SINH TỬ TRONG NHO
GIÁO
TRẦN
VĂN ÐOÀN
Chính Giáo Triết Học
Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan
1. Những ngộ nhận về Tôn Giáo tính của
Nho giáo
2. Thiên Ðế, Thiên Mệnh, và Thiên Nhân Tương dữ
3. Sinh và Tử trong Luận Ngữ
3.1. Phản Ðối Cái Chết Nghịch Tự Nhiên
3.2. Phê Bình Cái Chết Vô Nghĩa
3.3. Chấp Nhận Tất Nhiên Tính của Cái Chết
3.4. Diễn Trình của Chết và Sống
4.1. Ý thức về cái chết
4.2. Ý Thức về Sinh Mệnh
4.3. Hoàn Tất Sinh Mệnh
5. Tạm Kết: Suy tư
về mạt thế luận
Trở
về Mục Lục Trang Triết Học
1. Những ngộ nhận về Tôn Giáo tính của Nho giáo
Trong Tứ Thư, Khổng Tử
họa hoằn mới bàn về sự chết; (1) càng không thích nói đến thần thánh, qủy quái,
hay một thế giới mai sau. Sự kiện này khiến nhiều học giả cho rằng Khổng Tử vô
thần; rằng học thuyết của ngài thuần túy nhân bản. Luận điểm này không hoàn
toàn sai, song chắc hẳn là không đúng. Các nho gia Việt vào thời cựu trào, hay
trong miền Nam trước năm 1975, như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Trọng
Kim, Nguyễn Ðăng Thục, Kim Ðịnh, Bửu Dưỡng, vân vân, (2)đa số nghiêng về phía
hữu thần, hoặc ít nhất, không vô thần; trong khi các nhà nghiên cứu Nho học
hiện nay tại Hà Nội và Sài Gòn nghiêng về hướng vô thần nhiều hơn. (3) Một số
vị còn đi xa hơn giải thích Nho học như là một học thuyết duy vật. (4)Chúng tôi
thiết nghĩ, tư duy Nho học theo phạm trù tôn giáo Tây phương là một sai lầm về
phạm trù. (6) Tương tự, nhìn Nho học theo nhãn quan của học thuyết duy vật
không chỉ vấp phạm vào sai lầm này, mà còn cố tình bóp méo cả quá trình lịch sử
của Nho học nữa. Thế nên, tranh luận về tính chất hữu thần hay vô thần của Nho
học theo phạm trù thần học và ý thức hệ Tây phương trở thành thừa thãi. Song
nếu tôn giáo hiểu theo nghĩa tông giáo của Ðông phương, (6) thì chúng ta không
thể chối bỏ chiều kích thần linh và tâm linh của Nho học. Chính vì thế, trong
luận văn này, chúng tôi tìm hiểu nhãn quan của Nho học về sự sống và sự chết
không theo phạm trù của thần học Tây phương, song theo lối nhìn của người Trung
Hoa, và có lẽ của người Việt chúng ta. (7) Nói rõ hơn, chúng tôi muốn bàn đến
chiều kích tâm linh và thần linh của Nho học từ lối nhìn của con người đông
phương (đặc biệt trong đọan 4 về tiểu đề "Biện chứng Sinh Tử".
Trước hết, chúng ta phải
công nhận là, lịch sử tư tưởng của Trung Hoa, và cách riêng lịch sử của Nho học
Trung Hoa, luôn luôn thay đổi không ngừng. Sự thay đổi có thể là dấu chỉ của
tiến bộ, cũng có thểcủa thụt lùi; sự thay đổi cũng có thể chỉ là một biến dạng
hay tô điểm thêm chút ít mà thôi. Ðiều đó có nghĩa là, nếu chúng ta chấp nhận
luận đề về sự biến đổi của lịch sử, chúng ta cũng phải công nhận rằng ngay cả
quan niệm về thần linh cũng đã ở trong một qúa trình thay đổi, và đương tiếp
tục diễn trình lịch sử biến hóa của con ngưởi. Hiểu như thế, chúng ta mới có
thể nhận định một cách trung thực về sự thay đổi của nhân sinh quan cũng như
thần linh quan trong Nho học.
Sự thay đổi nhân sinh
quan bắt đầu từ nhà Chu (1111 trước công nguyên, tắt tr.c.n.) khi người Tàu bắt
đầu chú trọng đến vai trò của con người. Trước nhà Chu, vào thời nhà Thương
(1751-1111 tr.c.n.), người Tàu đặt tất cả vận mệnh trong tay Thượng Ðế.
(8)Người ta kính bái Ðế. Họ tin vào hồn phách, khuẩn, thiên mệnh, sự bất tử của
hồn phách. (9) Họ cho rằng, mưu sự tại Thiên, mà thành sự cũng tại Thiên, thế
nên khấn cầu, xin các thần linh ban cho họ thái hòa, phồn thịnh. Nhà Chu khi
lật đổ nhà Thương, cần một lý do thích đáng để hợp lý và hợp pháp hóa sự phản
phúc của mình. Chính do đó, họ đổi lại quan niệm thiên mệnh cũng như vai trò
của thần thánh. Họ phát triển một lý thuyết đạo đức dựa trên chính con người,
và chính con người mới có thể nhờ vào hành vi cũng như ngôn từ tốt lành mà hòan
thành chính định mệnh của mình. (10) Nói cách khác, con người có thể tự quyết
định vận mệnh, nhờ vào hành vi đạo đức của mình. Lý do này hợp lý hóa công việc
cải triều hoàn đại, cũng như biến hành vi tiếm vị của nhà Chu trở thành danh chính
ngôn thuận. Nhưng cũng từ đời Chu, các nhà lãnh đạo phải dựa vào đạo đức để trị
nước. Họ rất có thể bị lật đổ nếu thiếu tài thất đức. Quan niệm "dân vi
quý" của Mạnh Tử thực ra đã manh nha ngay từ thời nhà Chu vậy. Dưới triều
đại Chu (1111-249 tr.c.n.), các nhà lãnh đạo dần dần tiếm vị thần linh, tự cho
mình là tổ là tiên. (11) Mà Tổ lại có một vị thế quan trọng ngang với Thiên.
Trong Lễ Ký, ta đọc thấy: "Vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ", tức
muôn vật gốc ở Trời, người gốc ở Tổ. Thực ra, như chúng tôi đã nhắc sơ qua, một
tư tưởng "nhân bản" như trên chỉ xuất hiện từ nhà Chu. Trước đó, nhất
là trong thời Hạ và Thương, Ðế hay Thiên siêu việt trên con người. Chính vì
thế, nghi lễ tế Thiên khác với tế Tổ. Cũng trong Lễ Ký, chỉ có Thiên tử mới
được phép tế Thiên: "Thiên tử tế trời đất, tế bốn phương, tế núi sông, tế
ngũ tự." (12)Trong Thi Kinh, chúng ta còn thấy rất nhiều đọan giải thích
nguồn gốc con người và vạn vật tự Thiên, thí dụ như "Hòang hỹ Thượng Ðế,
lâm hạ hữu hách, giám quan tứ phương, cầu dân chi mạc"; hoặc "Thiên
sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc, dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức". (13)
Song từ đời Chu, vũ trụ quan của người Tầu biến đổi, và nhân sinh quan của họ
dần dần lấn át, thay thế lối nhìn thần bí trong quá khứ. (14) Suy tư mang tính
chất hình nhi hạ về Ðế của họ được bổ túc với một lối tư duy hình nhi thượng về
Thiên. Thượng Ðế không chỉ có nhân tính, mà còn Thiên tính; không chỉ biểu hiện
nhân cách mà còn siêu việt. Song người Tầu phải đợi tới thời Khổng Tử và Lão Tử
mới bắt đầu có một nền triết học gần sát nghĩa với triết học hiện nay. (15)
Khổng Tử tiếp thu cũng
như phát triển những tinh hoa của tổ tiên, tức các nhà tư tưởng trước ngài.
Công việc thuật nhi bất tác nhắm đến việc bảo tồn và phát huy những giá trị
truyền thống. Nói một cách rõ hơn, Khổng Tử không gạt bỏ nhãn quan hình nhi
thượng, song ngài tìm cách tổng hợp vào trong cuộc sống con người. Ngài khộng
chối bỏ thần linh; ngài cũng không khinh thường ma quái; và ngài càng không gạt
bỏ niềm tin vào Thiên, vào Ðế. Ngược lại, ngài chủ trương tế Thiên, tế Thần, tế
Tổ, kính bái tiền nhân, hiếu thảo với cha mẹ, tín nghĩa với bằng hữu, vân vân.
Song sự việc cúng tế, thờ phụng Thiên, Ðế, Tổ không mang tính chất huyền bí hay
mê hoặc; nhưng có tính chất thực tế và thực dụng nhiều hơn. Ðối với Khổng Tử,
Thiên, Ðế, giống như Tổ, không chỉ mang tính chất ngoại tại, hòan toàn siêu
việt, song còn nội tại, tiềm tàng trong chính vũ trụ con người. Chính vì vậy,
thờ Thiên, bái Tổ, cũng giống như hiếu thảo với cha mẹ, là một nghi lễ biểu tả
sự liên quan mật thiết giữa con người, cũng như tuân theo một quy luật tất yếu
của "uống nước nhớ nguồn" (ẩm thủy tư nguyên), "ăn qủa nhớ kẻ
trồng cây" hay "người trước trồng cây, người sau hưởng mát".
Quan niệm nhớ ơn nơi đây là một trọng điểm trong nền đạo đức học của người đông
phương.
Từ một quan niệm đạo đức
như vậy, chúng ta có thể hiểu tại sao Khổng Tử bắt đầu với con người, chứ không
từ Ðế hay Thiên. Khi nhấn mạnh đến vai trò của con người trong đạo đức học,
hoặc đến tính chất ưu tiên của con người "Chưa giúp con người, làm sao có
thể nói phục vụ Trời?" (16) ngài muốn nhấn mạnh đến vai trò của con người
trong quá trình hình thành chính mình, như là một chủ thể, một truyền nhân của
Trời và Ðất. (17) Gần gũi với con người chính là con người. Theo nghĩa này, tổ
tiên là những người đi truớc, chứ không phải chỉ là một nguyên lý siêu hình
trừu tượng như thấy trong nền siêu hình học của Hy Lạp. Chính vì thế mà con
nguời cũng được (và phải được) kính trọng như Trời và Ðất. (18) Phụng kính tổ
tiên là một hình thức biểu tả lối sống thiên nhân tương dữ; truyền tông hậu
đại. Phụng kính tổ tiên cũng là một lối thực thi đạo làm người (tức đạo nhân).
Trong mạch văn này, tông giáo (19) được hiểu như là một lối sống, một nền giáo
huấn giúp con người hình thành chính mình qua sự khám phá vai trò của mình
trong lịch sử của dòng, của giống, của tộc. Tông giáo cũng giúp con người ý
thức được sự phát sinh, cũng như trong mục đích tối hậu của con người qua chính
lịch sử hình thành của mình. Nói cách khác, tông giáo không chỉ mang tính chất
religere, tức nối kết những con người có chung niềm tin vào Thượng Ðế, hoặc
biểu tả những cảm giác siêu tự nhiên, huyền bí, (20)mà còn có tính chất
"nhận tổ, qui tông", giúp con người ý thức được vai trò lịch sử sáng
tạo của mình như chúng ta thấy trong Việt triết với nguyên lý tam tài Thiên Ðịa
Nhân.
Nếu chấp nhận vai trò của
con người trong tiến trình hình thành lịch sử nhân loại, chúng ta cũng phải
chấp nhận vai trò của Thiên và Ðịa, bởi vì con người không thể tự tạo, tự sinh
và tự tồn. Thiên do đó giữ vai trò của người cha, người mẹ (thiên chi phụ mẫu),
trong khi Ðịa là "vạn vật chi mẫu". (21) Hiểu như vậy, chúng ta có
thể nói, vấn đề sinh tử của con người chỉ có thể hiểu và giải quyết trong sự
tương quan của con người với Trời và Ðất. Ðể giúp một số độc giả (chưa quen
thuộc với triết đông) có một lối nhìn trung thực hơn về tranh luận siêu hình
trong Nho học, chúng tôi xin mạn phép bàn luận một cách tóm lược về quan niệm
Thiên, và Thiên nhân tương dữ trong Nho học.
2. Thiên Ðế, Thiên Mệnh, và Thiên Nhân Tương dữ
Theo các nhà nghiên cứu
Trung Hoa, quan niệm Thiên và Ðế từng biến đổi rất nhiều trong quá trình lịch
sử từ thời Thương cho tới thời Khổng Tử. Và ngay trong các Kinh điển như Tứ
Thư, Tả Truyện, Thi Kinh, Lễ Kinh, chúng ta cũng thấy một sự biến đổi khá rõ
ràng. Phùng Hữu Lan sắp đặt quan niệm Thiên vào trong 4 phạm trù, Thiên như là
một Khải mặc, Thiên như một Sáng tạo, Thiên như một vị Giám sát, và Thiên như
như một Pháp quan. (22) Phó Bội Vinh đi xa hơn, giải thích Thiên và Ðế theo năm
nghĩa vụ: Thống trị, Sáng tạo, Giám sát, Mặc khải, và Pháp quan. (23) Tương tự
như Phó Bội Vinh, Lý Chấn xếp Thiên vào trong 6 phạm trù; 5 phạm trù như của họ
Phó, cộng thêm phạm trù Ðạo. (24) Nói một cách chung, các danh nho đương thời
như Phương Ðông Mỹ, Mạc Tông Tam, Ðường Quân Nghĩa, La Quang, Ngô Kiến Hùng,
hay cả Lương Thấu Minh và Hùng Thế Lực, cho dù vô thần hay hữu thần cũng đều
công nhận là quan niệm Thiên và Ðế mang cả hai tính chất hình nhi thượng và
hình nhi hạ, siêu việt và nội tại. (25)
Bắt đầu với nhãn quan
hình nhi hạ, nhà Thương dùng từ ngữ Ðế để nói lên vị thần cai quản cũng như
điều hành (a) gió, mây, sấm sét và mưa; (b) mùa màng và gặt hái; (c) việc xây
dựng thôn xóm, làng mạc; (d) chiến tranh; (e) sự may mắn cũng như tai họa của
muôn dân; (f) và sự cát hung của nhà vua. (26) Một cách chung, Ðế ám chỉ một
đấng tối cao, song khộng siêu việt, không hoàn toàn linh thiêng. Ðế diễn đạt
một sự xuất kiệt, lãnh đạo. Tam Hoàng, Ngũ Ðế (27) và ngay cả các vương nhà Hạ
(Vũ vương 2205 tr.c.n.), nhà Thương (Thành Thang, 1766 tr.c.n.), nhà Chu (Vũ
Văn, Chu Công, 1122 tr.c.n.) đều được tôn kính là Ðế. (28) Ðây là một lý do tại
sao nhóm tân Nho cho rằng quan niệm về Ðấng Tuyệt Ðối Gia-Vi (Yahweh), hay Thần
Linh (Theos) và Linh Thiêng (Sacrus) hòan tòan xa lạ trong lối suy tư cuả người
Tầu. Cho tới đời Chu, chúng ta mới thấy từ ngữ Thiên dần dần thay thế từ ngữ
Ðế. Thiên từ đây mang một sắc thái siêu việt, được coi như là một nguyên lý tối
hậu, tách biệt khỏi con người. Một trong những lý do chính của sự biến đổi từ
Ðế ra Thiên có lẽ mang tính chất chính trị và xã hội nhiều hơn là tính chất tôn
giáo. Ðiểm đáng lưu ý, đó là các vương nhà Thương từng lợi dụng chữ đế để gán
cho tổ tiên của họ. Do đó, cho dù thất đức, các đế vương vẫn không sợ bị lật
đổ. Ðây là một trong các lý do tại sao nhà Chu thích dùng chữ Thiên, và chú
trọng đến phần hình nhi thượng. Trong Thi kinh, Thiên được coi như là Ðấng Giám
sát, sắp đặt các vương để cai quản muôn dân. (29) Chính Thiên đã chọn và đặt
ông Văn vào ngôi vương; (30) và chính Thiên đã ra lệnh nhà Thương lật đổ nhà Hạ
vô đạo.(31)
Tuy nhà Chu đã thay đổi
phần nào quan niệm Thiên, song vai trò của con người vẫn chưa được chú trọng
đủ. Y hệt các vương thời Thương từng lạm dụng Ðế, các bạo vương nhà Chu lợi
dụng Thiên, biến Thiên thành lá bùa hộ mạng. Mê tín của bọn phương sỹ trộn lẫn
với hành vi vô đạo của giai cấp lãnh đạo đã biến đổi Thiên thành một quan niệm
huyền bí. Chính vì thế mà thiên mệnh được coi như định mệnh. Từ nhà Chu cho tới
thời Xuân Thu (722-481 tr.c.n.), con người phó thác vận mình cho Thiên. Thiên
bây giờ là một vị thống trị, quyết đinh vận mạng của con người. Người trực tiếp
đặt người cai quản muôn dân. Quân vương được Thiên chọn để tiếp tục coi sóc
cũng như giữ gìn Thiên đạo. Nói cách khác, tất cả đều do Thiên quyết định. Từ
đây thiên mệnh biến thành định mệnh. Quân vương biến thành thiên tử.(32)
Khổng Tử xuất hiện như là
một thách đố đối với lối nhìn quá siêu hình và huyền hoặc của thời đó. Giống
như Su-Cát (Socrates), ngài nhận ra vai trò của con người trong lịch sử nhân
loại. Chỉ trong Luận Ngữ mà thôi, ngài bàn đến con người hay đạo nhân 105 lần;
đến đạo làm người quân tử 107 lần.(33) Ðối với ngài, con người giữ một vai trò
then chốt, như trung tâm nối kết giữ Trời và đất. Tuy thế Ngài vẫn chấp nhận
chiều kích tâm linh và thần linh trong vũ trụ và trong cuộc sống của con người.
Ngài coi việc tế Thiên như là một nghi lễ tối quan trọng(34). Ngài nhận định
thiên đạo như một lối sống theo luật của Thiên, và thiên mệnh như quy luật của
Trời. Mặc dù ngài ít nói đến Thiên(35), hoặc từ chối không bàn đến qủy
thần(36), hoặc cho rằng "Không phải Ðạo làm con người lớn, song chính con
người mới làm sáng Ðạo,"(37) ngài luôn tin vào Thiên và kính Thiên(38).
Chúng ta phải đợi cho tới thời Tống (nho), mới thấy quan niệm Thiên được hiểu
theo nghĩa "nguyên lý", mang tính chất siêu hình học. Song điểm đáng
nói là Nho học vào thời này đã mang một phần nào sắc thái Phật học, và Ðạo học.
Hai anh em Trình Hạo (1032-1085), Trình Di (1033-1107) càng chú trọng đến
"bản tính" con người hơn. Mà tính của họ cũng là cái lý của trời đất
vậy. Chu Hi (1130-1200) đi xa hơn, ông tổng hợp lý và khí, tính và tâm, nhân và
chí, và giải thích cho rằng tất cả phát xuất từ cùng ly(39).
Trong một mạch văn như
vậy, chúng ta mới có thể hiểu được quan niệm thiên nhân tương dữ; về cái nhìn
của nho giáo về sinh tử và về hậu thế.
Như chúng tôi đã nhắc tới
trong phần nhập đề, Khổng Tử ít bàn về vấn đề sinh tử, nhất là cái chết. Tuy
ít, song thực ra, không phải rất ít như nhiều học giảhiểu lầm. Trong Luận Ngữ
mà thôi, chữ sinh xuất hiện 16 lần, và càng đặc biệt hơn, chữ tử được nhắc tới
38 lần(40). Thống kê này cho ta thấy câu trả lời Tử Lộ của Khổng Tử "Chưa
biết về sống, nói làm chi tới chết", có vẻ gượng gạo, hoặc chỉ là một cố ý
trốn tránh không giám đối diện với vấn đề. Thực tế là, ngài nhìn sự sống và sự
chết không theo lối nhìn huyền hoặc của thời đó. Lối suy tư của ngài rất ư tông
giáo, song không mê tín: muốn hiểu về sự sống, chúng ta phải đối diện với cái
chết; và ngược lại, ý nghĩa của sinh mệnh là do chính sự "lập danh",
"lập công", "lập đức", tức "thành nhân", chứ
không phải do ý thức về hữu hạn tính của con người qua cái chết. Phó Bội
Vinh(41) phân loại quan niệm tử sinh trong Luận Ngữ vào 4 tiết mục: (1) thái độ
của Khổng Tử về cái chết nghịch tự nhiên; (2) về việc Khổng phản đối cái chết
bất đắc kỳ tử, hay cái chết vô nghĩa; (3) về tính chất tất nhiên của cái chết;
và (4) khẳng định vai trò của sự chết trong diễn trình sinh sinh bất tận(42).
Chúng tôi tạm dựa theo nghiên cứu của họ Phó trong phần này.
3.1. Phản Ðối Cái Chết Nghịch Tự Nhiên
Thứ nhất, Khổng Tử nhận
định cái chết như là luật tự nhiên của trời đất. Thế nên theo thiên mệnh hay
thi hành thiên đạo đòi hỏi chúng ta không được phép tự phép nắm quyền sát sinh.
Chính vì vậy, ngài phản đối bất cứ hình thức nào ngược lại với cái chết tự
nhiên. Ngài cũng gạt bỏ bất cứ lý do gì, cho ngay cả lý do đạo đức, để giết
người. Ngài chán ghét chiến tranh(43); ca tụng Quản Trọng vì đã ngăn chặn được
nhiều trận chiến(44), và ngài khuyên các nhà chính trị nên từ bỏ bạo lực(45).
Tương tự, ngài chủ trương theo thiên ý, không cổ võ diệt bạo quân; không phải
vì ngài thấu triệt được rằng sự giết hôn quân không thể giải quyết được vấn đề
một cách tận gốc, mà vì ngài ý thức hành động sát quân là một hành động sát
nhân; mà sát nhân tức là hành vi phản thiên đạo. Nói cách chung, sát quân hay
sát phụ đều là sát nhân cả. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử lập lại nhiều lần quan
niệm này. Trong đoạn 12:19, khi trả lời Lý Khang tử về việc giết người để cứu
người, ngài nhấn mạnh đến chính đạo thay thế bạo lực: "Tử vi chính, hà
dụng sát?". Trong đoạn 14:36, ngài nói thêm: "Ðạo chi tương hành giã
hưng, mệnh giã." Trong đoạn 14:17 trả lời Tử Cống về nhân nghĩa của Quản
Trọng: "Quản Trọng phi nhân gỉa ư?" ngài ca ngợi Quản Trọng là người
tôn trọng sự sống. Tương tự, trong đọan 13:11, ngài khẳng định sự sống với
thiện hảo"thiện nhân vị bang bách niên". Trong tất cả các đoạn văn
trên, chúng ta nhận thấy chủ trương của Khổng Tử như sau: thứ nhất, cái chết,
giống như sự sống, tự nó thuộc thiên đạo, tức đạo tất nhiên, thế nên chúng ta
không có quyền thay đổi. Thứ hai, như cái đạo tất nhiên, con người không thể
tránh khỏi cái chết, song không thể vì thế mà tự quyết định sinh mệnh của mình,
càng không được phép lạm dụng mạo phạm sinh mệnh của tha nhân. Tha sát hay tự
sát cũng đều là sát nhân cả. Trong một niềm tin như thế, Khổng Tử phản đối tất
cả mọi hình thức phản sự sống, bao gồm chiến tranh, bệnh tật, giết người, hay
lối sống sa đọa, nguyên nhân của đoản mệnh. Tư tưởng này cũng xuất hiện trong
Mạnh Tử, khi thày chủ trương theo thiên mệnh và trọng sự sống. Theo thiên mệnh
tôn trọng sự sống tức trọng lễ, trọng nghĩa, tức thực thi đạo nhân: "Khổng
Tử tấn dĩ lễ, thối dĩ nghĩa, đắc chi bất đắc viết hữu mệnh"(46). Và thực
thi đạo nhân mới có thể thống nhất thiên hạ: "Bất sát nhân giả năng nhất chi"(47).
3.2. Phê Bình Cái Chết Vô Nghĩa
Thứ hai, Khổng Tử phê
bình những cái chết bất đắc kỳ tử, hoặc những cái chết vô nghĩa. Thế nên đối
với ngài, sống phải ra sống, mà chết cũng phải ra chết mới theo đúng đạo. Sống
giai như đỉa đói nhưng vô nghĩa, cũng chỉ là một cuộc sống dư thừa, có hại:
"lão nhi bất tử, thị vi tặc."(48) Tương tự, những người lãnh đạo chỉ
biết hưởng thụ, chạy theo cái bã phú quý, quyền lợi, khi chết cũng chỉ là một
cái chết lãng nhách bị người đời dèm pha(49). Tuy nói như thế, ngài không có cổ
võ chúng ta chạy theo cái chết "anh hùng" (như các lãnh tụ từng hô
hào, xúi dại dân chúng "ăn cứt gà", "hy sinh vì tổ quốc",
học đòi "Lê Lai cứu chúa"). Ngài cảnh cáo chúng ta tôn trọng sinh
mệnh, đừng dại dột đâm lao vào những mạo hiểm không cần thiết(50), để mà
"bất đắc kỳ tử nhiên"(51). Một cái chết yểu, bất thần (như trường hợp
Hội Nhan) thường bị Khổng Tử phàn nàn cho là "dũng nhi vô mưu", một
sự đáng tiếc.
3.3. Chấp Nhận Tất Nhiên Tính của Cái Chết
Thứ ba, tuy luôn nhấn
mạnh đến sinh mệnh, Khổng Tử không trốn tránh cái chết. Ngài coi "sự tử
như sự sinh, sự sinh như sự tử". Chính vì vậy mà chúng ta phải hiểu biết
thêm về cái chết. Thứ nhất, Khổng Tử chấp nhận cái chết như một luật tự nhiên,
bất khả kháng :"tử sinh hữu mệnh, phú qúy tại thiên"(52) Thế nên ngài
không phản kháng, hay âu lo. Thứ hai, tuy chết là luật tự nhiên, song không
phải cái chết nào cũng giống nhau. Có những cái chết anh hùng; có những cái
chết vô giá trị. Nói cách khác, ngài nhìn cái chết từ khía cạnh sinh mệnh. Nếu
mạng sống con người có giá mà chết sớm, thì đó cả là một tai họa. Song ngược
lại, nếu một mạng sống không có giá trị gì cả, thì bị ngài miêu tả như
"người gìa mà không chết tất biến thành tặc". Chính vì vậy mà ngài
than tiếc những người hiền tài chẳng may bị chết sớm(53). Ngài phàn nàn lão
Thiên "bất hạnh đoản mệnh tử ai"(54), hay "Thiên ai
tử"(55). Tuy phàn nàn, song Khổng Tử chấp nhận và không oán giận Thiên,
bởi vì đó là luật tự nhiên. Nhìn từ khía cạnh này, chúng ta có thể nhận ra thái
độ của ngài về cái chết. Cái chết là một bước tất nhiên của lịch trình sinh tử.
Chính vì vậy, để đánh giá hay hiểu về cái chết, phải nhìn nó từ khía cạnh sinh
mệnh.
3.4. Diễn Trình của Chết và Sống
Nhìn như vậy, cái chết có
thể bi đát hay tự nhiên tùy theo sự đóng góp của nó vào sự sống: sự sống của
dòng, của giống, của tộc, hay của nhân loại. Cái chết bi đát là cái chết tuyệt
mệnh. Cái chết hưũ ích là cái chết anh hùng. Mà cái chết anh hùng tức là cái
chết đạt được mục đích. Câu "chưa biết sống, nói chi tới chết?" thực
ra muốn nói lên hai nghĩa: (1) nếu chưa biết được mục tiêu của cuộc sống, thì
nói đến cái chết làm gì; hay ngược lại (2) một cái chết có ý nghĩa là một cách
nói lên sự cao quý của tính mệnh: "hữu sát thân dĩ thành nhân" (giết
mình để thành đạo làm người)(56). Nói một cách khác, chết và sống nằm trong một
diễn trình không thể phân cách được. Nếu hiểu được như thế, thì "triều văn
đạo, hôn tử khả ai" (sáng sớm nghe được đạo thì chiều chết cũng được)(57).
Từ những phân tích về
quan điểm sinh tử của Khổng Tử, chúng ta nhận thấy rằng, sự sống và sự chết
không phải là hai sự kiện hoàn tòan tách biệt, song là hai bộ mặt của nhân
sinh. Hay nói theo ngôn ngữ của thần học biện chứng của Ba-Thời (Karl Barth) và
Bụt-Mân (Rudolf Bultmann)(58), sinh tử chỉ là hai giai đoạn chính đề và phản đề
mà thôi. Nơi đây, con người không thể chọn lựa giữa có hay không như trong biện
chứng "hoặc có hoặc không" của Kỳ-Cơ-Nhã (Soren Kierkegaard)(59). Một
sự chọn lựa hoặc có hoặc không, cho rằng hoàn toàn trong tự do, cũng chỉ đưa
đến bất động, tức tuyệt mệnh mà thôi. Thực ra, chính đề và phản đề là những
giai đoạn tất yếu trong diễn trình hình thành của sinh mệnh, đưa tới tổng đề,
tức sự hoàn thành sinh mệnh, tức thành nhân. Trong phần này, chúng tôi phát
triển biện chứng sinh tử của Nho học, để suy tư về một khả thể dẫn đến một nền
mạt thế luận trong Việt Thần, một đề tài mà chúng tôi sẽ bàn đến trong tiểu
luận "Mạt Thế Luận trong Ca Dao Tục Ngữ"(60). Chúng tôi xin được luận
bàn ba điểm chính: (1) ý thức về sự chết, (2) ý thức về sinh mệnh, và (3) hoàn
tất sinh mệnh.
Con người ý thức được cái
chết vừa khi có trí khôn. Thọat tiên, cái chết xuất hiện dưới hình thức của mất
mát, của vĩnh biệt: mất mát những người thân yêu, những sự vật yêu qúy, những niềm
ước mơ, vân vân. Cái chết cũng được nhận thức bằng những cảm giác đau khổ, bi
thảm; qua những tiếng khóc hay than vãn não nuột. Thứ tới, từ nhận thức thảm
kịch nơi tha nhân, cho đến tự nhận thức cái bi thảm nơi chính mình, con người
coi cái chết như sự chấm dứt; sự tách biệt vĩnh viễn với cái thế giới thân yêu
của mình. Ngòai ra, ý thức về cái chết cũng được biểu tả qua cái sợ của sự đau
khổ cùng tột nhất; của tính chất bi đát của hiện hữu; của tuyệt vọng, và nhất
là của vô định. Nói một cách khác, sợ chết không chỉ nói lên một cảm giác hãi
sợ đau khổ thông thường, hay một sự mất mát. Sợ chết nói lên tính chất bi đát
nhất: con người đương đánh mất chính sự sống của mình, mà sự sống này lại là
bảo vật vô gía.
Nếu hiểu sự chết theo
những nghĩa trên, thì sợ chết đồng nghĩa với sợ mất mát. Mà càng có nhiều bảo
vật, thì sự mất mát càng nhiều; thế nên cái chết càng bi đát. Ngược lại, càng
không có gì thì cũng chẳng mất chi; thế nên càng không sợ chết. Nhưng nếu chính
sinh mệnh là báu vật vô giá, và nếu mỗi người đều ý thức được điều này, thì ai
cũng sợ chết cả. Trong chủ thuyết vô vi của Lão Tử và Trương Tử, điểm chính yếu
là làm thế nào để con người có thể giản hóa mọi tư hữu; hoặc lý tưởng nhất là
hư vô hóa hiện hữu. Một khi tất cả chỉ là "không" hay "như không",
thì cái chết không còn ý nghĩa gì hết, bởi vì ngay cả sinh mệnh cũng chỉ là
"không". Cái chết không có chi là bi đát cả. Cái chết chỉ là một xác
định của niềm tin siêu hình: "Vô, vạn vật chi mẫu" mà thôi(61).
Khổng Tử, khác với Thích
Ca Mâu Ni, và với những người như Lão Tử. Ngài nhận định, ta không thể ví sinh
mệnh với các sự vật khác được. Chúng ta càng không thể giả bộ làm như không có
sinh mệnh. Về điểm này, ngài nhận định là chúng ta không thể nghĩ tới hư vô nếu
không chấp nhận sinh mệnh, y hệt như lý luận của Ðệ-Các (Rene Descartes), chủ
thể không thể nghi ngờ chính chủ thể đương tư duy. Thành thử, mất sinh mệnh tức
là mất hết. Không có sinh mệnh, thì chúng ta làm sao có thể biến sinh mệnh
thành hư vô. Cái chết theo nghĩa này đúng là tuyệt mệnh.
Trong phần phân tích quan
niệm sinh tử của Khổng Tử, chúng ta có thể nhận ra được cái nhìn lưỡng tính của
ngài: (1) cái chết là một sự mất mát to lớn nhất, đó chính là sự đánh mất hiện
sinh và bản chất hiện hữu. Nói cách khác, tính chất bi đát của cái chết không
phải là cái chết, song là tuyệt mệnh. (2) Tuy nhiên cái chết sẽ không vô ích,
nếu nó tạo ra sinh mệnh mới, hay một lai sinh (future life) hay một trường sinh
(eternal life). Ðiểm đáng chú ý là, Khổng Tử tư duy lai sinh không theo nghĩa
tái sinh (samkhara) của Phật giáo, và trường sinh không theo nghĩa nhập vào
niết bàn (nirvana) hay thiên đường. Ngài hiểu sinh mệnh mới theo nghĩa tiếp nối
sinh mệnh. Như là một tiếp nối, cái chết sẽ không đem lại tuyệt mệnh. Ngược
lại, nếu đánh mất tính chất này, thì cái chết đúng là sự chấm dứt, là tuyệt
mệnh. Lời than trách về cái chết yểu của Tử Lộ không có nghĩa là ngài không
chấp nhận cái lẽ tất nhiên của sự chết, song vì Tử Lộ chưa tạo ra được sinh
mệnh mới, hoặc là cái mệnh của thầy không được tiếp nối. Do đó, cái mệnh của Tử
Lộ chỉ là tao mệnh mà thôi.
Nếu hiểu cái chết trong
một mạch văn của tuyệt mệnh, thì điểm chủ yếu không phải là cái chết, song
chính là sinh mệnh. Tuyệt mệnh chỉ là phương thế chối bỏ sinh mệnh một cách dứt
khóat, một cách toàn diện và cực đoan nhất. Thế nên, thảo luận về cái chết tức
là thảo luận về các nguyên nhân cũng như hình thức chối bỏ sinh mệnh. Mà một
trong những nguyên nhân chính yếu của sự từ chối sinh mệnh, chính là sự thiếu ý
thức về sinh mệnh.
Sự thiếu ý thức bắt đầu
với ngộ nhận coi sinh mệnh như một hiện sinh (existence hay presence) duy nhất,
hay như một hiện thể (Dasein) bất biến, hay như một hiện tượng (phenomenon) vật
vờ, gỉa tá. Sự thiếu ý thức cũng phát xuất từ quan niệm coi sinh mệnh như một
vật sở hữu mà chúng ta có thể tiếm đọat. Sự thiếu ý thức cũng có thể thấy nơi
thái độ coi sinh mệnh hoàn toàn cô lập, tách biệt khỏi lịch trình diễn biến cũa
nhân loại. Và sự thiếu ý thức rõ ràng nhất trong cái vô thức, hoàn toàn gạt bỏ
sinh mệnh, coi sinh, coi mệnh, coi thể, coi thân.là hư vô.
Ngược lại, một ý thức
chân thật về sinh mệnh phải vượt khỏi hiện tính, tức nhìn sinh mệnh không hạn
hẹp vào phạm trù của thời gian và không gian. Sinh mệnh chân thật không bị ràng
buộc vào thời gian tính và không gian tính của hiện diện hay hiện sinh (hic et
nunc). Hay nói cách khác, ý thức sinh mệnh tức ý thức về lịch sử tính(62) của
chính mình, tức ý thức về cả quá trình, và diễn tiến của hữu thể. Khi hiểu sinh
mệnh trong phạm trù lịch sử, sinh mệnh không còn mang tính chất bất động, hay
cô lập. Sinh mệnh bây giờ phải hiểu theo nghĩa của sinh động, của sáng tạo, của
phát sinh, tức "sinh sinh bất nghỉ", một quan niệm then chốt trong
Dịch kinh. Mà sinh, tức là sinh con sinh cái; tức là sáng tạo; tức là
"nhập thể" (biến thành thịt, thành thân xác tức thân thể), tức là
nhân hóa.
Nếu hiểu sinh mệnh như là
một diễn trình bất tận của phát sinh và hoàn thành nhân loại, thì ý nghĩa của
sinh mệnh, hay nói đúng hơn, giá trị của sinh mệnh phải được nhìn từ (1) khía
cạnh của sinh, tức phát sinh những sinh mệnh mới, những giá trị mới, và (2) từ
khía cạnh của thành, tức hoàn thành sứ mệnh và sử mệnh(63). Sinh, một quan niệm
then chốt trong Dịch kinh và Ðạo Ðức kinh, nói lên tất cả lịch trình biến hóa
của vũ trụ và nhân lọai. Cách diễn tả: "Một sinh hai, hai sinh ba.",
cũng như "Thái cực sinh lưỡng nghi; lưỡng nghi sinh tứ tượng; tứ tượng
sinh bát quái; bát quái sinh vạn vật", hay "Ðạo sinh nhất, nhất sinh
âm dương." chỉ là một lối diễn tả lịch trình phát sinh của vũ trụ và nhân
lọai. Hiểu như vậy, người Tầu hiểu sinh như một hành động, một lối sống, một
nền triết lý biểu tả lịch trình hòan thành sử mệnh và sứ mệnh của con người. Từ
ngữ học, chúng ta thấy ngữ cấu của chữ sinh ( ) bao gồm hành động liên kết, hay
nối kết giữa trời, đất và con nguời ( ). Và đặc biệt là chỉ có con người ( )
mới có khả năng liên kết và nối kết này. Chỉ qua nối kết, hay hành động phối
hợp, hay giao cấu, giao hợp, hay hiệp thông, hay cộng thông mà con người và vạn
vật mới có thể sinh sản: "âm dương hiệp nhất tự mình tẩu". Và chỉ qua
hành động nối kết này mà lịch sử nhân lọai mới hoàn thành.
Từ một khía cạnh khác,
sinh mệnh, với tính mệnh, cũng đều phát xuất từ sinh. Dù là thiên tính hay nhân
tính, tính không phải tiên thiên, tự tại, song phát sinh và biến đổi trong diễn
trình của sinh. Con người có thể thành thánh, cũng có thể thành ác quỷ. Con
nguời có thể đánh mất nhân tính; cũng có thể tiếp cận thiên tính. Mà nhân tính
hay thiên tính không phải tự nhiên phát hiện, song qua chính sự tu luyện của
con người. Tu thân tích đức là một hình ảnh, một phương thế để hoàn thành cái
tính, để đạt tới cái mệnh, (giống như hoài thai để sinh sản). Khổng Tử diễn đạt
tư tưởng tu thân này trong Ðại Học. Theo ngài, chỉ nhờ vào tu thân tích đức, mà
ta mới có thể "tề gia, trị quốc, bính thiên hạ"; mà con người hòng
đạt tới "minh minh đức", đạt được "chí thiện"(64). Song dù
biến đổi thế nào đi nữa, tính luôn tiềm ẩn trong sinh ( ). Ðây là một điểm nền
tảng của nguyên lý siêu hình mà, đáng tiếc thay, cuộc tranh luận giữa Mạnh Tử
(tính bản thiện) và Tuân Tử (tính bản ác) vào thế kỷ thứ ba trước công nguyên
đã làm lạc hướng. Một điểm đáng nói, đó là, nếu chấp nhận bản tính con người
một cách tiên thiên, thì dẫu là bản thiện, hay bản ác, các nho gia theo hai họ
Mạnh và Tuân bắt buộc phải phủ nhận lịch trình thành nhân của con người vậy.
Bởi vì khả thể của thành nhân chỉ có thể thấy trong một lịch trình diễn biến
của lịch sử nhân loại mà thôi. Nhưng nếu phủ nhận quan niệm thành nhân, một
quan niệm then chốt trong nền đạo đức của Khổng Tử, thì tất cả nền móng của Nho
học sẽ sụp đổ. Sự sụp đổ này rõ ràng nhất trong sự kiện lũng đoạn của chủ nghĩa
duy luật và duy hình thức của nhóm pháp gia. Thương Ưởng, Hàn Phi Tử.đều chỉ là
đồ đệ trực tiếp hay gián tiếp của Tuân Tử mà thôi vậy.
Nếu thành nhân là sự hoàn
tất của sinh mệnh, và nếu sinh mệnh được hiểu theo nghĩa của tác tạo, tức sinh
sinh bất nghỉ, tức tạo ra sinh mệnh mới, thì thành nhân, hay hoàn tất sinh mệnh
cũng có nghĩa là truyền tông hậu đại, nối dòng nối dõi. Quan niệm đạo đức, thí
dụ đạo hiếu, phải được hiểu trong một mạch văn trên. Thế nên khi người Tầu và
cả người Việt chúng ta cho rằng "bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại" (có
ba tội bất hiếu thì không con nối dõi là tội nặng nhất); cũng như phong tục của
họ cho rằng, chỉ khi nào thành gia thất, thì lúc bấy giờ mới thành nhân; thì họ
đã hiểu sự kiện hoàn thành sinh mệnh trong mạch văn của sinh sinh bất nghỉ vậy.
Hiểu hoàn tất sinh mệnh
theo nghĩa của thành nhân như trính bày ở trên, chúng ta nhận thấy câu nói của
Khổng Tử "Chưa biết về sự sống, làm sao biết về cái chết"(65) hàm ngụ
một biện chứng sinh tử: sự sinh chỉ có thể hiểu được qua sự tử, và ngược lại,
sự tử chỉ có ý nghĩa trong sự sinh. Biện chứng sinh tử này tiến đến một tổng đề
tức mốt sinh mệnh mới. Hiểu như thế, chúng ta mới có thể xác quyết là câu nói
"Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên"(66) của Khổng Tử không có nghĩa
tin vào định mệnh một cách mù quáng, hoặc mê tín. Ngược lại, nó nói lên bản
tính con người, một bản tính tự tác tạo qua sinh họat "sinh sinh bất
nghỉ"; qua hoạt động sáng tạo giá trị mới. Bởi vì, cho đến tận cùng của
cái đạo tự nhiên, thì thiên và mệnh cùng đều đóng góp vào quá trình của thành
nhân. Thiên và mệnh chính là bản thể, tức yếu tố tất nhiên của sự thành nhân.
5. Tạm Kết: Suy tư về mạt thế luận
Qua những phân tích về
cái chết và sự sống trong tư tưởng cũa Khổng Tử, chúng tôi đi đến một giả
thuyết về một nền mạt thế luận như sau:
Thứ nhất, nếu hiểu mạt
thế theo ngôn ngữ của thần học Tây phương (67), thì Nho học chưa có một nền mạt
thế luận. Bởi vì tuy nho gia không gạt bỏ một thế giới về sau, nhưng không dễ
chấp nhận một thế giới hoàn toàn ngoại tại. Thiên, Ðế, thần, thánh.không phải
là những thực thể ngoại tại, song nội tại. Thiên, Ðế, thần đều siêu việt; song
siêu việt này mang tính viễn việt như thường thấy trong thế giới đạo đức, hay
trong lịch sử tiến hóa của nhân loại. Do đó quan niệm trường sinh không mang
nghĩa một cuộc sống vĩnh cửu trong Lạc Viên, song một tiến trình bất tận của
sáng tạo, phát sinh sinh mệnh mới. Hiểu như vậy, tính chất bi đát của sự chết
không phải do tự cái chết, song do tính chất tuyệt mệnh, tức không còn sinh
nữa.
Thứ hai, nếu mạt thế luận
hiểu theo nguyên nghĩa của ?????????mà một trong những ý nghĩa của nó là niềm
hy vọng vào một thế giới viên mãn mai sau, thì chúng ta có thể nói, Nho giáo
cũng có một nền mạt thế luận. Thế giới mà nho gia mong đợi là một thế giới của
thánh nhân, của người quân tử. Thánh nhân không có nghĩa của "thánh"
(sanctus) trong Thần học, tức một người được diễm phúc gần (về) với Thượng Ðế;
hay được nâng lên gần Người, nhờ vào những bí tích (sanctificatus, beatificatus).
Thánh nhân trong Nho giáo nói lên một bậc thành nhân; một người đạt đến cái
thiện; một người có đủ khả năng nối kết trời với đấ (68)t. Thánh ( ), theo ngữ
cấu, cũng nói lên một con người thấu lý, cái lý của trời, cái lý của đất, cái
lý của người. Thánh nhân biết nghe điều phải nghe, nói điều phài nói; đólà nghe
và nói lên cái đạo lý của trời, đất và con người. Thánh nhân là con người
"đứng giữa", theo đúng nghĩa của Trung Dung :"không nghiêng,
không lệch, không phiên"(69). Ðó chính là con người đứng giữa trời và đất
vậy.
Trở về Mục Lục Trang Triết Học
Chú Thích
(1) Trong Luận Ngữ, có tất cả quãng 5 lần Khổng Tử nói
một cách riêng về sự chết, song ngài từ chối không bàn thêm khi Tử Lộ hỏi về sự
chết: "Chưa biết về sự sống, làm sao mà bàn về cái chết". Luận Ngữ,
11:11. Nhưng trong toàn Luận Ngữ, ngài nhắc tới cái chết 38 lần, liên quan tới
chiến tranh, sự sống, đạo đức, vân vân. Xin xem Dương Bách Tuấn, Luận Ngữ Dịch
Chú, (Bắc Kinh, Trung Hoa Thư Cục, 1962). Trong tập sách này, tác giả thêm phần
"Luận Ngữ Từ Ðiển", và thống kê các tiết mục quan trọng trong Luận
Ngữ.
(2) Xin tham khảo Phan Bội Châu, Khổng Học Ðăng, Tòan tập, (Huế, Thuận Hóa, 1990);
Trần Trọng Kim, Nho Giáo (Hà Nội, 1947; Bộ Giáo Dục tái bản tại Sài Gòn, 1971);
Kim Ðịnh, Cửa Khổng (Sài Gòn, 1963); Nguyễn Ðăng Thục, Lịch Sử Triết Học Ðông
Phương (Sài Gòn, 1957 và tiếp theo); Giản Chi & Nguyễn Hiến Lê, Giản Lược
Triết Học Trung Hoa, (Sài Gòn, 1973, tái bản tại hải ngoại), vân vân.
(3) Xin xem các tác phẩm của Trần Văn Giàu, Sự Phát triển của Tư tưởng ở Việt
Nam từ Thề kỷ 19 đến Cách mạng Tháng Tám, (Hà Nội, Nhà Xuất bản Khoa Học Xã
Hội, tập 1, 1973, tập 2, 1975); Vũ Khiêu (chủ biên), Nho Giáo Xưa và Nay (Hà
Nội, Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1990); Nguyễn Khắc Viện, Bàn về Ðạo Nho (Hà
Nội, Nhà Xuất bản Thế Giới, 1993), vân vân.
(4) Thí dụ một số học giả trước thập niên 1980, bao gồm cả Nguyễn Khắc Viện,
Trần Văn Giàu, Vũ Khiêu. Tại Trung Hoa, các học trương biện chứng duy vật của
Trương Ðại Niên: "Phương pháp Chủ nghĩa đích Nguy cơ - Biện chứng pháp
đích ngụy Khoa học tính", bài tham luận trong Hội nghị về Triết Học của
Trung Hoa, (Ðại Học Bắc Kinh, 9.1995). Giáo sư họ Trương, người cùng thời với
Phùng Hữu Lan và Hồ Thích, đã đọc bài diễn văn về tính chất khoa học ưu việt
của biện chứng duy vật trong buổi khai mạc. Trong bài tham luận tổng kết bế
mạc, chúng tôi phê bình tính chất thiếu khoa học của biện chứng pháp. Chúng tôi
cũng cực lực vạch ra những sai lầm của phương pháp này trong các luận văn khác
như: Trần Văn Ðoàn, "The Dialectic of Violence", trong Philosophical
Review (No. 21, 1997, National Taiwan University), và Trần Văn Ðoàn, "Die
Logik der Herrschaft", trong Jahrbuch der Sozialwissenschaften, (Linz
Universitat, Austria, 1998).
(4) Về vấn đề này, chúng tôi đã bàn đến trong một tiểu luận khác: "Is
Chinese Humanism Atheistic?", in trong Proceedings of the International
Conference in Commemoration of Matteo Ricci's 400 Years in China (Ðài Bắc,
1983); bản Ðức ngữ trong Religionswissenschaftsforschung (Ðại học Bonn, 1985);
bản Hoa ngữ trong Tập san Triết Học dữ Văn Hóa (Ðài Bắc, 1984).
(4) Xin xem Trần Trọng Kim, Nho Giáo, (Sài Gòn, Tân Việt, 1957 (tái bản), tr.
41. Cũng xin xem thêm tiểu luận của chúng tôi: Trần Văn Ðoàn, "Towards a
Viet-Theology" (1996); bản Việt ngữ trong Ðịnh Hướng, số 13 (Reichstett,
1997); và Trần Văn Ðoàn, "Một Suy Tư Thần Học", trong Dân Chúa (New
Orleans, 1983.11).
Trong bài "Towards a Viet-Theology", có tính chất đại cương này,
chúng tôi vạch ra những khác biệt giữa hai nền thần học, và chủ trương đối
tượng của Thần học không phải là chính Thượng Ðế (bởi vì chúng ta không thể
lấy, hay coi, hay đem, hay đặt Người như một đối tượng để nghiên cứu. Người vô hình,
vô tượng, vô thanh, vô sú, vươt khỏi lãnh vực tri thức thường tình. Thần học
không giống các khoa học khác: sinh vật học là cái học về sinh vật; vật lý học
nghiên cứu về thế giới vật chất.Song thần học không phài là môn học nghiên cứu
Thượng Ðế. Ngược lại, đối tượng của thần học chính là làm thế nào con người cảm
nghiệm sự hiện hữu của Ðấng Tối thượng; làm sao mà con người nhận thức được sự
kiện "thiên nhân tương dữ"; làm sao để có thể hiệp thông với thần
linh; làm sao có thể thành thánh, vân vângiả của Hàn Lâm Viện Trung Hoa tại Bắc
Kinh, và cả Trương Ðại Niên của Ðại học Bắc Kinh. Xin xem bài trả lời của chúng
tôi về chủ trương biện chứng duy vật của Trương Ðại Niên: "Phương pháp Chủ
nghĩa đích Nguy cơ - Biện chứng pháp đích ngụy Khoa học tính", bài tham
luận trong Hội nghị về Triết Học của Trung Hoa, (Ðại Học Bắc Kinh, 9.1995).
Giáo sư họ Trương, người cùng thời với Phùng Hữu Lan và Hồ Thích, đã đọc bài
diễn văn về tính chất khoa học ưu việt của biện chứng duy vật trong buổi khai
mạc. Trong bài tham luận tổng kết bế mạc, chúng tôi phê bình tính chất thiếu
khoa học của biện chứng pháp. Chúng tôi cũng cực lực vạch ra những sai lầm của
phương pháp này trong các luận văn khác như: Trần Văn Ðoàn, "The Dialectic
of Violence", trong Philosophical Review (No. 21, 1997, National Taiwan
University), và Trần Văn Ðoàn, "Die Logik der Herrschaft", trong
Jahrbuch der Sozialwissenschaften, (Linz Universitat, Austria, 1998).
(5) Về vấn đề này, chúng tôi đã bàn đến trong một tiểu luận khác: "Is
Chinese Humanism Atheistic?", in trong Proceedings of the International
Conference in Commemoration of Matteo Ricci's 400 Years in China (Ðài Bắc,
1983); bản Ðức ngữ trong Religionswissenschaftsforschung (Ðại học Bonn, 1985);
bản Hoa ngữ trong Tập san Triết Học dữ Văn Hóa (Ðài Bắc, 1984).
(6) Xin xem Trần Trọng Kim, Nho Giáo, (Sài Gòn, Tân Việt, 1957 (tái bản), tr.
41. Cũng xin xem thêm tiểu luận của chúng tôi: Trần Văn Ðoàn, "Towards a
Viet-Theology" (1996); bản Việt ngữ trong Ðịnh Hướng, số 13 (Reichstett,
1997); và Trần Văn Ðoàn, "Một Suy Tư Thần Học", trong Dân Chúa (New
Orleans, 1983.11).
(7) Trong bài "Towards a Viet-Theology", có tính chất đại cương này,
chúng tôi vạch ra những khác biệt giữa hai nền thần học, và chủ trương đối
tượng của Thần học không phải là chính Thượng Ðế (bởi vì chúng ta không thể
lấy, hay coi, hay đem, hay đặt Người như một đối tượng để nghiên cứu. Người vô
hình, vô tượng, vô thanh, vô sú, vươt khỏi lãnh vực tri thức thường tình. Thần
học không giống các khoa học khác: sinh vật học là cái học về sinh vật; vật lý
học nghiên cứu về thế giới vật chất.Song thần học không phài là môn học nghiên
cứu Thượng Ðế. Ngược lại, đối tượng của thần học chính là làm thế nào con người
cảm nghiệm sự hiện hữu của Ðấng Tối thượng; làm sao mà con người nhận thức được
sự kiện "thiên nhân tương dữ"; làm sao để có thể hiệp thông với thần
linh; làm sao có thể thành thánh, vân vân.
(8) Kinh Thi: "Hòang hỹ Thượng Ðế, lâm hạ hữu hách, giám quan tứ phương,
cầu dân chi mạc". Trần Trọng Kim dịch: "Ðức Thượng Ðế rất lớn, soi
xuống dưới rất rõ ràng, xem xét bốn phương để tìm sự khốn khổ của dân mà cứ
giúp." Trần Trọng Kim, sđd., tr. 38. (9) Trần Trọng Kim, sđd., phần 1.
(10) Phùng Hữu Lan, Trung Quốc Triết Học Sử, (Bắc Kinh, Nhân Dân Xuất bản xã,
1988), thượng tập, tr. 7-18. Xin tham khảo Chan Wing-tsit (Trần Vinh Kết), A
Source Book in Chinese Philosophy, (New Jersey, Princeton University Press,
1963), tr. 3.
(11) Chú ý là tổ tiên nơi đây không có nghĩa "tổ của con người là
tiên" như một số học gỉa, nhất là các nhà nghiên cứu văn hóa Việt gần đây
hay hiện nay như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, hay Trần Ngọc Thêm (trong tác
phẩm Những Nét Căn Bản của Văn Hóa Việt Nam, Tp. HCM: Nhà Xuất bản Trung Tâm
Khoa Học Xã Hội, 1998) hiểu nhầm. Các nhà nghiên cứu trên nhầm chữ tiên trong
mạch văn "con rồng cháu tiên" với tổ tiên. Thực ra, Tổ có nghĩa là
cội nguồn, gốc lõi. Tiên có nghĩa là đi trước, có trước. Tổ tiên do đó mang
nghĩa "những người có trước" hay "tiền nhân". Trong ngôn
ngữ bình dân, chúng ta còn gọi tổ tiên là ông bà, và đạo tổ tiên là đạo ông bà
(the cult of ancestors, le culte des ancetres).
(12) Lễ Ký, Khúc Lễ hạ: "Thiên tử tế thiên địa, tế tứ phương, tế sơn
xuyên, tế ngũ tự; chư hầu phương tự, tế ngũ tự, đại phu tế ngũ tự; sỹ tế kỳ
tiên."
(13) Trần Trọng Kim, sđd. tr. 38, chú thích 8. Hoặc "Trời sinh ra dân, có
hình phép, dân giữ tính thường, muốn có đức tốt.". Trần Trọng Kim, sđd.,
tr. 40.
(14) Xin xem thêm các biên khảo (Hoa ngữ) của Lý Chấn, Nhân dữ Thượng Ðế, sáu
tập, (Ðài bắc, Phụ Nhân Ðại Học Xuất bản xã, 1986-1995); cũng như các biên khảo
của Phó Bội Vinh, Nho Ðạo Thiên Luận Phát Uy, (Ðài Bắc, Lý Minh Xuất bản xã,
1988); Lý Ðỗ, Trung Ngoại Thiên Quan Niệm Nghiên Cứu, (Ðài Bắc, Thương Vụ Xuất
bản xã, 1982). Cũng xin xem thêm Trần Văn Ðòan, "Thiên Nhân Tương Dữ - Lý
Chấn Anh đích Thần Học Luận Biện", trong Lý Chấn Anh Thất Thập Niên, phát
biểu tại Ðại Học Nam Khai, Thiên Kinh tháng 9. 1999; in trong Tập san Triết Học
dữ Văn Hóa, số 305, (Ðài Bắc, 10. 1999).
(15) Hồ Thích, Trung Quốc Triết Học Sử, bản dịch của Huỳnh Minh Ðức, (Sài Gòn,
Khai Trí, 1970), tr. 740.
(16) Luận Ngữ, 11:11.
(17) Luận Ngữ, 15:28: "Chính con người mới làm cho Ðạo vĩ đại, chứ không
phải Ðạo làm con người to lớn".
(18) Luận Ngữ, 16:8: "Người quân tử luôn kính trọng ba sự việc. Ông vâng
theo thiên mệnh; ông kính trọng đại nhân; và ông nghe theo lời chỉ dậy của
thượng (thánh) nhân."
(19) Người Nhật dịch religio ra tông giáo. Vào cuối thế kỷ 19, người Tầu phiên
âm từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ. Chú ý là chữ tông giáo viết hoàn tòan giống nhau
trong Nhật ngữ, Hoa ngữ và Việt hán. Xin xem Hans Kung & Julia Ching,
Christentum und chinesische religion (Munchen, Piper, 1988), tr. 29. Tại Việt
Nam, chúng ta thường dùng danh từ tôn giáo. Tôn thực ra chỉ là một phát âm trại
từ tông. Song chữ tôn dễ bị hiểu lầm. Theo lối phát âm Việt hán, tôn tuy phát
âm giống nhau, song viết khác nhau, thế nên mang nhiều nghĩa khác biệt. Tôn là
ông tổ thứ hai sau nguyên tổ (tổ tôn, hay tổ tông); tôn cũng có nghĩa như cháu
(đích tôn), sự kính trọng (tâng kính, hay tôn kính), con khỉ (Tôn Ngộ Không),
một thứ cỏ thơm, chai đựng rươụ, vân vân. Xin xem Hán Việt Từ Ðiển của Nguyễn
Văn Khôn (Sài Gòn, Khai Trí, 1960).
(20) Nobert Schiffers, "Religion", trong Sacramententum Mundi
(Herder, Munich, 1970), tập. 5, tr. 247: "'Tôn giáo' từ La ngữ religio
biểu tả hành vi tôn giáo; 3 động từ relegere, religari va re-eligere có lẽ là
những biến dạng của religio. Religere có nghĩa "luôn hướng về" hoặc
'thành tâm tôn giữ". Religari có lẽ mang nghĩa "tự ràng buộc
với" cội nguồn và mục đích của mình. Sau cùng, bởi vì con người sống trong
sự quên lãng (một cách) lỗi lầm về cội nguồn cũng như mục đích của mình, thế
nên hắn có thể "chọn lựa một lần nữa" cách sống tôn giáo theo cội
nguồn và mục đích của mình (reeligere)". Cũng xin tham khảo thêm: Emil
Brunner, Philosophy of Religion, (1958); J. de Vries, The Study of Religion
(1967); Bernhard Welte, Auf der Spur des Ewigen (1965);
(21) Xin xem Dịch kinh, hay Ðạo Ðức kinh, chương 52 : "Thiên hạ hữu thủy,
dĩ vi thiên hạ mẫu. Ký đắc kỳ mẫu, dĩ tri kỳ tử; ký tri kỳ tử, phục thủ kỳ mẫu,
một thân bất đãi." Dựa theo bản văn của Dư Bạn Lâm (chú thích), (Ðài Bắc,
Tam Dân Thư cục, 1973). Bản Việt ngữ của Hạo Nhiên Nghiêm Tỏan, (Sài Gòn, Khai
Trí, 1973). Chú ý là cách chấm, phết của Nghiêm Tỏan có phần khác với bản văn
của các học giả Trung Hoa.
(22) Xin xem, Phùng Hữu Lan, Trung Quốc Triết Học Sử, sđd. Thượng tập, tr.
20-29.
(23) Xin xem Phó Bội Vinh, Nho Ðạo Thiên Luận Phái Uy, sđd., tr. 1-60.
(24) Xin xem, Lý Chấn Anh, Nhân dữ Thượng Ðế, tập 5, sđd, tr. 7.
(25) Nơi đây chúng tôi chỉ xin nhắc đến vài tác phẩm tiêu biểu của Phương Ðông
Mỹ, La Quang và Ðường Quân Nghĩa như: Thome Fang (Phương Ðông Mỹ), Chinese
Philosophy: Its Spirit and Its Development, (Taipei, Linking Publishing
Compagny, 1981), tr. 37-81; Ðường Quân Nghĩa, Trung Quốc Triết Học đích Tinh
Thần, (Ðài Bắc, Thương Vụ, 1978); chương 1; La Quang, Nho Gia Hình Thượng Học,
(Ðài Bắc, Phụ Nhân Ðại học Xuất bản xã), chương 6, tr. 211-237.
(26) Xin xem Hồ Hậu Tuyển, Lễ Thị Nghiện Cứu, (Ðài Bắc, 1959), Số 9 và 10, tr.
24-25. (27) Toại Nhân, Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Hòang Ðế, Thiếu Hạo, Chuyên
Húc, Nghiêu, Thuấn.
(28) Phùng Hữu Lan, Trung Quốc Triết Học Sử, 1. 12-29; Lão Tư Quang, Trung Quốc
Triết Học Sử, (Hương Cảng, Ðại học Trung Văn), 1968., Tập 1, tr. 14-18.
(29) Kinh Thương tụng, IV, 3,3; Kinh Chu tụng, IV, 1,6.
(30) Kinh Ðại á; III, 1,2.
(31) Xin xem thêm Phó Bội Vinh (Fu Pei-jung), Communication between
Confucianism and Christianity, (Taipei, Yeh-Chyang, 1988), tr. 74-80, chú thích
1.
(32) Hồ Thích khi bàn đến sự suy đồi của triết học Trung quốc, ông vạch ra bốn
tội chính: (1) chủ nghĩa danh học hoài nghi; (2) chủ nghĩa công dụng; (3) chủ
nghĩa nhất tôn chuyên chế; và (4) sự mê tín của phái phương sĩ. Trung Quốc
Triết Học Sử, sđd., tr. 728-729. Bàn về sự mê tín, ông cho rằng quan niệm thiên
tử giữ một vai trò then chốt: "Những điều mê tín trên có thể xem như là
một quốc giáo đối vơi Trung quốc cổ đại. Vị giáo chủ của quốc giáo đó là 'thiên
tử'." tr. 741.
(33) Chan Wing-tsit, A Source Book in Chinese Philosophy, sđd., tr. 16.
(34) Lễ Ký, 21: 9.6; hoặc Lễ Ký, 24:10 :"Phản cổ phục thỉ dĩ hậu kỳ bổn,
bất vong kỳ sở do sinh dã; hoặc 26:11.
(35) Luận Ngữ, 5:12.
(36) Quỷ thần kính nhi viễn chi, Luận Ngữ, 6:20.
(37) Luận Ngữ, 15:28.
(38) Chan Wing-tsit, A Source Book in Chinese Philosophy, sđd., tr. 16-17. Hoặc
Thome Fang, sđd, tr. 71. Hồ Thích nhận định (một cách sai lầm) như sau:"
Lão Tử là người đầu tiên đề xướng quan niệm thiên đạo vô vi để đả phá tư tưởng
mê tín về thượng đế. Từ đó về sau quan niệm thiên đạo của ông dần dần trở thành
quan niệm chính của "Triết học tự nhiên" Trung quốc. Khổng Tử và Tuân
Tử đều chịu ảnh hưởng của quan niệm này, vì thế mà tinh thần chống đối mê tín
lên rất cao.", sđd. tr. 740.
(39) Chu Hy viết: "Cùng lý là muốn biết cái sở dĩ nhiên của sự vật với cái
sở đương nhiên của sự vật mà thôi. Biết cái sở dĩ nhiên cho nên cái chí không
hoặc, biết cái sở đương nhiên cho nên việc làm không lầm." Trích từ Trần
Trọng Kim, sđd., Hạ tập, tr. 165.
(40) Xin xem Dương Bách Tuấn, Luận Ngữ Dịch Chú, sđd. Trong tập sách này, tác
giả thêm phần "Luận Ngữ Từ Ðiển", và thống kê các tiết mục quan trọng
trong Luận Ngữ.
(41) Phó Bội Vinh hiện là Giáo sư về Nho học tại Ðại học Quốc gia Ðài Loan và
Giáo sư Giảng tọa môn Hán học tại Ðại học Leiden, Hòa Lan. Ong cũng từng là
Giáo sư Khách tọa tại Ðại học Louvain, và là tác giả trên 60 tập sách về Triết
học và Văn học. Hai tác phẩm đại biểu: The Concept of T'ien in Ancient China
(Yale University 1984) và Luận Ngữ Tân Biên (Ðài Bắc, 1999).
(42) Xin xem Phó Bội Vinh, "Giải Tích Khổng Tử đối Sinh Tử dữ Qủy Thần
đích Khán Pháp". Luận văn phát biểu tại Trung Quốc Triết Học Hội, Ðại học
Quốc gia Ðài Loan, Ðài Bắc, 12.1998. Ngòai ra, cùng một tác giả: Fu Pei-jung,
"Confucius, la vie et la mort. Ame et esprit dans l'Au-delà", trong Paul
Servais, ed. La Mort et l'Au-delà, (Louvain, Academia Bruylant, 1998), tr.
51-72.
(43) Luận Ngữ, 7:13.
(44) Luận Ngữ, 14:16.
(45) Luận Ngữ, 12:7.
(46) Mạnh Tử, Vạn chương, thượng.
(47) Mạnh Tử, Lương Huệ Vương, thượng
(48) Luận Ngữ, 14:43 .
(49) Luận Ngữ, 16:12.
(50) Luận Ngữ, 14:5, khuyên Tử Lộ.
(51) Luận Ngữ, 11:13.
(52) Luận Ngữ, 12:5.
(53) Luận Ngữ, 6:3 than tiếc Nhan Hồi, hay đoạn 6:10 thương Bách Ngưu.
(54) Luận Ngữ, 11:7.
(55) Luận Ngữ, 11:9.
(56) Luận Ngữ, 15:9.
(57) Luận Ngữ, 4:8.
(58) Xin xem Karl Barth, Epistle to the Romans, tr. By E.C. Hoskyns (1933); hay
Dogmatics in Outline (new ed. 1961), và Rudolf Bultmann, Glauben und Verstehen,
4 vols. (1933-1965). Ðể hiểu thêm về Thần học biện chứng, xin tham khảo bộ biên
khảo do Jùrgen Moltmann chủ biên, Anfànge der dialektischen Theologie
(1962-1963).
(59) Tham khảo Soren Kierkegaard, Either- Or.
(60) Xin xem Trần Văn Ðoàn, "Mạt Thế Luận trong Ca Dao Tục Ngữ", Tài
liệu của Viện Triết Học và Tôn GiáoViệt Nam, (Washington D.C, và Los Angeles,
1999).
(61) Ðạo Ðức kinh, chương 52.
(62) Nơi đây, chúng tôi hiểu lịch sử tính theo nghĩa Geschichtlichkeit
(historicity) của Hải Ðức Cách (Martin Heidegger) và Bụt Mân (Rudolf Bultmann),
tức lịch trình hoàn thành của hữu thể (Vollendung des Seins). Hai tác phẩm đại
biểu: Martin Heidegger, Sein und Zeit (1927), bản 11 (Pfullingen, Neske, 1961)
và Rudolf Bultmann, Glauben und Verstehen , sđd.
(63) Ðể phân biệt sứ mệnh (mission) và sử mệnh (Geschichlichkeit), xin tham
khảo Trần Văn Ðoàn, "Chữ Mệnh trong Truyện Kiều", một chương trong
Việt Triết Luận Tập I, của cùng tác giả, sẽ do Nhà Xuất Bản Ðại Học Việt Nam
xuất bản (dự định 1999-2000).
(64) Ðại Học, chương 1.
(65) Luận Ngữ, 11:12
(66) Luận Ngữ, 12:5
Về mạt thế luận, xin tham khảo các luân văn của các giáo sư trong khóa này, như
bài của các giáo sư Phan Ðình Cho, Vũ Kim Chính, Nguyễn Thái Hợp. Chúng tôi
cũng nhắc sơ qua về quan niệm mạt thế trong bài "Mạt Thế Luận trong Ca Dao
Tục Ngữ". Ðại Học, chương 1.
Trung Dung, chương 1.
Trở về Mục Lục Trang Triết Học
Trở Về Trang Nhà