Ði Tìm Một Ðịnh
Nghĩa Về Tôn Giáo
Stephanô Nguyễn Mạnh Khả
Ðây thực ra là một vấn đề
không hề đơn giản và dễ dàng như chúng ta thường nghĩ. Có dễ dàng chăng cho
chính riêng tôi là một định nghĩa về Kitô giáo, hoặc đơn giản hơn, là một định
nghĩa về đạo Công Giáo. Công việc này có lẽ với tôi không khó cho bằng một định
nghĩa chung về tôn giáo. Lý do thật đơn giản là vì bản thân tôi được sinh ra và
lớn lên trong một gia đình Công Giáo. Sự khó khăn trong việc đi tìm một định
nghĩa chung cho hai chữ Tôn Giáo này có lẽ cũng đúng cho trường hợp của một tín
hữu Phật Giáo hoặc Cao Ðài, Hòa Hảo, bởi lẽ cái nhìn của họ về tôn giáo cũng sẽ
bị ảnh hưởng bởi đức tin họ đã được tiếp nhận học hỏi.
Sự kiện nhãn quan của mỗi
người luôn luôn bị uốn nắn, ảnh hưởng bởi tất cả những gì họ lãnh nhận từ bên
ngoài cho ta thấy rõ hai cấu tố tạo thành cuộc sống và cấu trúc suy nghĩ, hành
động của con người. Là một con người, trước hết nửa phần của con người của tôi
được cấu thành như một sản phẩm phát triển thuộc về sinh vật hay thiên nhiên.
Nửa phần kia được tạo nên hay hun đúc bởi những yếu tố đến từ bên ngoài, đó là
môi trường giáo dục, huấn luyện, hay những ảnh hưởng văn hóa. Vì thế để có thể
tìm một định nghĩa chung cho hai chữ tôn giáo, tôi không thể không nhìn nhận
rằng định nghĩa tôi có thể tìm ra được sẽ phản ảnh phần nào bởi chính động lực
tự nhiên tiềm tàng sẵn có trong con người tôi hoặc bởi chính những tư tưởng,
hoạt động, hay cái nhìn tôi đã thu nhận được trong quá trình học hỏi, hoặc có
thể bởI cả hai yếu tố trên. Bởi vậy, nỗ lực tìm một định nghĩa tổng quát về tôn
giáo trong bài viết này sẽ là một cuộc khảo sát về bản chất của tôn giáo như là
một động lực thúc đẩy tự nhiên sẵn có trong thâm tâm mỗi con người, hay tôn
giáo như một yếu tố con người tiếp thu từ bên ngoài do nhu cầu cá nhân hay tập
thể thúc đẩy.
Như một yếu tố phát xuất
từ bên trong tâm hồn con người mà chúng ta có thể gọi là sự kiện tiền nghiệm
(1), chúng ta có thể tự hỏi sự hiện diện của tôn giáo có thể được coi là một sự
kiện gắn liền với bản chất của con người và tự phát dưới hình thái của một niềm
tin thiêng liêng, những nghi lễ, những quy tắc luân lý, và cả dưới hình thức
hội họp chung của cộng đoàn không? Và tôn giáo có phải là một cảm tính, một
trực nghiệm, một hình ảnh, hay một ý tưởng phát xuất từ trong tâm tính tự nhiên
của con người hay không? Ðể câu trả lời có thể đi sát với thực tại của vấn đề
theo nhận định chung của mọi người, chúng ta phải nhận định rằng tôn giáo bắt
nguồn từ bản chất của con người như môt động lực vô định hình luôn thúc đẩy con
người đi tìm một sự giải thích hay một ý nghĩa cho sự hiện hữu của mình giữa vũ
trụ vạn vật và trong tương quan với đồng loại. Cùng hiện diện với động lực này
như mặt thứ hai của một đồng tiền là cảm nhận yếu đuối bất lực phải phụ thuộc
hay nương tựa vào một thực tại siêu việt, một thực tại nằm ngoài tầm với của
con người nhưng lại có một ảnh hưởng bao quát và sâu xa trên sự hiện hữu của
con người.
Thế nhưng có phải tất cả
chúng ta đều đồng ý với nhau rằng tất cả mỗi người trong chúng ta đều cảm nhận
được sự hiện diện của động lực này và nội dung của cảm nhận của mỗi chúng ta
đều giống như nhau. Ðể trả lời chúng ta phải khởi đi từ sự kiện con người là
hữu thể có nhận thức và tự nhận thức được chính mình. Với ý thức hoặc hiểu
biết, con người có thể nhìn ra được điều gì đang xảy ra chung quanh mình, cho
mình, cũng như có thể tự nhìn ra mình là ai, là gì, và mình phải làm gì trong
tương quan với vạn vật và đồng loại. Những tác động đó có thể được coi như
thuần túy nhắm đến mục đích sinh tồn và phát triển: biết người, biết ta, biết
vạn vật là coi như đã biết làm thế nào để đạt được phúc lợi cho mình. Chính
trong quá trình tìm hiểu thế giới bên trong và thế giới bên ngoài như vậy mà
tâm thức và tâm thức phản tỉnh của con người đã tự nghiệm ra và cố gắng tìm câu
trả lời cũng như một sự giải thích cho sự hiện hữu của mình, nguồn gốc, định
mệnh của mình, và cho sự việc phải đối đầu với nghịch cảnh của cuộc đời như đau
khổ, bệnh tật, chết chóc, sự dữ, bất công. Và chỉ khi nào tìm ra được một ý
nghĩa cho cuộc đời, con người mới thực sự can đảm dấn bước trong cuộc hành
trình của cuộc đời với chân giá trị tự đặt định cho mình. Như vậy, con người có
thể được gọi là ''sinh vật biết ban phát ý nghĩạ''(2)
Tuy nhiên, tới đây chúng
ta có thể đặt thêm một câu hỏi là cảm nghiệm về một sự liên hệ với một thực tại
siêu việt có nhất thiết phải là một thành phần nội tại gắn liền với động lực đi
tìm ý nghĩa cho cuộc sống hay không. Ở đây một thực tại siêu việt mang ý nghĩa
của một sự vật, sự việc, một thực thể nào đó vượt trên thế giới giác quan thông
thường của con người, hay một mầu nhiệm siêu nhiên, một đấng thánh thiêng nào
đó.(3) Câu hỏi trên có thể được triển khai thêm với câu khẳng định rằng con
người là loài có ý thức tôn giáọ Như vậy ta có thể nói rằng con người mang sẵn
trong mình ''một khao khát nội tạí' hay ''một khả năng bẩm sinh'' hướng về cảm
nghiệm tôn giáo hay không?(4)
Thực ra phương cách giải
quyết vấn đề theo lối tiền nghiệm khởi đi từ bản chất và nguồn gốc của sự cảm
nghiệm tôn giáo của con người thường đưa đến nhiều tranh cãi nếu cảm nhận đó
được coi như vốn sẵn có từ trong thâm tâm và hiện diện như một cảm tính hay một
động lực thúc đẩy con người đi tìm kiếm và thiết lập liên hệ với một đấng siêu
việt hoặc một sự thánh thiêng nào đó. Dưới cái nhìn của Freud, nhu cầu đi tìm ý
nghĩa cho cuộc đời nơi con người có thể là một nhu cầu căn cơ có thật và tiềm
tàng nơi bản chất của con người. Nhưng hình ảnh hoặc ý niệm của một đấng siêu
nhiên hoặc của một vị thần thánh vẫn chỉ là một lựa chọn hay một ảo tưởng được tạo
ra như sản phẩm của những suy nghĩ mang tính chất ước ao mơ mộng của con nít.
Ðối với Marx, tôn giáo hiểu như là một sự cổ võ cho sự lệ thuộc hoặc sự hoàn
toàn hướng về đời sau, tác động như một thứ thuốc phiện ru ngủ sự phấn đấu của
con người. Bị đặt trong hoàn cảnh bất lực, con người thường tự tạo ra cho chính
mình những ảo ảnh thiêng liêng về một đấng thần thiêng và rồi chạy đến cầu khẩn
xin trợ giúp với tác phẩm tưởng tượng đó của mình. Ngoài ra, có thể sẽ có không
ít người không hề cảm nhận thấy một nhu cầu nội tại nào cần phải có một liên hệ
với một đấng thiêng liêng nào cả, tuy họ vẫn cảm nhận thấy có một động lực thúc
đẩy trong con người của họ để đi tìm ý nghĩa cho cuộc sống nếu họ không muốn
thấy mình phải đương đầu với sự đe dọa bị bơ vơ lạc lõng trong cuộc đời. Ðối
với những người này, tiền bạc, thú vui, danh vọng rất dễ dàng biến thành những
ngọn nguồn trao ban ý nghĩa hoặc đặt định mục đích cho cuộc sống của họ.
Những khó khăn mà chúng
ta gặp phải trong nỗ lực đi tìm một lời giải thích cho sự cảm nhận tôn giáo
tiền nghiệm về một nhu cầu liên hệ với đấng thiêng liêng đòi hỏi chúng ta phải
tìm đến một phương cách khác. Phương cách này không gì khác hơn là sự giải
quyết vấn đề dựa vào những cảm nhận hay kinh nghiệm phụ thuộc có nghĩa là những
cảm nhận hay kinh nghiệm đến từ những cảm nhận căn bản hay từ những nhu cầu căn
cơ nhất của con người. Theo hướng giải quyết vấn đề như vậy, chúng ta có thể
khởi đi từ những kinh nghiệm về những hiện tượng tôn giáo xảy ra trong cuộc
sống thực tế của chính chúng tạ Ðể trả lời cho sự chối bỏ sự hiện diện của sự
cảm nhận tôn giáo tại bản chất căn cơ của con người, môt sự chối bỏ được nghiên
cứu và công bố như những định luật khoa học của chủ thuyết vô thần, chủ thuyết
Marxism, chủ thuyết của Freud, chủ thuyết duy khoa học, hay chủ thuyết duy vật,
chúng ta có thể quả quyết rằng sự tồn tại lâu dài và sự thích ứng mau lẹ và hợp
lẽ của tôn giáo đối với những biến đổi của xã hội và văn hoá đã chứng tỏ một
cách mạnh mẽ là cảm nhận tôn giáo phát xuất tự căn nguyên của thân phận con
ngườị(5) Cũng vậy, nếu tôn giáo được coi là một trong những nỗ lực của con
ngưới nhắm đến việc tìm cho được một ý nghĩa cho cuộc sống, thì chắc chắn tôn
giáo phải là nỗ lực kiên cường, bền bỉ, và thỏa đáng nhất khi so sánh với triết
học và khoa học.(6)
Với những suy luận rút ra
từ những khó khăn nêu trên của hai giải pháp tiền nghiệm và suy luận từ kinh
nghiệm, vấn đề nêu ra cho một định nghĩa tổng quát về tôn giáo, như chúng ta
thấy, vẫn là một chuyện nan giải. Lý do thứ nhất của sự khó khăn này là sự vô
định hình của ước muốn căn nguyên của con người trong việc đi tìm một ý nghĩa
cho cuộc sống. Chính với tính vô định hình này mà ước muốn mong tìm ý nghĩa
sống đã có thể được thể hiện, tức là được mặc cho một hình thái, một nội dung
hoàn toàn tùy thuộc vào chủ thể của ước muốn đó. Nói cách khác, đây là vấn đề
của một ước muốn, một cảm nhận được theo đuổi bằng nhiều cách khác biệt và do
đó sẽ được cắt nghĩa đôi khi tương phản lẫn nhau. Như đã trình bày ở trên, tôn
giáo cũng chỉ được coi là một trong những nỗ lực hoặc câu trả lời dù là câu trả
lời thỏa đáng cho ước vọng nàỵ Và vì thế ước muốn đi tìm ý nghĩa cho cuộc sống
vẫn không được coi là yếu tố duy nhất thuộc về tôn giáo, có nghĩa là không phải
chỉ nơi tôn giáo người ta mới thấy có niềm ước vọng nàỵ Lý do khó khăn thứ hai
hệ tại nơi sự bất đồng ý kiến về bản chất nội tại của hướng vọng của con người
đối với một đấng siêu việt hay một thực tại thần thiêng. Tuy nhiên chúng ta vẫn
không thể đi ra ngoài khuôn khổ của hai ước vọng căn bản đó của con người trong
việc đi tìm một định nghĩa tổng quát cho vấn đề tôn giáo. Và nếu chúng ta muốn
giảm thiểu tối đa những trở ngại khó khăn căn bản, phương cách giải quyết của
chúng ta sẽ phải là những suy luận từ kinh nghiệm đến từ những sự thể hiện phụ
thuộc của những cảm nhận căn nguyên. Từ tiền đề trên, chúng ta có thể đề ra hai
đường lối hay hai cách thức để định nghĩa hai chữ tôn giáo.
Trọng tâm thứ nhất liên
quan đến nhu cầu căn bản của con người hướng về ý nghĩa của cuộc sống và một
lời giải thích cho những vấn nạn của đời người. Chúng ta có thể gọi cách thức
này là cách thức định nghĩa dựa theo những chức năng của tôn giáọ Ðặt qua một
bên yếu tố căn bản nhất của tôn giáo, yếu tố được coi như căn nguyên hình thành
của tôn giáo, đó là sự liên quan đến đấng siêu việt hay một thực tại siêu
nhiên, có lẽ chúng ta sẽ chú ý ngay đến những nhiệm vụ của tôn giáo trong việc
đáp ứng với nhu cầu tìm lời giải thích cho sự hiện hữu của con người; nói cách
khác, chúng ta đang đề cập đến cứu cánh của tôn giáo để từ đó có thể đi đến một
định nghĩa xác hợp cho vấn đề tôn giáo.
Theo ý nghĩa trên, tôn
giáo được coi như một phương tiện hay một môi trường mà nhờ đó con người có thể
tìm ra được ''một hệ thống biểu trưng'' để xử dụng như một sơ đồ hoạch định cho
việc tìm hiểu về thế giới vũ trụ.(7) Tôn giáo, như Paul Tillich đã định nghĩa,
là ''sự quan tâm chủ yếu cuối cùng theo nghĩa rộng nhất và cơ bản nhất của từ
ngữ.''(8) Như vậy, với một cái nhìn tinh tế và bao quát nhất về tôn giáo theo
quan niệm tôn giáo là một câu trả lời cho công cuộc truy tầm ý nghĩa sống của
con người, tôn giáo được coi là một hệ thống chuyên chở ý nghĩa nhằm đáp ứng
mọi nhu cầu tri thức, tình cảm, và xã hội của con người. Như Roger Schmidt đã
vạch ra, nhiệm vụ tri thức của tôn giáo là cung cấp cho con người một lời giải
thích về ''căn nguyên và sự vận hành của vạn vật.''(9) Dưới cái nhìn mang tính
cách vũ trụ học và thần học của tôn giáo, con người hy vọng có thể tìm ra được
vị thế hay chỗ đứng của mình trong vũ trụ cùng với định mệnh của mình trong cuộc
đờị Mang hình thái của những tín lý, giáo lý, hay niềm tin, tôn giáo là câu trả
lời cho trí óc tìm tòi học hỏi, khao khát hiểu biết của con người về chính
mình, về người khác, và về vũ trụ. Thêm vào những niềm tin hay những tri thức
này, những sinh hoạt nghi lễ, phụng vụ và những cuộc tạo dựng hay nhóm họp cộng
đồng mang lại sự trợ giúp cho con người trong việc bày tỏ, phát biểu, diễn tả
những cảm xúc của mình trong việc đối đầu với những vấn nạn của của cuộc đời
như đau khổ, lo lắng, sợ hãi, buồn phiền, hay vui mừng.(10) Cũng vậy, khung
cảnh sinh hoạt mang tính cách xã hội của tôn giáo đã góp phần không ít vào sự
ổn định và điều hòa xã hội nhờ việc đem đến cho cá nhân con người một ý nghĩa
sâu xa của sư tương giao với người khác, một căn tính mà cá nhân con người cảm
thấy có nhiều giá trị, và một nền luân lý giúp con người sống trổi vượt hơn vạn
vật vũ trụ. Thật vậy, trong khung cảnh sinh hoạt hợp quần này, cộng đồng tôn
giáo hoạt động như một nguồn trợ lực và khuyến khích thúc đẩy đối với mỗi cá
nhân bằng những hoạt động như chia sẻ cùng một niềm tin hay thi hành cùng một
nghi lễ tôn giáo.(11)
Tuy nhiên, sự khó khăn
tồn đọng trong định nghĩa dựa vào chức năng tôn giáo, như đã nói ở những phần
trên, phát sinh từ tính vô định hình hay tính bao quát của tôn giáo. Nói cách
khác, định nghĩa theo phương pháp dựa trên chức năng của tôn giáo đã vô hình
trung bao gồm quá nhiều hiện tượng và tình huống sinh hoạt xã hội của con người
đến mức trở thành quá rộng rãi và mơ hồ. Mức độ bao quát này cho phép chúng ta có
thể nói rằng dựa trên chức năng nhằm tìm ra ý nghĩa cuộc sống, bất kỳ nỗ lực
hay công trình nào của con người cũng đều có thể dễ dàng được xếp chung vào
cùng một phạm trù với tôn giáo. Triết học chắc chắn cũng sẽ được coi như là một
cố gắng của con người nhắm tới mục đích cắt nghĩa ''căn nguyên và sự vận hành
của vạn vật.'' Khoa học sẽ là một quyết tâm khác với cùng một trọng tâm là mang
lại ý nghĩa cho tất cả mọi biến cố xảy ra chung quanh chúng ta và ngay trong
chính con người chúng ta. Như một ví dụ, chủ nghĩa Marxism, một chủ thuyết vô
thần, đã có thể lôi cuốn được rất nhiều người bởi việc đã đem lại cho họ một
viễn ảnh của nguồn gốc và định mệnh con người cũng như đã tạo cho họ một cơ
hội, một môi trường giúp họ nói lên được những uất ức đối kháng với thực tại
chung quanh, một cách thức để hành xử, và hơn nữa đã tạo dựng cho họ một sự kết
đoàn cần thiết cho nhu cầu quan trọng của cá nhân con ngườI, đó là nhu cầu cần
có một căn tính mang nhiều ý nghĩa và một niềm tin vào chân lý tự tìm ra và
theo đuổi. Suy luận tới đây, chúng ta có thể nhận ra được sự liên hệ mật thiết
giữa yếu tố kế tiếp, là yếu tố của sự liên quan của con người với đấng siêu
việt, và yếu tố của động lực đi tìm ý nghĩa sống. Yếu tố thứ hai kể trên là
điều kiện ắt có, và yếu tố thứ nhất là điều kiện đủ cho một định nghĩa tổng
quát về tôn giáo.
Thực vậy, chúng ta phải
tự hỏi rằng làm cách nào chúng ta có thể phân biệt được sự khác biệt giữa nỗ
lực mang tính cách tôn giáo và nỗ lực mang những tính cách không tôn giáo trong
vấn nạn của sự hiện hữu của con người. Bởi lẽ chủ thuyết Marxism, là một ý thức
hệ trần tục hay một vũ trụ quan vô thần, vẫn có thể dễ dàng hoạt động với tư
cách một tôn giáo. Do đó chúng ta sẽ thấy yếu tố của sự liên quan đến đấng siêu
việt đóng một vai trò thiết yếu cho việc phân biệt nói trên. Ðặt qua một bên
điểm bất đồng còn tồn tại về thực chất của cảm nhận căn nguyên của con người
hướng về đấng siêu việt, chúng ta có thể đi đến một định nghĩa rõ nét và chủ
yếu hơn về tôn giáo, một định nghĩa làm nổi bật nét đặc thù của tôn giáo. Nét
đặc thù đó không gì khác hơn là chiều kích vươn cao của con người theo hướng
thẳng đứng trong liên quan giữa con người và đấng siêu việt như vẫn được đề cập
tới ở các phần trên. Chiều kích này được diễn tả đầy đủ trong định nghĩa của
Luther về tôn giáo: tôn giáo là''một mầu nhiệm vĩ đại và cuốn hút'' đối với con
người (mysterium tremendum et fascinans).(12) Hoặc như Edward B. Tylor đã nhấn
mạnh, trung tâm điểm của tôn giáo nằm ở ''niềm tin vào những Hữu Thể Thiêng
Liêng.'' (13)
Thế nhưng vấn đề được đặt
ra đối với cách định nghĩa trên là quan điểm nhị nguyên tiềm tàng trong việc
đặt định thực tại ra làm hai, nhân bản và thần thiêng.(14) Quan điểm này còn
dẫn tới sự bế tắc của việc áp dụng chung định nghĩa trên cho cả hai truyền
thống hữu thần và phi thần (theistic and non-theistic).(15) Khó khăn thứ nhất
mà chúng ta có thể kiểm nhận được là khó khăn có liên quan đến việc lãnh hội
của một người không cùng một niềm tin hoặc không theo một niềm tin tôn giáo nàọ
Ðối với người trong cuộc, tức ngưới mang niềm tin tôn giáo, thì sự phân đôi
cuộc sống con người hoặc việc đặt để con người vào lãnh vực trần thế và đấng
thiêng liêng vào lãnh vực siêu nhiên có thể hiểu được và được chấp nhận dễ dàng
nhờ niềm tin vào sức mạnh biến đổi của đấng siêu việt hoặc nhờ chức năng hòa
nhập hai thế giới đó của tôn giáọ Nhưng đối với người ngoài cuộc hoặc không
theo niềm tin tôn giáo, thì vấn đề trở nên khó khăn hơn, bởi họ không có cái
nhìn thấm nhiễm niềm tin tôn giáo cũng không cảm nhận được nhịp cầu thông giao
cá nhân giữa con người và đấng siêu nhiên. Thực thế, cảm nhận tôn giáo tác động
như một lăng kính qua đó một cá nhân sẽ luôn nhìn cuộc đời dưới nhãn quan của
sự tương quan với đấng thánh thiêng. Do đó, mọi sự, mọi việc sẽ không thể xuất
hiện tương tự dưới cùng một hình thức và mang cùng một ý nghĩa với người có một
niềm tin tôn giáo và người không theo niềm tin đó. Vấn đề nhị nguyên nếu có
khúc mắc hay chăng là đối với người không mang niềm tin tôn giáo, tuy vậy sự
khúc mắc này lại đưa chúng ta đến khó khăn là sẽ không thể đưa ra được một định
nghĩa chung mà tất cả mọi người có thể dễ dàng chấp nhận và dễ dàng lãnh hội.
Thứ đến đối với sự thiếu
sót của định nghĩa dựa trên yếu tố của sự liên quan đến đấng siêu việt trong
việc loại bỏ truyền thống phi thần như không đủ tiêu chuẩn của một tôn giáo, tỷ
dụ như Khổng Giáo hay Phật Giáo, chúng ta cần phải xác định lại ý nghĩa bao
quát của từ ngữ đấng siêu việt hay thực tại thần linh mà chúng ta đã xử dụng.
Chúng ta thường xử dụng từ ngữ này để chỉ không những một hay nhiều vị thần
thánh có bản vị mà còn để chỉ một thực tại hay một cảnh vực tuy khác nhưng vẫn
có liên hệ đến thực tại chúng ta đang sống. Ý nghĩa bao quát hơn này giúp chúng
ta có thể phân định Khổng Giáo và Phật Giáo vào cùng một định nghĩa của tôn
giáo hiểu như là một con đường, một phương cách để nối liền tương quan giữa
thực tại giác quan của con người và thực tại vượt trên giác quan, mặc dù hai
truyền thống tôn giáo này đều không hề đề cập đến sự lệ thuộc hoàn toàn của con
người vào một hoặc nhiều thực thể thần linh.
Như một vấn nạn tạo ra
bởi yếu tố đặc thù là sự liên quan hay không liên quan đến thần linh, cách thức
định nghĩa trên đã cho thấy những tính cách hạn hẹp, thiếu sót, siêu thực, và
bị giới hạn trong tính cục bộ của lịch sử và văn hóa của một định nghĩa chủ yếu
dựa trên yếu tố của sự tương giao của con người với thần linh. Vì thế, chúng ta
cần phải xử dụng và phối hợp cả hai cách thức định nghĩa dựa trên chức năng và
dựa trên yếu tố của việc liên quan đến thần linh trong nỗ lực đạt đến một quan
điểm chung về tôn giáo, một quan điểm có thể áp dụng rộng rãi có giá trị chung
cho tất cả mọi sinh hoạt có hình thức tôn giáo và do đó sẽ giúp chúng ta thực
hiện dễ dàng công việc liệt kê một cách đầy đủ hơn những thành phần cấu tạo của
tôn giáo.
Thực vậy, những suy luận
nêu trên về một định nghĩa hai mặt về vấn đề tôn giáo đã giúp chúng ta nhận
định được ba chiều kích của sự hiện hữu của con người dưới ánh sáng của sự cảm
nhận của con người đối với thực thể siêu việt: chiều thẳng, chiều ngang hướng ngoại,
và chiều ngang hướng nội. Chiều kích thứ nhất mà chúng ta đề cập đến là tương
quan giữa con người và đấng siêu việt. Ðể có thể đi vào chiều kích này, con
người cần đến sự hoán cải, hoặc mạc khải, hoặc đức tin bằng những phương cách
ngoại tại mang hình thái của tín điều, niềm tin, giáo thuyết, hay thần thoại.
Nghi lễ phụng tự hay những hoạt động mang tính cách biểu trưng khác cũng góp
phần vào việc thiết lập tương quan chiều thẳng này. Những tiêu chuẩn luân lý
thì nhắm đến mục tiêu thanh tẩy hoặc công chính hóa cuộc sống của mỗi cá nhân.
Chiều kích thứ hai của
tôn giáo là tương quan phản tỉnh hàng ngang của cá nhân đối với chính con người
của mình. Cũng thế, dưới ảnh hưởng của tương quan thiết lập giữa con người và
thần linh, cá nhân con người có thể đưa ra xử dụng tất cả những gì lãnh hội
được từ những cảm nghiệm hay những dữ kiện liên quan tới thần thoại, đức tin,
tín lý, đạo đức, hay phụng tự để tạo sự sinh động hay sự tái sinh cho chính
cuộc đời của mình, hay để gợi lên cũng như làm hài hòa tất cả những cảm tính
hay những xúc cảm mà cá nhân con người cần đến hay gặp phải trong cuộc sống.
Chiều kích thứ ba hệ tại nơi cộng đoàn hay tập thể, là môi trường mà trong đó
mỗi cá nhân con người có thể thực hiện mối liên kết với người khác trong tập
thể trên nền tảng của các tiêu chuẩn luân lý đã được đề ra trong tôn giáo của
tập thể đó. Nhờ vào sự thiết lập mối giây liên kết có tính cách tập thể và rập
theo một tiêu luân lý này mà mỗi cá nhân sẽ có thể xác lập được căn tính và vị
trí của mình, và sự xác lập này sẽ giúp cho mỗi cá nhân cảm thấy dễ dàng hơn
khi tiến bước trong hành trình của cuộc đời cùng với tập thể trong sự tương trợ
và tương kính.
Dựa vào những lý luận và
quan sát trên, tôi xin mượn định nghĩa về tôn giáo được đề cập đến trong cuốn
sách nhan đề Sự Truy Tầm Thánh Thiêng -- Một Lời Mời Gọi Học Hỏi Về Tôn Giáo
(The Sacred Quest -- An Invitation to The Study of Religion) để tóm gọn tầm
nhìn của tôi về tôn giáo với bốn yếu tố cấu thành: ''Tôn giáo biểu thị những
cách nhìn về thế giới, và những cách nhìn này (thứ nhất) có đề cập đến một khái
niệm về thực tại thần thiêng (thứ nhì) được thể hiện nơi cảm nhận của con người
(thứ ba) theo một cách thức đưa đến việc tạo nên những đường lối có tác dụng
mạnh mẽ và lâu bền trong cung cách suy nghĩ, cảm xúc, và hành xử (thứ bốn) đối
với những vấn đề của việc nhận biết và trật tự hóa sự hiện hữú'(16). Ngoài ra,
tôi xin thêm vào đó chiều kích thứ ba đã được nói đến trong phần trên để có thể
giúp cho câu định nghĩa của chúng ta được phổ quát hơn: (thứ năm) đó là những
cung cách suy nghĩ, cảm xúc, và hành xử được thực hiện với tư cách cá nhân
trong tương quan và trong môi trường của cộng đồng.
Sau khi đã duyệt xét tất
cả những phương cách giải quyết tiền nhiệm cũng như dựa vào kinh nghiệm nêu
trên, cũng như sau khi đã suy xét về một định nghĩa hai mặt về tôn giáo và kể
cả việc cố gắng đưa ra một danh sách liệt kê những cấu tố chính của tôn giáo, ở
đây tôi đã có thể nói được hay không rằng việc tìm hiểu của tôi về một định
nghĩa tổng quát về tôn giáo dựa trên nghiên cứu cũng như cảm nhận tôn giáo cá
nhân của riêng tôi đã đưa ra được kết quả là một cái nhìn khách quan và phổ
quát về tôn giáo như một người ngoài cuộc không theo một niềm tin tôn giáo nào
hoặc nếu có thì niềm tin của họ hoàn toàn không tương ứng với niềm tin của tôỉ
Hoặc giả ý niệm của tôi về tôn giáo đã có thể nói được rằng đã phát xuất từ cảm
nhận cá nhân riêng tư và chủ quan của tôi cũng như đã từ sự hành đạo của tôi
trong đức tin Công Giáo. Ðặt câu hỏi một cách khác, phải chăng tôi đã chỉ đưa
ra được một hình ảnh về tôn giáo theo đúng nhãn quan của một người trong cuộc
tức là một ngưới có mang một niềm tin tôn giáo.
Câu trả lời sẽ là câu
khẳng định cho câu hỏi thứ hai và thứ ba. Quả thực, định nghĩa sau cùng mà tôi
đã suy luận, biên soạn, và đề nghị đã phản ảnh quá trình sống đạo và những quan
niệm tiên kiến của tôi về tôn giáo. Vấn đề có liên quan đến yếu tố của đấng
siêu việt là một ví dụ điển hình về sự thiên kiến sẵn có từ trong nỗ lực của
tôi trong việc đi tìm một định nghĩa khách quan cho sự kiện tôn giáo. Thực vậy,
tôi tự cảm thấy không thể giải quyết tận căn vấn nạn về chứng cớ của định hướng
tự hữu trong bản tính con người về sự tương quan với đấng thần thánh. Vấn nạn
này có lẽ cần phải đòi hỏi nhiều thời gian hơn cho những cuộc tranh luận và nghiên
cứu triết học và thần học. Thế nên, sự việc tôi đã bỏ qua không giải quyết đến
tận cùng vấn nạn này để đạt tới một định nghĩa cụ thể về tôn giáo phần nào đã
chứng tỏ sự kiện tôi luôn sẵn sàng và dễ dàng chấp nhận không cần suy xét cặn
kẽ những điều kiện của sự hiện hữu của đấng siêu việt và tương quan giữa thực
tại thần thiêng này với con người.
Thực ra, như một người
trong cuộc nhắm giải quyết vấn đề tôn giáo bằng chính kinh nghiệm tiếp cận trực
tiếp và như vậy là chủ quan của mình, tôi có thể đưa ra nhận xét là công việc
của mình làm tựa như công việc của một nhà thần học hoặc của một tín hữu đã
quen nhìn mọi việc, mọi vật theo cái nhìm thấm nhiễm niềm tin tôn giáo của
mình. Tuy nhiên sự cố gắng để đạt tới một cái nhìn khách quan và liên đới về
văn hóa và truyền thống tôn giáo cũng vẫn nên được chấp nhận, dù rằng những sự
quan sát hạn hẹp và những suy luận đơn giản tỏ ra không đủ sâu xa và rộng rãi
để có thể được gọi là những sự quan sát và suy luận của người trong cuộc. Thế
nên, sự nhận chân ra vấn đề nan giải của việc đi tìm một định nghĩa chung cho
vấn đề tôn giáo dù sao đi nữa cũng đã đạt được bước đầu cần thiết cho những nỗ
lực quan trọng kế tiếp trong việc tìm hiểu bản chất của tôn giáo.
CHÚ
THÍCH
(1) A priori, xin được tạm dịch là tiền kinh nghiệm
áp dụng cho những cảm nhận hoặc nguyên lý suy luận tiềm tàng sẵn trong cách suy
nghĩ, cảm xúc của con người mà không cần đến những kinh nghiệm của giác quan để
chứng minh sự hiện diện của nó.
(2) Roger Schmidt, Exploring Religion. Belmont, CA: Wadsworth Pub. Co, 1988, 7.
(4) Schmidt, 6.
(5) Ibid., 4.
(6) Ibid., 13-4.
(7) Keith Ạ Roberts, Religion In Sociological Perspectivẹ Belmont, CA:
Wadsworth Pub. Cọ, 1990, 6-7.
(8) Larence S. Cunningham et al, The Sacred Quest -- An Invitation to The Study
of Religion. NY: MacMillan Pub. Cọ, 1991, 25.
(9) Schmidt, 13.
(10) Ibid., 12.
(11) Ibid., 12.
(12) Cunningham, 15.
(13) Roberts, 3.
(14) Ibid., 4.
(15) Schmidt, 10.
(16) Cunningham, 26.
SÁCH TRÍCH DẪN
Cunningham, Lawrence S. et al. The Sacred Quest --
An Invitation to The Study of Religion. NY: MacMillan Pub. Co, 1991.
Comstock, Gary L. Religious Autobiographies. Belmont, CA: Wadsworth Pub. Co,
1995.
Roberts, Keith Ạ Religion in Sociological Perspectivẹ Belmont, CA: Wadsworth
Pub. Cọ, 1990.
Schmidt, Roger. Exploring Religion. Belmont, CA: Wadsworth Pub. Co 1998.