CÁC GIÁO
PHỤ CAPPADOCE
BASILE DE CÉSARÉE
Dù là một tỉnh hẻo lánh của đế quốc Roma nằm lọt giữa vùng
Tiểu Á, Cappadoce vẫn được tiếp xúc rất sớm với văn hóa Hylạp, cũng như với
Kitô giáo (1P 1, 1). Ở thế kỷ III, có một số Giám Mục nổi danh thuộc Cappadoce,
trong đó có Grégoire được gọi là Thaumaturge (Người làm phép lạ) một nhà truyền
giáo xuất thân từ tỉnh này. Nhưng Cappadoce chỉ hoàn toàn được Hylạp hóa vào
thế kỷ IV, bấy giờ nó mới tỏa chiếu rạng rỡ trong Giáo Hội nhờ một thế hệ của
những đầu óc vĩ đại, những vị thánh nam nữ đích thực. Tuy nhiên sự tỏa sáng này
tương đối ngắn, nó lụi tàn rất nhanh ở thế kỷ V, và bắt đầu từ thế kỷ VI, các
cuộc xâm lăng của Batư rồi của Ảrập làm xáo trộn hẳn bước phát triển này của đế
quốc Byzantine. Tuy vậy, toàn Giáo Hội, dĩ nhiên trước hết là Giáo Hội Ðông
phương, vẫn nổi bật nhờ ảnh hưởng trí thức và đạo đức của "ba con người vĩ đại của Cappadoce", đó
là Basile de Césarée, em ngài là Grégoire de Nysse và người bạn chung là
Grégoire de Naziance : một bộ ba kỳ tình. Các ngài đóng góp rất nhiều cho thần
học về Ba Ngôi.
Càng tìm hiểu tường tận bút ký của các ngài, người ta càng
thấy ảnh hưởng này sâu đậm. Nghiên cứu về các vị Cappadoce là một trong những
đề tài chính yếu và ngày nay được nghiên cứu nhiều hơn hết khi tìm hiểu lịch sử
Giáo Hội ở thế kỷ IV, đồng thời đây cũng là một trong những đề tài hấp dẫn
nhất, vì qua các tác phẩm và các hoạt động của các ngài, con người của các ngài
tỏ lộ ra cho chúng ta một cách hết sức sống động, với những diện mạo rất người,
với những phẩm chất và những yếu điểm, với thiên kiến đặc biệt của những nhà
thần học đồng thời là những nhà tu đức, những mục tử. Người đứng đầu trong ba
vị hẳn nhiên là Basile.
I. ÐƯỜNG HỌC VẤN.
Basile và người em kế là Grégoire, Giám Mục tương lai của
Nysse, cả hai thuộc gia đình đại chủ đã tòng giáo từ nhiều đời trước : Bà nội
Macrine và ông nội đã sống ẩn dật trong miền rừng Pont và đã bị mất hết tài sản
vào lúc xảy ra cuộc bách hại lớn, còn ông ngoại thì đã được phúc tử đạo.
Basile sinh vào khoảng năm 330, có lẽ tại Néocésarée thuộc
vùng Pont : cùng một tổ ấm gồm mười anh em, Basile đã học vỡ lòng với cha ngài,
là thầy dạy môn tu từ, và với bà mẹ đạo hạnh là Emmelie, theo nề nếp của những
gia đình khá giả, ngài được gửi theo học các bậc thầy nổi danh : tại Césarée
(thuộc Cappadoce), rồi tại Constantinople, cuối cùng tại Athène, một trung tâm
trí thức mà ảnh hưởng còn đang rất lớn.
Tại Athène, ngài kết thân với một người đồng hương mà ngài
đã từng gặp ở Césarée và sẽ trở thành người bạn tri kỷ của ngài là Grégoire,
sinh khoảng năm 329, gần Naziance, và đã đến thủ đô vào khoảng năm 350, trước
Basile ít lâu. Hai sinh viên này rất khác nhau về tính tình : Basile thì táo
bạo và quả quyết, còn Grégoire, tuy lạc quan nhưng do dự và hơi mơ mộng, ít có
khả năng đương đầu với những xung đột. Tình bạn của hai người thường có những
xáo động, lớn tiếng với nhau. Tuy nhiên, cả hai lại có nhiều điểm tương hợp :
thích ngôn ngữ và văn chương cổ, ưa sống ẩn dật. Trong nhiều năm, cả hai đều
theo học các bậc thầy về hùng biện nổi danh, ngoại giáo có, Kitô giáo có, làm
đồ đệ nhiệt thành của cả đôi bên, dễ dàng hội nhập vào nền văn hóa đương thời.
Ở đây chúng ta chứng kiến sự khởi đầu của một truyền thống
nhân bản Kitô giáo đích thực. Tuy nhiên mãi sau này Basile mới thật sự khẳng định
điều đó qua tác phẩm "Gửi thanh niên,
về cách lợi dụng nền văn chương Hylạp" : văn chương đời có thể
dùng làm môn dự bị cho khoa học thánh. Khi học xong, hai vị rời bỏ Athène trong
niềm luyến tiếc.
NHỮNG ÂM VANG CỦA MỘT
TÌNH BẠN NÁO ÐỘNG.
Grégoire de Nazianze đã cả nghe những
lời vu khống mà một thầy dòng đồn đại về những ý kiến của Basile.
1. Tôi đã nhận được thư của cha qua tay người anh em
Hellenois rất khả kính, và mọi điều mà chính cha cho tôi biết, thì tôi cũng đã
được nghe nơi người anh em kể lại rành rọt cả. Tâm trạng của tôi lúc bấy giờ
thế nào hẳn cha quá rõ. Tuy nhiên, vì quyết làm cho lòng yêu mến của chúng tôi
đối với cha mạnh hơn mọi phiền muộn, nên tôi đã vui lòng đón nhận các tin này,
và xin với Thiên Chúa Chí Thánh, sao cho suốt quãng đời còn lại, tôi vẫn giữ
nguyên được những tình cảm như trong quá khứ, mà, xét lại, tôi thấy mình đã
chẳng phạm một lỗi nặng, lỗi nhẹ nào cả(...).
2. Nguyên do sự chẳng lành mà xưa kia tôi đã xin cha ngăn
lại, và bây giờ, vì chán ngán, tôi đành nín lặng, ấy là chúng ta chưa hề có dịp
gặp gỡ trao đổi với nhau. Giá cứ theo những thỏa thuận xưa, cũng như theo sự ân
cần mà, hôm nay, chúng ta mắc nợ đối với các Hội Thánh, chúng ta sống với nhau
phần lớn thời gian trong năm, thì có lẽ chúng ta không để bọn vu khống đụng đến
chúng ta. Phần cha, nếu được, cha hãy đuổi thẳng chúng đi, nhưng xin cha cũng
vui lòng chia sẻ những khó nhọc của tôi trong cuộc chiến đấu.
Basile, Lettre 71, 1 - 2 (année 371),
A Grégoire de Nazianze C.U.F 1957,
pp. 166 - 167. Trad. Y. Courtonne.
NHỮNG LỢI ÍCH CỦA KHOA
HỌC ÐỜI.
Basile vừa nói tới việc "chúng ta
sửa soạn cho một cuộc sống khác".
Chính nơi cuộc sống ấy mà các Sách Thánh
- qua Giáo Huấn về các mầu nhiệm - dẫn chúng ta tới. Nhưng cho tới lúc mà tuổi
đời cho phép chúng ta hiểu được sâu xa ý nghĩa của các mầu nhiệm, thì chúng ta
còn phải trau dồi dựa trên những sách khác, nhờ con mắt linh hồn ; các sách này
không hoàn toàn như các Sách Thánh. Chúng ta trau dồi dựa trên chúng như dựa
trên những hình bóng và những gương soi, bắt chước những người thao luyện vào
nghề cung kiếm, và, một khi đã thành thạo các ngón đòn, những người này sẽ đoạt
giải trong ngày thi đấu. Nào ? Chúng ta cũng thế, chúng ta phải nghĩ rằng, một
trận đấu đang chờ chúng ta, một trận đấu lớn hơn tất cả các trận để chuẩn bị
cho trận đấu ấy, chúng ta phải làm tất cả, phải chịu đựng tất cả, với hết sức
chúng ta. Cần phải tiếp xúc với hết mọi hạng người, các nhà thơ, các sử gia,
các nhà biện thuyết, với bất cứ ai khả dĩ mang lại lợi ích nào đó giúp bồi bổ
linh hồn chúng ta (...).
- Nếu muốn ý tưởng của chúng ta về sự
thiện được bền vững, không phai, thì hẳn chúng ta phải tìm một dẫn nhập nơi các
nhà khoa học đời trước đã, rồi bấy giờ chúng ta mới tiếp thu những giáo huấn
thánh về các mầu nhiệm, để khi như đã quen nhìn mặt trời trên mặt nước, chúng
ta sẽ có thể nhìn thẳng vào ánh sáng thực.
- Nếu có sự tương cận giữa hai học
thuyết, thì học biết được cả hai có thể mang lại bổ ích, còn nếu không có sự
tương cận, thì ít ra việc đối chiếu sẽ cho thấy sự khác biệt và như thế sẽ góp
phần không nhỏ trong việc giúp chúng ta càng vững vàng trong học thuyết chân
thật hơn.
Aux Jeunes gens. 2 - 3, C.U.F. 1935,
pp. 43 - 44, Trad. Y. Courtonne.
II. ÐƯỜNG TU TRÌ.
NHỮNG BƯỚC ÐẦU.
Từ lúc trở về Césarée vào năm 355, có lẽ sau một thời gian
ngắn dạy môn tu từ, Basile thôi nghề giáo. Ngài chịu rửa tội và quyết chí tu
trì theo gương các người thân trong gia tộc. Macrine, chị ngài, linh hướng của
gia đình, và bà góa Emmélie, mẹ ngài, cả hai đã lập một cộng đoàn ở Pont, bên
sông Iris, thuộc lãnh địa Annésoi, nơi mà một người em của Basile đang sống ẩn
tu.
Khi ấy Basile có liên hệ với một nhà khổ tu ở Tiểu Á là
Eustathe, vị này đã từng là Giám Mục Sébaste, thuộc Arménie, dù đã có liên lụy
với thuyết Arius. Về sau vị này còn chối cả thần tính của Chúa Thánh Thần.
Eustathe chủ trương một lối khổ tu rất nghiêm khắc, muốn sống theo Tin Mừng
cách độc đáo, có phần nguy hiểm, và ông muốn áp đặt lối sống từ bỏ của mình cho
cả cộng đồng Kitô giáo. Basile cũng không kém phần kính nể vị này. Có lã theo
lời khuyên của ông mà vào khoảng 357 - 358, Basile quyết một phen tìm đến những
vùng mà chế độ khổ tu phát triển : Syrie, Mesopotamie, nhất là Aicập, chiếc nôi
của chế độ đan tu. Ngài không để lại cho chúng ta kỷ niệm gì về chuyến hành
hương tận các nguồn này. Dù vậy, khi trở về, ngài đã cương quyết thử nghiệm đời
sống đan tu, củng cố ảnh hưởng vẫn có của phong trào khổ tu trên các gia đình
đương thời.
Cùng với các đồ đệ, Basile liền tới trụ trì gần Annésoi.
Ngài chỉ lôi cuốn được bạn Grégoire của ngài thỉnh thoảng lưu lại đó một thời
gian ngắn. Tuy nhiên, cùng với bạn, ngài thảo những luật đầu tiên của cộng
đoàn, cả hai cùng nhau học hỏi Kinh Thánh dựa theo Philon và nhất là theo
Origène, theo hướng của Grégoire le Thaumaturge, nhờ sự hợp tác này mà chúng ta
hiện còn được một sưu tập quý giá về các bản văn của Origène, quyển Philocalie.
Cũng như tác phẩm của Grégoire de Nysse, là người tuy không tham gia nhưng cũng
được thừa hưởng những khám phá của nhóm này, tác phẩm của hai vị vẫn giữ được
nét nhiệt thành, say mê của Philon và Origène. Tại Ansénoi, đời sống đan tu đi
vào đường trí thức.
LUẬT CỦA BASILE.
Trong thư thứ hai, Basile đã mô tả lối sống ấy khi tại nơi
tĩnh tu này ; cầu nguyện liên lĩ ngày đêm, học hỏi Kinh Thánh, lao động tray
chân, luật về ăn mặc ngủ nghỉ rất kham khổ ; nhưng về các lãnh vực khác, lại
rất tự do : không đòi từ bỏ đồ đạc cá nhân, không phải vâng lời một bề trên
theo kiểu tu viện, cũng không có kỷ luật chi tiết. Ðây là những nhóm nhỏ giản
dị theo kiểu của Eustathe, hơn là chế độ tu viện được tổ chức chặt chẽ theo
kiểu Aicập. Ðóng góp chính của Basile cho phong trào đan tu có lẽ là đề ra lối
sống theo Tin mừng có trật tự, chừng mực hơn so với chủ trương sống theo Tin
Mừng một cách triệt để, thái quá của Eustathe. Phân tích các tác phẩm của
Basile về đời sống đan tu, tuần tự theo niên biểu, cho thấy có sự tiến triển từ
đề xướng lúc đầu sống theo Tin Mừng cách đơn thuần, chịu ảnh hưởng của
Eustathe, nhưng khó xác định mức độ (Règles Morales, khởi thảo đầu tiên của
cuốn Askétikon, được gọi là Petit Askétikon) đến việc tổ chức được thể hiện,
chẳng hạn qua chức vụ của một vị bề trên. Cho đến khi qua đời, Basile luôn tiếp
tục sát cánh với anh em và giải đáp những thắc mắc của họ, cứ như thế, ngài dần
dà minh định chương trình tu đức của ngài.
Toàn bộ công trình này được thâu tập lại trong Grand
Askétikon và đã trở thành tu luật cho vùng Ðông phương Byzantin. Hầu hết các tu
viện ở Ðông phương đều sống theo "qui
luật" này của thánh Basile.
Bản dịch ra tiếng Latinh của Rufin trước cuối thể kỷ IV,
đã đưa ảnh hưởng của bộ luật ấy lan tới Tây phương, nơi Cassien và thánh
Benoit.
TỪ LỐI SỐNG TIN MỪNG
ÐẾN NHỮNG CƠ CẤU : TIẾN TRIỂN CỦA ÐỜI SỐNG ÐAN VIỆN NƠI BASILE.
"Sự cô tịch rất có lợi cho chúng
ta, vì nó làm cho các đam mê thiếp ngủ, và cho lý trí được rảnh rang dứt bỏ
chúng hoàn toàn khỏi tâm hồn. Cũng như các thú hoang dễ dàng chịu khuất phục
khi được vuốt ve, thì các ham muốn, các cơn giận, những sự sợ hãi, và buồn
phiền cũng thế, những con thú độc địa và hung dữ này của tâm hồn, nếu ta biết
ru ngủ chúng trong tĩnh lặng thay vì làm cho chúng vùng dậy vì bị kích động
liên tục, thì chúng dễ dàng khuất phục trước sức mạnh của lý trí hơn. Vậy ước
gì, chốn tu trì phải được như chỗ của chúng ta, xa khỏi cảnh thế gian hỗn tạp,
ngõ hầu, không có gì từ bên ngoài vào làm gián đoạn việc tu luyện. Sự thao
luyện lòng đạo này nuôi dưỡng linh hồn bằng những tư tưởng thần linh. Thử hỏi,
có gì hạnh phúc hơn được sống như ca đoàn các thiên thần tại thế : thức dậy lúc
hừng đông để cầu nguyện và tôn vinh Ðấng Sáng Tạo bằng những khúc hát, những
bài thánh thi, rồi khi mặt trời bắt đầu rực nắng thì bắt tay làm việc kèm theo
sự cầu nguyện ở mọi nơi, có thể nói là để cho việc làm của mình thêm mặn nồng.
Những bài thánh ca có tác dụng tốt là làm cho tâm hồn cảm thấy hân hoan, và
tránh được những ưu phiền. Như vậy sự an tĩnh là bước đầu của việc thanh luyện
tâm hồn.
Con đường lớn dẫn tới việc khám phá ra
bổn phận, ấy là sự suy niệm các Sách Thánh được linh hứng. Chính nơi đó ta sẽ
tìm thấy những qui tắc xử thế, và hạnh của các chân phúc mà Thánh Kinh truyền
lại cho chúng ta là những hình ảnh sống động về cuộc sống theo Chúa, những hình
ảnh đó được đưa ra là để ta bắt chước theo việc lành của các ngài".
Lettre 2, 2 - 3 (Au début de la retraite) A
Grégoire de Nazianze
C.U.F. 1957, pp. 7 - 8, Trad. U. Courtonne.
v Mỗi người khi đã được bề trên chấp thuận, hãy làm mọi
sự cách khôn ngoan, xác tín, cả đến việc ăn, việc uống, tin chắc rằng ấy là vì
vinh quang Thiên Chúa.
v Không được bỏ việc này sang việc nọ khi không được người có
trách nhiệm điều động chấp thuận, trừ khi bất ngờ được gọi giúp đỡ người đuối
sức trong trường hợp thực sự khẩn thiết.
v Ai có việc nấy, không được xen vào việc ở ngoài phạm vi của
mình, trừ khi những người có trách nhiệm xét rằng có ai đó cần được giúp đỡ.
v Không ai tự tiện lân la qua các chỗ làm việc khác.
v Tuyệt đối không được làm gì vì lòng ganh ghét hay cạnh tranh
với người khác.
Lettre 22, 2 (en 364) sur la perfection de la vie
Monastique, ibid. p. 55, Trad. Y. Courtonne.
II. HOẠT ÐỘNG MỤC VỤ.
KHỞI ÐẦU HOẠT ÐỘNG.
Basile không hưởng đời tu viện được lâu. Ngài không thể
dửng dưng trước những tác hại của cơn khủng hoảng do bè Arius gây nên, lúc bấy
giờ đang hồi dữ dội. Ở Césarée, tình thế căng thẳng sau việc nhượng bộ của các
Giám Mục Ðông phương tại Séleucie (Liébaert I, p. 292). Basile thụ phong linh
mục do Giám Mục Dianios, có lẽ vào năm 362, ngài ra mặt chống lại những người
theo bè Arius (Contre Eunome, trước 364) và, sau vài lần lưu chuyển, ngài đến ở
hẳn tại Césarée, vào năm 365, theo yêu cầu của vị tân Giám Mục Eusèbe là mong
được một cộng tác viên có tầm cỡ sát cánh bên mình, vào lúc mà thuyết Arius lại
trở nên hùng hổ.
Dù kém sức khoẻ, Basile vẫn lập tức chứng tỏ mình là người
hoạt động cương nghị và hữu hiệu, điển hình là việc ngài tổ chức các cuộc cứu
tế lúc xảy ra nạn đói năm 368, giữa cảnh hỗn loạn mọi mặt, và không ngại đích
thân tham gia vào việc phân phát đồ ăn. Ngài bán gia sản riêng để lo cho những
người túng quẫn, vào năm 370, ngài được chọn làm Giám Mục Césarée, đứng đầu
toàn Hội Thánh Cappadoce, và trên thực tế là Thượng Phụ của "Giáo Phận" Pont. Trong một bối
cảnh đời và đạo đặc biệt khó khăn, với khoảng vỏn vẹn tám năm rưỡi, ngài đã
hoạt động nhiều đến lạ lùng, một số thư từ rất lớn còn giữ lại được, phần lớn
viết vào thời ngài làm Giám Mục, cho thấy điều đó : đây là nguồn tài liệu chính
cho việc nghiên cứu lịch sử thời kỳ này.
GIÁM MỤC TRÊN MỌI TRẬN
TUYẾN.
Trong trách nhiệm đối với Ðịa Phận, Basile là một Giám Mục
gần gũi với hàng giáo sĩ của mình, và chú tâm đến những vấn đề thường ngày của
một đoàn chiên rất mến mộ ngài. Những bức thư của ngài cho thấy ngài không
ngừng quan tâm đến việc đấu tranh chống lại những chính sách độc tài, mà thường
là bạo ngược, chống lại hệ thống thuế khóa, hoặc những bất công gây ra do việc
thu tích của cải nơi các nhà cầm quyền. Lời rao giảng của ngài cũng hỗ trợ cho
những can thiệp của ngài. Với một giọng cay nghiệt hiếm có, nhất là lúc xảy ra
nạn đói năm 368, ngài công kích kẻ giàu "nghèo
nhân nghĩa, nghèo lòng tin, nghèo về niềm hy vọng vĩnh cửu - : "Chỉ nguyên
tủ quần áo của ngươi cũng đủ mặc cho cả một đoàn rét mướt ... Ngươi trang sức
cho ngựa của ngươi, còn người anh em rách rưới thì ngươi lại khinh miệt".Ngài
mô tả một cách phẫn nộ "kiểu sống xa
hoa và ham hố" của họ. Ngài coi tài sản kếch xù là sự chiếm
dụng của cải dành cho mọi người, cách riêng ngài tố giác bọn cho vay nặng lãi
là những kẻ "tích góp thêm vốn tội của
họ". Ngài can người nghèo khổ chớ có đi vay, của vay mượn là "con quái vật đẻ nợ", ngài mô tả
cách thương tâm cảnh chủ nợ "siết
cổ" và con nợ "bị nghẹt
thở vì sợi thừng" tự sát. Ngài không ngớt kêu mời chia sẻ.
Trong một xã hội tàn nhẫn đối với những kẻ hèn yếu, Basile đóng trọn vai trò
trung gian và bù đắp mà cương vị Giám Mục lúc bấy giờ có thể làm. Hoàng đế
Julien đã phải nhận rằng, tình tương thân tương ái, không thấy có nơi dân
ngoại, nhưng lại thật đáng kể nơi các Kitô hữu.
Bên cạnh rất nhiều sáng kiến mang tính cách cá nhân và địa
phương, Basile còn khởi xướng một tổ chức hoạt động xã hội cấp tỉnh và lập một
trung tâm ở Césarée, sau này được gọi là "Trung
tâm Basile" (Basiliade). Khu cứu tế này dựa theo kiểu thực hiện
của Eustathe de Sébaste, gồm nhà thương, nhà trọ, dưỡng đường, viện cô nhi ...
ngài Basile cũng quả là một thánh Vincent de Paul.
Trên bình diện Giáo Hội, hoạt động của Basile vượt xa
ngoài Tiểu Á. Ngài sống chức vụ Giám Mục trong một Giáo Hội bị xé rách từng
mảnh cách bi đát. Các Giám Mục theo bè Arius vẫn chỉ là thiểu số, nhưng ngược lại
các vị bảo vệ cho Nicée lúc bấy giờ cũng chỉ là thành phần nhỏ, có khi còn chia
rẽ nội bộ nữa. Ở Antioche, có sự đụng độ dữ dội giữa một bên là các vị thừa kế
Thượng Phụ Eustathe, được Athanase và Tây phương đỡ đầu và bên kia là Giám Mục
Mélèce, bạn của Basile. Ðược những người Arius đưa lên vào năm 361, Mélèce đã
sớm thông hảo lại với đức tin của Công Ðồng Nicée. Ban đầu Basile cũng đi với
cánh Homéousiens, những sau ngài cũng đã trở lại. Tuy nhiên, xung quanh hai vị
này, đa số các Giám Mục Ðông phương có thái độ lơ lửng, thậm chí xu thời nữa.
Cơn sóng gió cũng đã làm tổn thương mối quan hệ giữa hai hàng Giám Mục Ðông và
Tây phương. Các Giám Mục Tây phương có khuynh hướng coi tất cả các Giám Mục
Ðông phương đều theo thuyết Arius cả, ngoại trừ Athanase và các bạn thân của
ngài.
VỊ MỤC TỬ HÒA GIẢI.
Một trong những bận tâm lớn của Basile là việc hòa giải
các Giáo Hội, và sự hiệp nhất chung quanh của đức tin Nicée. Ngài phải chạm
trán với những trở ngại lớn. Vào năm 364, vị tân hoàng đế Valens lại áp đặt lên
Ðông phương một chính sách thân Arius, và ông muốn khống chế hàng Giám Mục
chống đối. Suốt mùa đông năm 371 - 372, ông lưu lại Césarée : vừa vuốt ve vừa
đe dọa để thu phục Basile, nhưng đành bó tay tước sự cương quyết của vị Giám
Mục và đã phải kiêng nể uy thế của ngài, Basile tiếp tục chu toàn các phận vụ
của mình cách tự do, y như Athanase d'Alexandrie ở cùng thời.
"MỘT LỐI SỐNG XA
HOA".
Tôi thật thán phục sức tưởng tượng của
họ về những chuyện vô ích ! Hàng ngản cỗ xe bọc đồng thau, dát bạc dùng chở đồ,
chở người. Bao nhiêu chú ngựa"nòi" mà người ta biết được "dòng
tộc" tôn quí của chúng. Chẳng khác gì người ! Số được dùng đưa các đại
lãnh chúa của chúng ta dạo phố, số được dùng đi săn, số còn lại được huấn luyện
để chạy đường dài. Hàm thiếc, yên cương thảy đều bằng bạc, nạm vàng. Gấm điều
vải tía đem phục sức cho ngựa như cho cặp vợ chồng đính ước. Hàng đám la lừa
được phân loại theo màu. Những hàng xà ích xếp dài sau trước. Ðám gia nô dày
đặc cung phụng cho ngần ấy vinh hoa : người quản lý, kẻ thủ quĩ, người làm
vườn, và tất cả các ngành nghề, sẵn có cũng nhiều, bịa ra cũng lắm, nhằm cung
ứng cho tiện nghi và hưởng lạc. Thợ nấu ăn, thợ làm bánh, thợ lo nước uống, thợ
săn bắn, thợ điêu khắc, thợ vẽ, các loại thợ cho ngàn cách ăn chơi. Nhiều lạc
đà, số thồ hàng, số ngoài đồng cỏ ; nhiều đàn ngựa, bò, chiên, cừu, heo cùng
những người chăn. Ðất đai bát ngát đủ để chăn thả đàn vật và tăng gia lợi tức.
Bể tắm ở thành phố, bể tắm ở thôn quê. Nhà cửa sáng choang những đá cẩm thạch
đủ loại. Nhà thì bằng đá khối vùng Phrygie, nhà thì bằng đá phiến vùng Locomie
hay Thessalie ; loại giữ cho ấm vào mùa đông, loại làm cho mát vào mùa hạ. Ðá
lát nền được chạm đầy hoa văn ; trần nhà dát vàng. Tất cả những bức tường không
lát cẩm thạch thì được tô vẽ sặc sỡ.
Homélie 7, 2, Contre les Riches, P.G. 31, 284 -
285B
Dans A.G.Hamman, "Riches et Pauvres dans
l'Église
Ancienne". Lettre Chrétiennes no 6,
Parisd 1968,
pp. 81 - 82, Trad. Fr Quéré - Jaulmes.
CHIẾM ÐOẠT CỦA CẢI
CHUNG.
Bọn giàu là như thế : vì là những kẻ
chiếm hữu đầu tiên, họ tự tuyên bố là chủ nhân các của chung mà họ đã chiếm
đoạt. Nếu như mỗi người chỉ giữ lại những nhu cầu thông thường cho mình thôi,
còn số thặng dư để lại cho những người túng quẫn, thì chuyện giàu nghèo sẽ bị
phá bỏ (...)
Tại sao bạn giàu còn người kia lại
nghèo, chẳng phải chỉ là để thưởng cho lòng tốt và sự quản lý vô vị lợi của bạn
trong khi người nghèo sẽ được tặng những giải thưởng huy hoàng dành cho lòng
nhẫn nại của họ hay sao ? (...)
Bạn không phải là tên ăn trộm ư ? Của
cải được trao cho bạn trông coi, bạn lại chiếm dụng. Kẻ trấn lột người khác thì
được gọi là kẻ cướp, còn người không che đắp gì cho kẻ đói rách, khi anh ta có
thể làm điều đó, thì kẻ ấy có xứng đáng mang một tên gọi khác chăng ?
Chiếc bánh mà bạn cất giữ là thuộc về người
đói khát. Chiếc áo khoác mà bạn cất kín trong rương là của người trần trụi.
Giày để mục trong nhà bạn là giày của người chân không. Tiền bạc bạn chôn giấu
là của người khốn khổ. Như thế là bạn áp bức ngần ấy kẻ mà bạn đã có thể giúp
đáp.
Homélie 6, 7, Contre la richesse : P.G. 31, 267B -
277A
Ibid, p. 76, Trad. Fr. Quéré - Jaulmes.
CON NỢ VÀ CHỦ NỢ.
Ông tham lam thấy người túng quẫn đến
sấp mình dưới chân ; van xin lạy lục hạ mình hết sức ! Nhưng ông chẳng mảy may
thương xót trước nỗi bất hạnh bất công đến như thế ; không một chút tình cho
người khốn khổ, không chút động lòng trước lời kêu xin. Ông trơ mặt tàn nhẫn,
giả điếc làm ngơ trước cảnh than khóc và khăng khăng từ chối. Ông thề độc với
người khốn khổ rằng mình rất túng tiền, và chính mình cũng đang chạy vạy. Những
lời dối trá được chống chế bằng những lời thề, và như vậy, ông thêm tội thề dối
vào tội bất nhân. Nhưng khi anh bạn đi vay nói đến lãi suất và việc cầm cố, ông
ta liền tươi mặt mỉm cười : ấy là lúc ông nhớ lại tình bè bạn đã từng nối kết
hai gia đình và ông chỉ còn coi anh như "ông bạn yêu quí" nữa thôi.
Ông vẽ chuyện : "Ðể xem nào, chẳng lẽ không còn đồng nào cất dành ; có một
người bạn nhờ tôi đặt tiền làm lời. Ðúng ra, ông định cho tôi số lãi rất nặng,
đúng vậy, nhưng tôi sẽ giảm đôi chút, và tôi sẽ cho vay với mức lời thấp
hơn". Bị gạt gẫm bởi môi miệng ấy, người khốn khổ rơi vào bẫy. Ông bảo anh
ta ký nhận nợ rồi ra đi, sau khi cướp mất tự do của một con người đã còng lưng
gánh chịu nỗi khốn cùng.
Kẻ khốn khổ cầm tiền trong tay thơ thới
cười vui, anh bắt đầu say sưa với món tiền kếch xù không thuộc quyền mình và
anh lòe thiên hạ với những mức sống mới. Anh ta ăn uống thịnh soạn, chưng diện
sang trọng, các người phục dịch mặc đồ bảnh bao, còn nhà cửa thì chen chúc
những kẻ dua nịnh, khách khứa và những bọn xum xoe khác. Nhưng tiền cứ lẳng
lặng tuột đi, mà lúc trả lãi sắp đến : bấy giờ anh ta mới thấy : đêm ngủ chẳng
yên, ngày hết rạng rỡ, cũng chẳng còn tưng bừng lễ hội nữa. Cuộc sống trở nên
kinh tởm. Anh nguyền rủa những ngày này, bởi chúng chạy gấp rút tới kỳ hạn phải
trả, anh khiếp sợ những tháng này, bởi chúng đẻ ra tiền nợ lời. Anh có chợp mắt
được, thì chủ nợ lại hiện lên trong ác mộng và sừng sững nơi đầu giường. Anh có
thức thì nổi lo về món nợ không ngừng khuấy khuất. Có lời ngôn sứ rằng :
"Kẻ đặt nợ và con nợ gặp nhau, Ðức Chúa thấu suốt cả hai" (Prov. 29,
13). Người này chồm lên như một con chó đớp mồi, kẻ kia lại như con thú cùng
đường, khiếp sợ gặp mặt. Cái nghèo quả đã cướp mất của anh ta cả đến quyền tự
do ăn nói.
Hom. Sur les Ps., 2 sur Ps., 14, 1 - 2. P.G. 29,
2650 - 2680,
Ibid. pp. 94 - 95, Trad. Fr. Quéré - Jaulmes.
Grégoire de Nysse
Cũng
công khai lên tiếng chống lại những kẻ cho vay nặng lãi.
Nhưng Basile còn khổ tâm hơn nhiều do những trở ngại gặp
phải trong chính Giáo Hội. Ngài phải nỗ lực rất nhiều, nhưng mềm dẽo hơn
Athanase, nhằm nương tay với những người lừng khừng, do dự, người ta trách cứ
ngài về điều này, nhưng một số khác lại buộc tội ngài là không biết khoan
nhượng. Cuộc tranh luận tín lý về Chúa Thánh Thần khiến ngài đau lòng đoạn giao
với người thầy cũ là Eutathe de Sébaste. Sự kiên trì của ngài đã được đền bù
ngay sau khi ngài qua đời : vào năm 379, Công Ðồng Antioche de Mélèce qui tụ,
gồm 150 Giám Mục theo Nicée, và vào năm 381, Công Ðồng chung thứ hai thực sự
đánh dấu kết thúc cuộc khủng hoảng do Arius gây ra trong Giáo Hội. Basile đã
góp công lớn trong kết quả này. Sau khi Athanase qua đời vào năm 373, chính
Basile đã đảm nhận vai trò lãnh đạo tinh thần Giáo Hội Ðông phương.
Ðối với Roma, Basile tìm cách tái lập các quan hệ bằng
cách vượt qua những hiểu lầm và ngờ vực. Ngài buồn phiền với những thái độ "cau mày của Tây phương". Lâu
nay các thư từ cũng như phúc trình của ngài vẫn không được Ðức Giáo Hoàng
Damase lưu ý tới, vì Ðức Damase được biết rõ tình thế hết sức rối ren của Ðông
phương. Có những lúc ngài cảm thấy cay đắng và thối chí, chỉ tới khoảng năm
376, sau khi một lần nữa gửi lời kêu gọi trợ giúp cho các phần tử chính thống
Ðông phương, ngài mới nhận được lời phúc đáp thân tình và tin tưởng của Ðức
Giáo Hoàng Damase. Cả trong vấn đề này, hoạt động của ngài sẽ mang lại kết quả
sau khi ngài qua đời.
Trong một Giáo Hội bị xâu xé, Basile đã là người hòa giải,
ngài đã đóng góp rất nhiều vào việc "tạo
lại tình thân hữu giữa các Hội Thánh của Chúa", theo như cách
diễn tả của ngài. Ðấy là một trong những công phúc lớn của ngài trong cương vị
Giám Mục.
IV. CÔNG TRÌNH THẦN HỌC.
GIÁO LÝ VỀ CÁC NGÔI VỊ.
Cũng với cương vị là Giám Mục, Basile đã truyền đạt giáo
lý trong các bài giảng lễ của ngài, đặc biệt về sách Khởi Nguyên. Hơn nữa, ngài
đích thực là nhà thần học, theo phong cách riêng của mình, không thuần túy suy
lý hoặc suy tư có hệ thống, nhưng do sự thúc bách của cuộc khủng hoảng về tín
lý mà chủ yếu là về niềm tin Ba Ngôi. Ngài luôn luôn tránh đi vào cuộc tranh
luận nảy sinh chung quanh Ngôi vị của Ðức Kitô : tiêu biểu cho nền thần học
chính thống của Nicée vào giai đoạn II. Ở giai đoạn này, sau khẳng định về sự
duy nhất và ngang bằng giữa Chúa Cha và Chúa Con, thì giáo lý về sự phân biệt
các "Ngôi Vị" Thiên
Chúa và thần học về Chúa Thánh Thần được soạn thảo : hai điểm này còn bị bỏ ngỏ
trong bản Tuyên Tín năm 325, các khảo luận "Contre
Eunome và Sur le Saint-Esprit" của ngài bàn đến hai điểm này.
Basile đã đương đầu với hai hình thái mới nảy sinh và mang
tính cách triệt để của thuyết Arius : một hình thức chỉ muốn sử dụng cách nói
thuộc Kinh Thánh và loại bỏ mọi từ ngữ không được Kinh Thánh dùng (homéisme) ;
ngược lại, hình thức kia tinh tế mang tính chuyên môn và trí thức hơn, nhưng có
khuynh hướng quá duy lý : đó là thần học của Eunome de Cyzique. Ông này cho
rằng trí tuệ con người có khả năng "định
nghĩa" hữu thể Thiên Chúa (trong khi đối với Arius, chính Chúa
Con cũng không hoàn toàn thấu hiểu Chúa Cha) ; Thiên Chúa là "Nhất thể tuyệt đối" (L'un
absolu), và chỉ hiện hữu bởi chính mình , như vậy Chúa Con và Chúa Thánh Thần
không được nhìn nhận là Thiên Chúa (anoméisme). Chủ trương duy lý này đã khiến
các Giáo Phụ Cappadoce hết sức phẫn nộ, vì nơi các ngài, niềm tin tưởng thành
thực vào khả năng trí tuệ luôn luôn gắn liền với cảm thức sâu xa về huyền nhiệm
Thiên Chúa được mạc khải trong Kinh Thánh. Vì thế, các vị cùng nhau, nhất là
Basile, dốc hết trí lực chống lại Eunome, bằng cách dựa trên Tân Ước, trên đức
tin sống động của Giáo Hội, đặc biệt trong cử hành Phép Rửa, và cả trên suy tư
triết học cũng như thần học.
Những vấn nạn do đối phương nêu lên đã khiến Basile đưa
thần học của mình đi sâu vào một suy tư độc đáo về khả năng con người trong
việc nhận biết Thiên Chúa, về những giới hạn của ngôn ngữ được áp dụng cho
Thiên Chúa, ngay cả ngôn ngữ của Kinh Thánh, về Hữu Thể, ở bên kia các từ ngữ
nhằm nói về Người, bên kia mọi đặc tính biểu lộ Người ... Từ đó ngài cố gắng
giảng nghĩa điều được nói lên khi chúng ta tuyên xưng vị Thiên Chúa đồng thời là
ba và là một, chính ngài cũng do dự về chữ "đồng
bản tính" (consubstanciel) của Nicée, vì sợ lối giải thích theo
hình thái thuyết. Ngài đã thuận dùng chữ ấy, nhưng đồng thời tìm cách xác định
rõ phân biệt giữa các ngôi vị Thiên Chúa. Dần dà ngài nghiêng về khẳng định "Ba hypostase" (Tam Vị) trong "Một bản thể duy nhất" (Unique
substance) của Thiên Chúa. Từ ngữ "hypostase"
mà sau này người Latinh dịch là "subsistance"
riêng được hai vị Grégoire hiểu là một "cách thể hiện hữu riêng" (mode propre d'exister) (chứ
không chỉ là một hình thái biểu lộ - mode de manifestation - theo kiểu những
người chủ trương hình thái thuyết - modalisme) đặc điểm của cách thế này hệ tại
ở các tương quan về nguồn gốc (relations d'origine), tương quan Cha, Con chẳng
hạn. Sở dĩ duy nhất hoàn toàn về bản thể (substance) là vì các ngôi vị
(Hypostases) Thiên Chúa chỉ phân biệt nhau do các tương quan, tất cả còn lại
đều chung nhau. Sở dĩ ngôi vị Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đều hiện
hữu viên mãn, vì những tương quan này, xét là những tương quan theo nguồn gốc,
khiến các vị hoàn toàn phân biệt nhau : có thể nói rằng, ngay từ thế kỷ IV, nhờ
Basile, công thức này hoàn toàn chiếm ưu thế, đặt những khái niệm nền tảng cho
thần học Ba Ngôi cổ điển ở Ðông phương cũng như Tây phương.
MỘT SỐ ÐIỂN NGỮ VỀ CÁC
LẠC THUYẾT.
(Nguồn gốc một số điển ngữ dùng trong
các chương này).
v Modalisme (hình thái thuyết đã được định nghĩa trong tập
trước (Liébaert I, p. 125). Giáo thuyết thần học này đã bị Tertullien phi bác
qua tác phẩm "Contre Praxeas". Vì muốn bảo vệ niềm tin độc thần (foi
monothéiste), thuyết này đã không nhìn nhận sự phân biệt thực giữa ba ngôi vị
trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mà chỉ xem đó là những hình thái
(modalités) (nối tiếp nhau) của một bản thể độc nhất. Thuyết này còn được gọi
là "Monarchianisme" (một nguyên lý duy nhất, thuyết độc ngôi)
"patripassianisme) (khổ phụ thuyết, vì Chúa Cha cũng chịu khổ nạn)
"sabellianisme" (do tên của Sabellius, người chủ xướng, thế kỷ III).
Marcel d'Ancyr (Liébaert I, p. 247) khơi dậy lại khuynh hướng này vì muốn bênh
vực định thức Nicée, nhưng đã bị Eusèbe de Césarée công kích (Contre Marcel).
Các vị Hylạp ký nhận định thức Nicée một cách dè dặt vì sợ rơi vào hình thái
thuyết, còn các vị Cappadoce trong khi bênh vực sự phân biệt của các ngôi vị
Thiên Chúa vẫn tiếp tục nghi ngờ rằng những người bảo vệ tính duy nhất rơi vào
khuynh hướng này. Ngay cả đối thức Latinh : Một substantia (bản thể) / Ba ngôi
vị (personna) vẫn bị các vị bên Ðông phương cho là đáng ngờ.
v Arianisme là thuyết của Arius, thuyết này vì muốn bảo vệ
tính tuyệt đối của Thiên Chúa, Ðấng độc nhất đứng "ngoài vòng chiến
dịch", đã đặt Ngôi Lời (Verbe) đứng đầu trong số các tạo thành. Rõ ràng
ông đã hạ Ngôi Lời xuống hàng dưới (subordinatianisme), hạ phục thuyết) (Liébaert
I, p. 218). Công Ðồng Nicée (325) đã lên án Arius và tuyên bố Chúa Con
"đồng bản thể" với Chúa Cha (consubstanciel - homoousius, homos và
ousia - cùng một bản thể), "cùng một bản thể độc nhất" (ibid. p.
226), từ ngữ này trước đây đã được Paul de Samosade - kẻ lạc giáo sử dụng và
được Marcal d'Ancyr cùng bè Sabellius ủng hộ, đây cũng là từ ngữ mà một số vị
Hylạp "chống Arius" đã hồ nghi có nguy cơ rơi vào hình thái thuyết.
Vào giữa thế kỷ IV, thuyết Arius phục hồi dưới một hình thức cứng rắn và đốp
chát lại từ ngữ của Nicée bằng cách gọi Ngôi Lời là Anomoios (bè anoméens)
nghĩa là "không giống" vì theo bản tính Ngôi Lời được sinh ra
(engendré) trong khi Thiên Chúa - theo định nghĩa - là Ðấng Không-được-sinh-ra
(non-engendré). Ðây là lập tường của Aère và nhất là của Eunome de Cyzique (vì
thế mà còn có những tên gọi là aétiens hay eunomiens). Eunome de Cyzique có
soạn một cuốn Apologie và đã bị Basile de Césarée phi bác ngay lập tức. Những
người theo thuyết Arius có chủ trương ôn hòa nhất đã bác bỏ chủ trương "không
giống" (anomoios), theo họ, chủ trương như thế sẽ dẫn đến một tương quan
giữa tạo vật và Tạo Hóa, vì thế họ chủ trương Ngôi Lời (Verbe) homoiousios (bè
homéousiens), nghĩa là "có bản thể tương tự", một sự tương tự mà ở
mức cực điểm của nó có thể là sự giống toàn diện (similitude totale) và như thế
thì những người theo Nicée có thể chấp nhận được. Nhưng vào năm 359, một nhóm
khác của bè Arius lại bác bỏ tất cả những công thức trên và chọn cách nói Chúa
Con homoios (bè homéens hay "acaciens" do tên của Acace de Césarée)
"giống" Chúa Cha, từ ngữ này người ta tự do tha hồ giải thích. Bằng
những thủ đoạn khéo léo, những người này đã lên án các công thức khác tại hai
Công Ðồng khác nhau, mộtg tại Rimini (Ý), một tại Séluecie (thuộc Isaurie, Tiểu
Á).
v Vấn đề Chúa Thánh Thần được đặt ra bên lề những cuộc tranh
luận về Ba Ngôi, nhưng chưa được bản Tuyên Tín Nicée định rõ. Người ta muốn áp
dụng "homoousios" cả cho Chúa Thánh Thần. Những người chống đối lại
điều này, tất nhiên có phe Arius, vào đầu hậu bán thế kỷ IV, được gọi là
"pneumatomaques" ("những kẻ chống lại Thánh Thần") hay
macédoniens, theo tên của Macédonius de Constantinople, là người có thể không
dính dáng gì về vấn đề này. Công Ðồng chung Constantinople II (381) đã chấm dứt
những tranh cãi về mầu nhiệm Ba Ngôi.
v Ðiều đáng lưu ý là thuyết Arius bị phi bác chủ yếu là
vì nó trực tiếp đụng đến mầu nhiệm Ba Ngôi. Tuy nhiên, ngay từ đầu, Eustathe
d'Antioche đã tố giác sự phủ nhận linh hồn của Ðức Kitô trong thuyết này
(Liébaert I, p. 259) vấn đề Kitô học lại bùng dậy vào khoảng năm 350 với
Apollinaire, một người ủng hộ Nicée, và có thể là đồng minh của Athanase. Vì
muốn bảo đảm tính duy nhất của Ðức Kitô một cách chắc chắn hơn và nghĩ rằng,
qua đó việc cứu độ nhân loại cũng được bảo đảm ông cho rằng nơi Ðức Giêsu, Ngôi
Lời đảm nhận vai trò của linh hồn hay ít nữa là của tinh thần (esprit, nous).
Ngôi Lời cùng với con người làm thành "một bản tính độc nhất hợp bởi thần
tính bất khả thụ (impassible) và thân xác khả thụ (passible)". Thuyết này
đã bị Công Ðồng Alexandrie nhất trí tố giác vào năm 362, và vào khoảng từ năm
377, thì bị ba vị Cappadoce phi bác hẳn. Thuyết của Apollinaire bị một loạt các
Công Ðồng lên án, từ năm 377 (Rome) đến 381 (Constantinople). Thuyết này là gốc
sinh ra thuyết monophysisme (độc tính thuyết, monosphysis) (chỉ một bản tính)
chủ trương nơi Ðức Kitô chỉ có một bản tính duy nhất.
"NHẤT THỂ"
(UNE SUBSTANCE) "TAM VỊ" (TROIS HYPOSTASES)
(HƠN LÀ BA "NGÔI
VỊ" PROSOPON, PERSONNA).
Nếu để cho một số người trong chúng ta
công khai tuyên bố rằng chỉ có một "hypostase" duy nhất cho Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần thì có lẽ chẳng còn sự báng bổ nào gây đau buồn và
làm rúng động quần chúng hơn. Ngay cả khi họ dạy một cách rõ ràng hết mức về sự
khác biệt giữa các ngôi vị đi nữa thì vẫn còn vấn đề là chính học thuuyết này
ban đầu là do Sabellios chủ trương. Quả vậy, ông này đã từng nói : Thiên Chúa
duy nhất về hypostase (un par hypostase) nhưng Người được Kinh Thánh trình bày
dưới ba ngôi vị (personnes) khác nhau, tùy theo tính chất đặc thù của mỗi đòi
hỏi xảy đến...
Nếu phải diễn tả ngắn gọn ý nghĩ của
chúng tôi, thì chúng tôi sẽ nói rằng tương quan giữa chung và riêng (commun,
particulier) cũng là tương quan giữa substance (bản thể) và hypostase. Mỗi
người chúng ta tham dự vào hữu thể bởi nguyên lý chung về bản thể con người thế
này hay thế khác đó là do đặc tính riêng của người đó. Ở đây cũng thế, nguyên
lý bản thể thì chung, chẳng hạn sự tốt lành, thần tính, và tất cả những thuộc
tính khác mà người ta có thể hình dung được, nhưng hypostase thì lại được xét
trong đặc tính riêng của phụ hệ (paternité) hay của tử hệ (filiation) hoặc của
quyền năng thánh hóa (puissance sanctificatrice) (...) ngõ hầu toàn bộ nguyên
lý đồng bản thể được gìn giữ trong sự duy nhất của thần tính, và để cho tri
thức mà lòng đạo có được về Chúa Cha, Chúa Con và về Chúa Thánh Thần được rao
giảng trong hypostase hoàn hảo và trọn vẹn của mỗi Ðấng được nêu danh.
Basile, Lettre 214, 3 - 4, An Comte Térence,
C.U.F. 1961, pp. 204 - 206. Trad. Y. Courtonne.
CÒN CHÚA THÁNH THẦN ?
Tuy vậy, chính Basile mới chỉ triển khai phần nào những
khái niệm này, và ai cũng biết ngài tỏ ra dè dặt trong việc áp dụng các khái
niệm ấy cho Chúa Thánh Thần - thần tính của Chúa Thánh Thần bị các người theo
bè Arius và một số thuộc phe chủ trương "homéousios"
như Eustathe de Sébaste đem ra bàn cãi. Một vài năm trước khi qua
đời, vị Giám Mục thành Césarée này đã soạn khảo luận "Du Saint-Esprit", nhằm phi bác những chống báng
của họ ; sở dĩ ngài tránh gọi Chúa Thánh Thần là đồng bản thể và là "Thiên Chúa", vì ưu tư đại kết
tránh chạm trán với các bạn cũ. Bản tuyên tín của Công Ðồng Constnatinople vào
năm 381 (Kinh Tin Kính của thánh lễ) mang dấu tích "cách xử sự" của Basile (politique basilienne) ;
Thần tính của Ngôi Ba được khẳng định bằng những từ ngữ gián tiếp : "được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa
Cha"... Bù lại, Basile nhấn mạnh hoạt động của Chúa Thánh Thần
cho con người được nên giống Thiên Chúa, được thông phần, được thần hóa : "Khi đã được Thánh Thần soi sáng, tâm trí chúng
ta chăm chú vào Chúa Con, như nơi một hình ảnh, tâm trí chiêm ngưỡng Chúa
Cha".
Rõ ràng là Basile đã đóng góp nhiều vào việc xây dựng linh
đạo, nhất là linh đạo đan viện, và vào việc hình thành tuyên tín của Giáo Hội.
Ðông phương còn giữ được di niệm về tác phẩm giáo luật và phụng vụ của ngài.
Người ta tìm thấy nhiều ghi chú trong những bút ký vủa ngài, về việc hướng nhìn
về Ðông phương, biểu tượng của Thiên Ðàng đã mất và lại tìm thấy, về cử chỉ
đứng đọc kinh vào ngày thứ Nhất trong tuần, cũng là ngày thứ tám, triệu báo của
"ngày không tàn", về
Thánh Thể, được chịu "ngay cả mỗi
ngày", có thể lưu giữ tại nhà riêng và tự rước lấy ... Grégoire
de Nazianze có thuật lại rằng Basile đã điều chỉnh "phần kinh nguyện" ở Césarée. Trong số các nghi lễ
phụng vụ lớn thuộc Byzantin, vẫn còn một nghi lễ hiện đang được thực hành, gọi
là phụng vụ của thánh Basile. Dù sao công trình của ngài trong lãnh vực này,
kèm theo công trình của thánh Jean Chrysostome, đã theo kịp bước phát triển về
Thánh Thi (hymnologie) nơi các vị cùng thời bên Tây phương : Hilaire, Ambroise
hay Damase.
Basile de Césarée thật đáng được gọi là "Cả" (Le Grand). Giữa một hoạt
động đáng khâm phục, ngài vẫn thực hiện được trong rất nhiều lãnh vực một công
trình đáng kể, mà ở nhiều phương diện, đã gây tác động trong Giáo Hội toàn cầu.
Những điều đó ngài đã thực hiện trong khoảng nửa cuộc đời. Ngài mất ngày
01.01.379.