tìm ra một giải đáp
thích đáng, chúng ta phải tìm kiếm, đào bới từ tất cả mọi nơi, từ những nền văn
hóa khác nhau, từ những khoa học cá biệt và ngay từ nguồn gốc của văn hóa
Việt... Do đó, giải quyết vấn đề không dễ dàng như chúng ta tưởng. Hơn thế, nếu
phương thế mà chúng ta đề ra có thể giải quyết những vấn nạn của Việt dân,
chúng ta có lý do và can đảm dùng phương thế của mình cống hiến cho nhân loại.
Chỉ khi nào phương thế của chúng ta có tính chất hữu hiệu phổ quát, Việt Triết
mới có một thế đứng vững vàng trong quỹ đạo hoàn cầu.
8.4. Thành lập các nhóm nghiên cứu, phiên dịch, biên soạn và tài chánh
cũng như xuất bản:
1. Nhóm nghiên cứu:
Mỗi nhóm chừng năm thành viên, có tính cách chuyên môn. Nhóm có thể nới rộng
tới mười thành viên tùy theo đòi buộc và nhân lực. Những nhóm nầy bao gồm:
1.1. Nghiên cứu về ngữ học
1.2. Nghiên cứu về tôn giáo
1.3. Nhóm Việt Nho
1.4. Nhóm nghiên cứu về huyền thoại
1.5. Nhóm nghiên cứu về văn chương bình dân (như ca dao, vè đối...)
1.6. Nhóm nghiên cứu văn chương bác học
1.7. Nhóm nghiên cứu về đạo đức... học
1.8. Nhóm nghiên cứu về lịch sử
1.9. Nhóm nghiên cứu về chính trị
1.10. Nhóm nghiên cứu về kinh tế
1.11. Nhóm nghiên cứu về xã hội
1.12. Nhóm nghiên cứu về âm nhạc
1.13. Nhóm nghiên cứu về nghệ thuật
1.14. Nhóm nghiên cứu về khoa học
1.15. Nhóm nghiên cứu về kỹ thuật.
2. Nhóm phiên dịch:
2.1. Phiên dịch triết Tây phương như Plato, Aristotle, Augustin, Thomas
Aquinas...
2.2. Tư tưởng cận đại như Descartes, Kant, Hegel, Locke, Hume, Rousseau,
Schelling, Fichte, Nietzche, Kierkegard...
2.3. Tư tưởng hiện đại : (a) triết Ðức như Heidegger, Jaspers, Habermas... (b)
triết Pháp như Satre, Merleau Ponty, Marcel, Lévi Strauss, Ricoeur, Foucault,
Derrida... (c) triết Anh như Russell, Wittgenstein, Whitehead, Quine, Pierce,
Dewey... (d) triết Tàu như Phùng Hữu Lan, Hùng Thích Lập, Phương Ðông Mỹ, Ðường
Quân Ý...
2.4. Các tác phẩm kinh điển tôn giáo, thần học (Một phần đã được các tu sỹ Dòng
Tên tại Balê, và tiến sỹ Vũ Kim Chính, đại học Phụ Nhân, Trung Hoa thực hiện).
2.5. Các tác phẩm kinh điển về chính trị học như Quân Hoàng của Machiavelli,
Cộng Hòa Quốc của Plato, Xã Ước của Rousseau, Lý Tưởng Quốc của Thomas More
(Utopia)...
2.6. Dịch các bộ triết sử của F. Copleston, E. Brehier, L. Wildelband, va N.
Abbagnano...
3. Nhóm biên soạn:
Nghiên
cứu về các đề tài bao gồm các đề mục trên, mục đích đưa Việt triết vào trong
quỹ đạo hoàn vũ. Những nhóm nghiên cứu nầy được thành lập tùy theo sự đòi buộc
của hoàn cảnh, hội nghị quốc tế, hay nhà xuất bản...
4. Nhóm xuất bản:
Nếu có thể thành lập một nhà xuất bản có tính cách chuyên nghiệp, phát hành một
tạp chí nghiên cứu xuất bản thành quả của các nhóm nghiên cứu hay dịch thuật
trên. Sau đó có thể chọn lọc theo đề tài để xuất bản thành sách cống hiến cho
giới trí thức nước nhà và những người nghiên cứu ngoại quốc, các thư viện,
trung tâm văn hóa...
5. Nhóm (ủy ban) kinh tài:
Ủy ban được thành lập với những nhân sỹ uy tín bao gồm học giả, chuyên gia,
thương gia và đại diện tôn giáo... Ủy ban nầy chọn nhân viên điều hành, kinh
tài (qua các hoạt động văn hóa, chuyển khoản, hay đầu tư), và giúp các nhóm
chuyên viên nghiên cứu, tổ chức hội thảo, xuất bản thành quả...
Trong giai đoạn hiện tại, chúng ta không thể tiến hành một
cách đại quy mô, song có thể đi từng bước với một nhóm nghiên cứu. Nếu thành
công chúng ta có thể thành lập một Chi-Kim-Hội (Foundation), và sau đó tiến tới
việc thành lập một trung tâm nghiên cứu Việt học (tương tự như Hàn Lâm Viện)
tại hải ngoại.