CHƯƠNG 4
CÁC GIÁO PHỤ HY LẠP CUỐI CÙNG
(THẾ KỶ VI - VIII)
Bên phía Latinh, người ta có thể tự hỏi có nên xếp Isidore
de Séville vào giai đoạn Giáo Phụ hay không, nhưng dầu thế nào chăng nữa, cũng
không thể vượt quá những khả năng, cũng không thể vượt quá những thập niên đầu
của thế kỷ VII. Lý do đơn giản là vì không còn nhân vật góp mặt. Ngược lại, bên
Hylạp, ít là một thế kỷ nữa, cho ta ấn tượng là vẫn còn một sự tiếp nối liên
tục ; đặc biệt trong nền văn chương đan tu và trong các tranh luận về tín lý
xoay quanh nhất tính thuyết. Tuy vậy, trong đó cũng đã nẩy nở một nền văn
chương hợp tuyển báo trước thời Trung Cổ.
I. NỀN VĂN CHƯƠNG ÐAN TU.
PHONG TRÀO ÐAN TU.
Phong trào đan tu Palestine, ban đầu rất gắn bó với Aicập,
nở rộ vào thế kỷ V - VI, lôi cuốn ngay cả các ẩn sĩ miền Lưỡng Hà Ðịa và
Cappadoce, do ảnh hưởng của nhiều nhận vật nổi tiếng đã thành công trong việc
giữ vững giáo lý chính thống ở trong vùng, như Euthyme "người thực sự khai sáng phong trào đan tu ở
Judée", qua đời năm 473 ; kế đó là Sabbas (439 - 542), một
người miền Cappadoce, thành lập rất nhiều đan viện. Cyrille de Scythopolis
(khoảng 523 - 558), kế tục hai vị nói trên, đã ghi lại tiểu sử của họ. Giữa
cuộc tranh cãi về Origène, Cyrille de Scythopolis tuy gọi là thất học nhưng lại
là người có khiếu và hâm mộ Denys lAréopagite, ông viết lại hạnh tích của bảy
Ðan Sĩ nổi bật, một cách chừng mực, lưu ý tới các dữ kiện lịch sử hơn là những
truyền thuyết hoang đường.
Phong trào đan tu ở Palestine còn tạo được hai người bạn
chí thiết với nhau : Jean Moschus và Sophrone de Jérusalem. Chúng ta sẽ đề cập
đến Sophrone trong phần bàn về nhất tính thuyết. về Jean Moschus, ông xuất bản
một tác phẩm hết sức phổ thông : "Ðồng
cỏ thiêng liêng" (Pré spirituel) viết về cuộc đời của hơn 300
nhà khổ tu đương thời, với nội dung khuyến thiện. Năm 619, tác giả qua đời,
Sophrone hoàn tất và xuất bản tác phẩm đó.
Chúng ta có thể kể thêm trung tâm Gaza và phong trào đan
tu ở Palestine, trung tâm này, trong tiền bán thế kỷ VI, đã tạo được Barsanuphe
và Jean le Prophète (Gioan nhà tiên tri), người ta cho rằng hai vị này là tác
giả của gần 800 bức thư, trong đó có 100 bức gửi cho Dorothée, một môn đệ của
họ tại Gaza. Vào giữa thế kỷ VI, Dorothée cũng đã soạn "23 chỉ dẫn thiêng liêng" (Instructions
spirituelles) chứa đựng những kinh nghiệm khôn ngoan về cuộc sống và nhấn mạnh
đến đời sống cộng đoàn. Nhóm Gaza này sẽ ảnh hưởng trên Jean Climaque.
CÁC ÐAN SĨ KHUYẾN THIỆN
CỦA "ÐỒNG CỎ THIÊNG LIÊNG".
144. (.) Một anh em hỏi một đan sĩ :
"Tại sao tôi luôn luôn xét đoán anh em ?". Vị đan sĩ trả lời :
"Bởi vì bạn chưa biết chinh bạn. Vì kẻ nào biết chính mình, kẻ ấy sẽ không
thấy điều anh em mình làm".
156. Hai triết nhân nọ đến bàn với một
đan sĩ và xin ngài cho họ một lời khuyên. Nhưng đan sĩ thinh lặng. Các triết
nhân lập lại : "Thưa ngài, ngài không trả lời chúng tôi sao ?" Lúc ấy
vị đan sĩ đáp lại : "Tôi biết anh em là người ưa thích luận thuyết, nhưng
tôi đoan chứng là các anh không phải là bạn đích thực của khôn ngoan
[Philosophe - ami de Sagesse]. Các anh vẫn còn nói đến bao giờ trong khi các
anh không hề hiểu nói có nghĩa là gì ! Chớ gì việc triết lý của anh em phải là
luôn luôn suy niệm về sự chết và hãy ở trong thinh lặng và tĩnh mịch.
SC no. 12, pp. 195 et 210 ; Trad. M. J.
Rouet de Journet.
KHÔN NGOAN TRONG VIỆC
ÐIỀU KHIỂN CÁC ÐAN SĨ.
Nếu anh là người được giao trách vụ, thì
hãy lo chăm sóc anh em mình với tâm hồn nghiêm nghị và với tấm lòng nhân từ.
Hãy dùng việc làm và lời nói mà chỉ cho họ biết phải thi hành những gì, nhưng
nhất là việc làm, vì gương lành thì có hiệu lực hơn rất nhiều. Hãy nêu gương
cho họ ngay cả trong những công việc thể lực, nếu anh có thể, nhược bằng anh là
người yếu ớt, thì hãy nêu gương bằng tâm hồn lành mạnh và những hoa quả của
Thánh Thần như Thánh Tông Ðồ đã liệt kê : mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi,
tốt lành, lương thiện, tín trực, hiền từ, tiết độ (xem Gal 5, 22 - 33). Trước
những lỗi lầm xảy ra đừng quá đỗi giận dữ, nhưng hãy bình tĩnh chỉ cho họ thấy
hậu quả tai hại của nó, còn nếu phải khiển trách, thì hãy giữ thái độ sao cho
thích hợp và chờ thời gian thuận tiện. Ðừng quá lưu tâm đến những sai lầm nhỏ
nhặt như thể một pháp quan khắc nghiệt, đừng hay quở mắng vì như vậy không ai
chịu đựng được, mà rồi khi thành thói quen thì sẽ đi đến chỗ không còn nhạy cảm
và khinh thường. Ðừng hống hách ra lệnh, nhưng hãy khiêm nhường đề xuất công
việc cho anh em : hành động như thế là động viên anh em, nó có sức thuyết phục
hơn và tạo được bình an cho người lân cận.
Dorothée de Gaza. Lettre 2, SC no. 92,
p. 499 ;
Trad. L. Regnault et J. de Préville.
JEAN CLYMAQUE.
Jean vào tu viện Sinai lúc còn trẻ, trải qua một thời kỳ
dài sống cô tịch, trước khi trở thành bề trên cộng đoàn, và qua đời khoảng năm
650. Ông có soạn một "Sách dành cho mục
tử" (Livre au pasteur) vắn tắt, gửi cho bạn thân là Raithu,
người phụ trách đan viện. Nhưng chủ yếu ông là tác giả cuốn "Chiếc thang Thiên Ðường" (LÉchelle
du Paradis), chính nhờ tác phẩm này mà ông thường được gọi với biệt danh "Climaque" (klimax nghĩa là
chiếc thang), gợi lại chiếc thang của Jacob. Ông mô tả con đưòng đi lên của
linh hồn trong 30 phân đoạn, mỗi phân đoạn gồm các châm ngôn hoặc câu chuyện,
và như thế, chúng trở thành những "nấc
thang", con số 30 gợi lại 30 năm sống ẩn dật của Ðức Giêsu. 23
nấc thang đầu, trên nguyên tắc, được dành để chống lại những khuyết điểm, 7 nấc
thang cuối để chiếm lĩnh các nhân đức. Tuy nhiên, phần đầu lại thường xét đến các
chiến thắng của sự khổ chế : dịu hiền, thinh lặng, nghèo khó . Ba nấc thang
cuối cùng của đời sống thực hành là : đơn sơ (24), khiêm nhường (25), biện biệt
(26). Từ đời sống thực hành khổ chế đó bước qua sự kết hiệp với Thiên Chúa được
mô tả trong bốn từ ngữ : hèsychia (27) (bậc chiêm niệm an tĩnh), cầu nguyện
liên lĩ (28), apatheia (29) (an định, linh hồn không còn bị dục vọng làm xáo
trộn) và tình yêu (30). Tuy nhiên, bốn ý niệm cuối cùng này không nên xem như
những giai đoạn của một tiến trình đi lên, cho bằng là những khía cạnh khác
nhau của cuộc gặp gỡ khôn tả với Thiên Chúa, trong đức ái, "hố thẳm bất tận của những soi sáng thần
linh".
Tác phẩm "Chiếc
thang" mang đậm nét tất cả truyền thống đan tu Ðông phương và
cả Latinh nữa. Chẳng hạn trong đó, chúng ta thấy tác giả thiết tha khuyên, thậm
chí là lời khuyên tha thiết nhất, hãy "nhớ
tới Chúa Giêsu gắn liền với hít thở". Nếu bố cục của tác phẩm
có hơi lộn xộn, và tác giả cũng biết rõ điều đó, thì cách diễn đạt lại hết sức
cô đọng, các ý niệm sử dụng gây tác động mạnh, khiến đôi lúc tác phẩm cho ta ấn
tượng lạ lùng về tính hiện đại của nó.
Cho đến đây, chúng ta mới chỉ đề cập đến các đan sĩ theo
đúng nghĩa của nó, nếu có thể nói như thế, những người nổi bật do đời sống tu
trì. Các nhân vật mà chúng ta sẽ đề cập tiếp theo đây, nói chung cũng thuộc vào
môi trường đan tu thế nhưng họ còn nổi bật nhờ những công đức khác.
NƠI CHÓP ÐỈNH CỦA CHIẾC
THANG THIÊNG LIÊNG.
Xét về phẩm tính, tình yêu là sự nên
giống với Thiên Chúa, trong mức độ mà con người hữu hạn có thể đạt tới được.
Xét về hoạt động, tình yêu là cơn say của tâm hồn. Xét về đặc tính, nó là nguồn
suối của đức tin, là vực thẳm của bao dung, là đại dương của khiêm nhường (.)
Tình yêu, an định (apatheia), và ơn
dưỡng tử thần linh chỉ khác nhau về từ ngữ mà thôi. Cũng như ánh sáng, lửa và
ngọn lửa góp phần vào cùng một hoạt động như thế nào, thì hãy nghĩ về những
thực tại ấy như vậy (.)
Tình yêu là vị mạnh thường quân của lời
tiên tri. Tình yêu cung cấp những phép mầu. Tình yêu là hố thẳm của soi sáng.
Tình yêu là nguồn lửa, càng trào tuôn thì càng đốt cháy kẻ khát khao. Tình yêu
là một trạng thái thiên thần, tình yêu là tiến trình vĩnh cửu. Hỡi mỹ nhân,
giữa các nhân đức, nói cho chúng tôi hay, nàng chăn cừu nơi đâu, nàng căng lều
che nắng nơi nào. Hãy soi sáng cho chúng tôi, cho chúng tôi uống, hướng dẫn
chúng tôi đi, hãy cầm tay dẫn dắt chúng tôi, khi chúng tôi còn đang mong muốn
đến với nàng.
(.) Tôi thật ước ao muốn biết Jacob đã
chiêm ngưỡng nàng dựa vào chiếc thang như thế nào. Xin hãy giải thích cho tôi,
đối với người đang say đắm, muốn leo lên như thế thì phải theo thể thức nào,
phải kết hợp các nấc thang làm sao, những nấc thang mà người yêu của nàng đã
xếp đặt trong trái tim kẻ đang yêu. Tôi thật khao khát muốn biết số lượng và
thời gian của hành trình ấy.
Jean Climaque, Échelle spirituelle XXX. 7, 9 và 37
- 38, 1156B và 1160C.
Hành
trình các "nấc thang" được nói đến trong đoạn trích này được dùng để
gọi 30 chương của tác phẩm.
II. TỪ NHẤT TÍNH THUYẾT ÐẾN NHẤT Ý
THUYẾT.
(monophysisme - monothélisme).
LỊCH SỬ.
Công Ðồng Constantinople thứ hai vẫn chưa giải quyết được
vấn đề nhất tính thuyết. một nỗ lực hòa giải khởi phát từ các thần học gia
chính thống có ý hướng tốt, đã đem lại cho vấn đề một dạng thức mới. Sergius,
Thượng Phụ Constantinople (610 - 638) khởi thảo một sắc lệnh (psèphos) gồm chín
chương vào năm 633, dưới sự bảo trợ của hoàng đế Héraclius. Sergius hoàn toàn
nhìn nhận hai bản tính nơi Ðức Kitô và trên thực tế bác bỏ chủ trương nhất tính
thuyết đi ngược với Chalcédoine. Nhưng vì nhạy cảm với trình thuật Tin Mừng về
cơn hấp hối cũng như với hai lời nói của Ðức Giêsu ("Nếu được, xin cất chén này khỏi Con" và "Xin đừng theo ý Con, nhưng xin theo ý Cha").
Ông giải quyết mâu thuẩn giữa hai thái độ này bằng cách cho rằng, sự từ chối (uống
chén đắng) không phải là một hành vi của ý chí mà chỉ là xác thịt. Và như vậy
Ngôi Lời vẫn là nguyên lý duy nhất của hoạt động và là chủ thể quy thuộc (sujet
dattribution). Trong thuyết đơn độc lực này (độc hành động, monoenergisme), các
tài năng hoạt động và ý chí của con người tuy không bị phủ nhận triệt để nhưng
bị giản lược vào vai trò dụng cụ, bị mất hút trong thần tính. Dù thế nào đi
nữa, nhân tính cũng mất đi tự do và tính vững chãi toàn vẹn của nó
(consistance), toàn bộ đời sống luân lý của Ðức Kitô đều được quy về Ngôi Vị
của Ngôi Lời. Nơi Ðức Kitô, con người bị cắt cụt một cách bi thảm, nhân tính
nóng còn là thành phần liên kết trong hành vi cứu độ, và nếu như thế thì hành
vi cứu độ của con người tự do làm sao thực hiện được ?
Thế nhưng, Sergius đã cất tiếng hò chiến thắng và thông
báo cho Giáo Hoàng Honorius năm 634 chiến thắng của hiệp nhất [toàn vùng Aicập,
- dưới sự thúc đẩy của Sergius, đã đồng ý với nhau về một tập công thức, gọi là
Tập Công Thức Hiệp Nhất năm 633, trong đó có chủ trương độc hành động
(monoenergisme)]. "Hết thay thảy (những
kẻ lạc giáo trước đây) nay đều đồng thanh, đồng lòng, trong sự hiệp nhất của
Thánh Thần, tuyên xưng những tín điều chân thực của Giáo Hội, trong số những
điều đã được thoả thuận có khoản về một hành động duy nhất". Ông
đề nghị Ðức Giáo Hoàng nên giữ thinh lặng về vấn đề này. Ðức Honorius đã để
mình bị gạt gẫm, và trong hai đáp thư liên tiếp, ngài đã không "khẳng định có một hoặc hai hành động nơi Ðấng
Trung Gian giữa Thiên Chúa và nhân loại", và còn tuyên xưng
cách bất ngờ rằng "chỉ có một ý chí duy
nhất nơi Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta". Về phía Sergius, ông
tiếp tục lấn tới, được phép hoàng đế xuất bản tập Tuyên xưng" (ecthèsis) năm 638, khẳng định chủ trương
nhất ý này (monothélisme).
Nhưng rồi, các Ðức Giáo Hoàng kế vị Ðức Honorius đã phản
kháng lại. Ðể đối phó, hoàng đế Constantin II, năm 648 còn đi xa hơn "Ecthèsis", ông đưa ra chiếu chỉ
"Type" (Kiểu mẫu) buộc
phải thinh lặng về vấn đề đó, phải xem như vấn đề đã giải quyết xong. Tuy
nhiên, sự chống đối các hoàng đế càng gia tăng. Năm 649, Ðức Giáo Hoàng Martin
triệu tập một Công Ðồng tại Latran, xác định sự kết hợp "bản thể" (union substantielle)
giữa hai bản tính nơi Ðức Kitô, đồng thời minh nhiên phi bác chủ trương chỉ có
một hành động và một ý chí nơi Ðức Kitô. Công Ðồng Constantinople III, năm 680
- 681, tức Công Ðồng chung thứ sáu, tuyên bố dứt khoát rằng, nơi Ðức Kitô có
hai hoạt động thuộc bản tính (duo physicas energeia) và hai ý chí thuộc bản
tính (duo physicas telemata) trong sự phục tùng trọn vẹn của nhân tính đối với
thần tính.
Việc trở lại với ý kiến thần học này được thực hiện trong
45 năm, là công trình của các Ðức Giáo Hoàng (Jean IV, Théodore I, Martin I .),
nhưng đặc biệt là của hai nhà thần học Sophrone de Jérusalem và Maxime le Confesseur.
"Ở ÐÂY, SỐ PHẬN
CON NGƯỜI BỊ ÐE DỌA" (XUNG QUANH NHẤT TÍNH THUYẾT CỦA MONOPHYSISME).
Ở đây, số phận con người bị đe dọa cũng
nghiêm trọng như trong cơn khủng hoảng Ariô. Và đặc biệt là trong những hình
thức giảm nhẹ của nhất tính thuyết : thuyết độc hành động (monoénergisme) - chỉ
có một hành động hay một hoạt động nơi Ðức Kitô - nhất là thuyết nhất ý
(monothélisme) - chỉ có một ý chí nơi Ðức Kitô, ý chí thần linh thu hút mất ý
chí nhân trần của Ðức Giêsu, hai thuyết này lại được các hoàng đế ở thế kỷ VII
ủng hộ nhằm củng cố quyền lực trên vùng Cận Ðông vốn đang bị Batư và sau đó là
Hồi Giáo đe dọa. Nếu Kitô giáo đi theo chủ trương nhất tính hoặc nhất ý, thì
chiều kích nhân linh của lịch sử, sự tự do mang tính chất bi thảm và sáng tạo
của con người, và thực tại riêng biệt của thụ tạo sẽ khó có thể tự khẳng định
và hiện lộ trong một nhân bản thuyết Kitô giáo (humanisme chrétien), một
"thần-nhân bản thuyết" (divino-humanisme). Kitô giáo hẳn sẽ quên đi ý
nghĩa sêmít của từ xác phàm và lịch sử, mà các nhà chú giải lớn ở Antioche đã
bảo vệ theo cách thức của họ, tuy không phải là không có nguy cơ rơi vào thái
cực ngược lại. Hẳn Kitô giáo cũng sẽ quên đi sự phản kháng của Job và cuộc vật
lộn với "thần sứ", quên đi sự quân bình tuyệt diệu giữa nhân tính và
thần tính, giữa ý chí thần linh và ý chí nhân trần kết hiệp với nhau
"không lẫn lộn, cũng không phân chia" nơi Ðức Kitô, như Công Ðồng
Chalcédoine đã xác định năm 451 và Công Ðồng Constantinople III năm 680.
(O. Clément, Sources, Les mystiques
Chrétiens origines, Paris, 1982, p. 335).
GIÁO HỘI KHẲNG ÐỊNH DỨT
KHOÁT VỀ ÐỨC KITÔ.
CÔNG ÐỒNG
CONSTANTINOPLE III (680 - 681).
Chúng tôi tuyên bố nơi Ngài có hai ý chí
(hoặc ý muốn) thuộc bản tính và hai hoạt động thuộc bản tính "không phân
chia, không biến đổi, không tách biệt, không lẫn lộn" theo giáo lý của các
Thánh Phụ. Không thể chấp nhận việc hai ý chí thuộc bản tính lại đối nghịch
nhau như các kẻ lạc giáo vô đạo chủ trương, nhưng ý chí nhân trần tùng phục,
không cưỡng lại cũng không chống đối, mà ngược lại tuân phục ý chí thần linh và
quyền năng . Ý chí nhân trần của Ngài được nói lên và thực sự là ý chí thuộc về
Ngôi Lời Thiên Chúa (.) vì chưng, cũng như thân xác Ngài, vốn được phú ban một
linh hồn, một thân xác rất mực thánh thiện và vô phương trách cứ, đã không bị
tiêu hủy khi được thần hóa, nhưng vẫn ở trong trạng thái và đặc tính riêng biệt
của mình, thì cũng vậy, ý chí nhân trần của Ngài được thần hóa nhưng không bị
tiêu hủy hay đúng hơn, đã được bảo toàn.
Theo sau Ðức Léon, người được linh hứng,
chúng tôi tuyên bố có hai hoạt động thuộc bản tính "không phân chia, không
biến đổi, không tách biệt, không lẫn lộn", trong cùng một Ðức Giêsu Kitô
Chúa chúng ta và là Thiên Chúa thật, nghĩa là hoạt động thần linh và hoạt động
nhân trần . Chúng tôi sẽ không bao giờ chủ trương chỉ có một hoạt động thuộc
bản tính Thiên Chúa và thuộc bản tính (nhân loại), để tránh việc nâng thụ tạo
lên hàng bản thể thần linh, cũng như không hạ sự tuyệt hảo của bản tính thần
linh xuống hàng dành cho tạo vật. Chúng tôi nhận biết các phép lạ cũng như các
cảm thụ (passions) như là của một và cùng một Ðấng, tùy theo mỗi đặc tính của
hai bản tính mà từ đó Ngài được cấu thành và trong đó Ngài hiện hữu .
Chúng tôi khẳng định hai bản tính tỏ lộ
nơi một Ngôi Vị, trong Ngôi Vị đó, Ngài đã thể hiện các phép lạ cũng như các
cảm thụ trong suốt nhiệm cuộc của Ngài, một cách thực sự chứ không phải chỉ là
bề ngoài. Sự khác biệt về bản tính trong chính Ngôi Vị duy nhất được nhận ra
qua sự kiện mỗi bản tính ước muốn và thực hiện điều thuộc về riêng mình
"trong sự hiệp thông với bản tính kia", không phân chia, không lẫn
lộn. Vì lẽ đó, chúng tôi tin nơi Ngài cũng có hai ý chí và hai hoạt động thuộc
các bản tính cùng góp phần vào việc cứu độ nhân loại.
(J.D. Mansi, Ampliss, coll. Conc. VI, Paris, Leipzig
1901, 638 - 639A. Bản dịch của Liébaert Revue).
SOPHRONE DE JÉRUSALEM.
Sophrone sinh tại Damas lối năm 550, sau khi hấp thụ một
nền học vấn đầy đủ, ngài đã chọn đời sống đan tu, và đã sống đời sống đó một
cách khá lạ lùng, lần lượt đi qua Aicập, Palestine, Roma rồi Phi Châu, nơi mà
chắc chắn ngài đã là Bề Trên của Maxime, vị "Confesseur"
(Tuyên tín) tương lai. Và rồi năm 633, ngài đã xuất hiện cách rất
đúng lúc [vì đây là năm bản công thức hiệp nhất, trong đó có chủ trương "độc hành động" (monoenergisme)
do Sergius và Cyrus đưa ra], và sau đó qua Constantinople. Ngài tố cáo "Công thức về một hành động độc nhất"
trong bản công thức thoả thuận giữa Cyrus và Sergius, và van nài hai vị Thượng
Phụ hãy từ bỏ điều đó, nhân danh những đau khổ đem lại sự sống của Ðức Kitô -
Thiên Chúa. Ðến Jérusalem, ngài được phong làm Thượng Phụ vào đầu năm 634, lúc
đã ngoài bát tuần, một thủ phủ xưa đã rơi vào tay Batư (614) và nay đang bị
quân Ảrập xâm chiếm. Tháng 2 năm 638, ngài buộc phải trao Thành Thánh cho hoàng
tử Omar. Ngài đã trao Thành trong danh dự và qua đời ít lâu sau đó.
Sophrone đã khiến Maxime vĩ đại rất khâm phục và đã nói về
ngài như sau : Ðó là con người bằng lời lẽ
và hành động có khả năng chống lại mọi lạc giáo". Ngài tạo được
ảnh hưởng sâu xa lên thời đại mình, nhưng các trước tác của ngài mà người ta
biết được thì không bao nhiêu : vài bức thư, ít bài giảng, ba hoặc bốn hạnh các
thánh và một số thánh thi. Trọng tâm tư tưởng của ngài là càc "mầu nhiệm", đối nghịch lại khôn
ngoan theo kiểu loài người, nhất là các Mầu Nhiệm Ba Ngôi và Nhập Thể. Tuy
nhiên, các hoàn cảnh xảy đến đã khiến ngài đặc biệt dừng lại nơi con người Ðức
Kitô. Ðể bảo vệ Ðức Kitô, ngài chống lại cả Nestorius lẫn Eutychès, xem cả hai
đều là "những kẻ đáng thương hại".
Ðó cũng là nội dung chính của "Bức
thư nhân lễ đăng quang" (Lettre synodale dintronisation) mà
ngài gửi cho Sergius và cho Giáo Hoàng Honorius. Ngài khẳng định hai ý chí và
hai hoạt động nơi Ðức Kitô, và xác định rõ, trong cuộc Khổ Nạn, Ðấng Cứu Thế "chịu những đau khổ nơi thể xác (.) khi chính
Ngài đã quyết định chịu đau khổ, hành động và thực hiện như một con
người", tự nguyện nhận lấy ý định của Chúa Cha làm của mình.
Việc thần hóa mọi người phát xuất từ "nhiệm
cục Nhập Thể" (économie incarnée) : Thiên Chúa đi đến với chúng
ta, nhưng nếu chúng ta không đáp lại bằng việc đi đến với Ngài, thì chúng ta sẽ
không gặp gỡ được Thiên Chúa : "Chớ gì
không ai bước khập khiễng trong cuộc ra đi đầy khát khao nồng cháy đó".
HAI BẢN TÍNH CỦA ÐỨC
KITÔ TRONG HOẠT ÐỘNG PHỐI HỢP (SYNERGY)
CÁCH KHÔNG PHÂN CHIA
CŨNG KHÔNG LẪN LỘN.
Chúng tôi, những người theo đức tin
chính thống, đứng trong những giới hạn của đức tin đích thực, muốn dạy rằng,
một đàng, một và cùng một Ðức Kitô có hai hoạt động, vì lẽ Ngài là Thiên Chúa
và là con người, và chúng tôi không muốn có bất cứ sự phân chia nào, đàng khác,
khi tuyên xưng mỗi hình thái [bản tính] thực hiện điều thuộc về riêng mình
trong sự hiệp thông với hình thái [bản tính] kia, (vì nơi Ðức Kitô có hai hình
thái [bản tính] thực hiện cách đương nhiên những gì thuộc riêng mỗi hình thái
[bản tính]). Chúng tôi không hề muốn chấp nhận một sự phân chia nào, dù theo
kiểu của Eutychès mà hiện nay chúng ta đang phải bận tâm, hay theo kiểu của
Nestorius mà chúng ta đang phải bận tâm trước đây, vì khi công kích chúng tương
quan cách vô đạo, chính họ cũng không đồng ý với nhau. Họ chủ trương thế nào
cũng mặc, phần chúng tôi, chúng tôi nhìn nhận mỗi bản tính có hoạt động riêng,
tôi muốn nói là, một hoạt động thuộc yếu tính (opération essentielle), thuộc
bản tính (naturelle) và cân xứng (proportionnée). Mỗi hoạt động phát xuất -
cách không thể phân chia - từ mỗi yếu tính và bản tính của mình, theo phẩm tính
tự nhiên và cốt yếu của mỗi bản tính, và mỗi bản tính dẫn theo hoạt động phối
hợp (synergie) của bản tính kia cách không phân chia cũng không lẫn lộn. Ðó
chính là điều làm nên sự khác biệt giữa các hoạt động nơi Ðức Kitô, cũng y như
hữu thể của các bản tính tạo nên sự khác biệt giữa chính những bản tính ấy.
Thật vậy, thần tính và nhân tính không đồng nhất dưới khía cạnh phẩm tính vốn
gắn liền với mỗi bản tính, mặc dù hai bản tính ấy kết hợp với nhau cách khôn tả
trong một ngôi vị duy nhất, và mặc dù hai bản tính mang lại cho chúng ta một và
cùng một Ðức Kitô và là Chúa Con nhờ sự hiệp nhất và kết hợp của hai bản tính với
nhau theo ngôi vị.
(Sophrone, Lettre Synodale, PG 87/3, 3169C - 3172A;
Trad Chalcédoine. Von Schonborn. Sophrone de
Jérusalem, vie
Monastique et confession dogmatique, Paris 1972, p.
200 - 203).
MAXIME LE CONFESSEUR (NGƯỜI TUYÊN TÍN).
Một Chứng Nhân Tự Chuốc lấy Cái Chết Thảm
Khốc.
Người môn đệ hiển nhiên vượt hẳn thầy mình. Sau cuốn "Liturgie cosmique" (Phụng vụ
hoàn vũ) của Urs von Balthasar (1941) khuôn mặt Maxime le Confesseur đã khiến
bao nhiêu tác phẩm ra đời, đặc biệt kể từ hai thập niên cuối cùng này, và tất
cả đều nhất trí nhìn nhận Maxime mệnh danh "Người
tuyên tín" (Le Confesseur) là thần học gia thần bí vĩ đại,
nhưng người ta lại không đồng ý với nhau về các biến cố của cuộc đời ngài trong
50 năm đầu cũng như tiến triển tư tưởng của ngài về tín lý. Về quãng đời rất
dài nhưng không được rõ của ngài (580 - 632) người ta ghi nhận mối quan hệ của
ngài với hoàng đế Héraclius, và việc ngài lưu ngụ ở đan viện Chrysopolis trên
bờ Bosphore. Năm 632, ngài xuất hiện như một đan sĩ tại Carthage, dưới quyền
của Sophrone.
Trong lúc Sophrone đi đến các nơi để chống thuyết nhất ý,
thì Maxime ở lại Phi Châu và theo đuổi công trình thần học lớn lao của mình.
Ngài nổi danh đến nỗi Pyrrhus, vị cựu Thượng Phụ Constantinople, người kế vị
Sergius nhưng đã bị truất chức năm 645, đã đến đối đầu với ngài trong một cuộc
tranh luận công khai, và rốt cuộc Pyrrhus phải chịu khuất phục. Maxime sang
Roma cùng với vị này. Ngài tham dự Công Ðồng Latran năm 649, không rõ với tư
cách nào, chỉ biết rằng ngài đã đóng một vai trò khá quan trọng, cùng với Ðức
Giáo Hoàng Martin I chịu trách nhiệm về các quyết định. Vì không chấp nhận bất
cứ nhượng bộ nào đối với chính quyền. Ngài đã bị kết án năm 652 cùng với Ðức
Giáo Hoàng, bị bắt năm 653, bị giải sang Constantinople rồi bị lưu đày. Khi
Giáo Hoàng Martin qua đời năm 655, Maxime, vì thái độ bất khuất không hề lay
chuyển trước các mưu toan hòa giải, ngài đã bị chuyển từ Thrace đến tận bờ Hắc
Hải. Dù già yếu, ngài vẫn luôn là con người bất khuất, bị cắt lưỡi, chặt bàn
tay phải, và hoàn tất cuộc tử đạo (martyre, tuyên chứng) của mình bên Caucase,
ngày 13 tháng 8 năm 662.
Công trình trước tác của Maxime là một cuộc tìm kiếm, với
những do dự và tiến triển của nó. Chính các tựa đề cũng thường minh chứng điều
đó. Chúng ta có thể tạm phân loại tác phẩm của ngài, nhưng vẫn ý thức rằng tư
tưởng của ngài bàng bạc trong tất cả . Loại chủ yếu là về chú giải gồm : 65 vấn
đề gửi Thalassius ; 19 vấn đề và nghi vấn ; 3 vấn đề gửi Théopemtus ; chú giải
Thánh Vịnh 59 ; chú giải Kinh Lạy Cha. Loại chủ yếu về tín lý gồm : Các vấn nạn
(Ambigua) ; giải thích các bản văn của Grégoire de Naziance và của Denys l
Aréopagite ; 27 tiểu luận thần học và bút chiến ; 200 chương về thần học và
nhiệm cục (2 Centuries sur la théologie et léconomie). "Tranh luận với Pyrrhus" (Dispute
avec Pyrrhus) thuật lại cuộc tranh luận năm 645 và một số bức thư mà thực ra là
khảo luận. Tác phẩm thiêng liêng và tu đức thì gồm một số bức thư khác ; 400
chương về đức ái (4 Centurius sur la charité) cùng với "đối thoại về đời sống tu đức" (Dialogue
sur la vie ascétique) ; 200 chương về tri thức và nhiệm huấn (2 Centuries
gnostiques et la Mystagogie) dựa trên nền tảng phụng vụ. Tóm lại, đây là một
công trình đồ sộ và độc đáo.
MỘT BỊ CÁO HIÊN NGANG
VÀ ÐANH THÉP.
Người ta biết được chi tiết cuộc tra tấn
là nhờ thư ký Anastase (bạn của Maxime). Giữa nhưng màn đe loi hay dụ dỗ,
Maxime lúc nào cũng tỏ ra hiên ngang, bình thản, vững vàng và rành mạch trong
các lời tuyên tín của mình, và thường là những lời thẳng thắn và đanh thép. Khi
được hỏi : Tại sao ông lại yêu người Roma và ghét người Hylạp, thì người tôi tớ
Thiên Chúa trả lời : Chúng tôi được lệnh truyền không được ghét ai cả. Tôi yêu
người Roma vì niềm tin của họ là niềm tin của tôi. Tôi yêu người Hylạp là vì
ngôn ngữ của họ là ngôn ngữ của tôi. Sau đây là trích đoạn một phiên tòa.
Quan Serge nói với ngài : "Ta
thường xuống xà lim của ngươi ở Bebbas, và đã nghe ngươi giảng dạy, Ðức Kitô có
thể trợ giúp ngươi đấy, vậy thì đừng sợ. Tuy nhiên có một điều duy nhất ngươi
làm cho mọi người buồn lòng đó là : Vì ngươi mà nhiều người xa lìa sự hiệp
thông với Giáo Hội ở đây".
Người tôi tớ Chúa đáp : "Liệu ai có
thể khẳng định rằng tôi đã nói : "Ðừng hiệp thông với Giáo Hội ở Byzance
?" Serge trả lời : "Sự kiện ngươi không hiệp thông tự nó đã là một tiếng
nói mạnh mẽ, bảo mọi người đừng hiệp thông rồi". Người tôi tớ Chúa đáp :
"Không có gì mãnh liệt bằng sự trách cứ của lương tâm, cũng không có gì
làm vững lòng hơn sự tán thành của lương tâm".
Bấy giờ ngài Troilos, vì nghe tin
"Typos" (Chiếu chỉ của Constantin II) bị vạ tuyệt thông trên toàn cõi
Tây phương, đã nói với người tôi tớ Chúa : Tư tưởng của vị hoàng đế sùng đạo
của chúng tôi đã bị đối xử xấc láo, phải thế không ? Người tôi tớ Chúa đáp ;
Nguyện xin Thiên Chúa thứ tha cho những kẻ đã thúc đẩy hoàng đế viết ra Typos
và cho cả những kẻ tán thành chiếu chỉ đó. Troilos nói : vậy những ai đã thúc
đẩy hoàng đế là những vị đại diện của Giáo Hội, và kẻ tán thành là các thủ lĩnh
chính trị. Ðó cũng là lý do tại sao những kẻ chịu trách nhiệm về vết nhơ lại
trút vết nhơ trên người vô tội, không hề dính vào bất cứ lạc giáo nào.
(PG 90. 124C - 125A, Théologie de lagonie du Christ
; Trad. Fr. Lathel.
Ðoạn văn này không nằm trong những đoạn mà H.
Rahner trích dẫn trong
"LÉglise et LÉtat dans le christianisme primitif",
p. 30 - 325).
Một Kitô Học Tế Vi.
Maxime là người có óc triết học, sử dụng ngôn ngữ chuyên
môn, vả lại, rất khó hiểu. Có lẽ cũng vì thế mà ngài đã làm cho Kitô học tiến
triển hơn so với "Tome de Léon à
Flavien" và ngay cả so với Sophrone. Ðức Kitô, cùng với con
người, nằm ở tâm điểm huyền nhiệm vĩ đại của Thiên Chúa. Con người là trung tâm
của tạo dựng, là hình ảnh của Thiên Chúa, và trong một mức độ nào đó con người
đã mang ơn gọi thực hiện sự thống nhất (unificateur). Thế nhưng tội của Ađam, mà
từ muôn thuở Thiên Chúa đã dự kiến trước trong kế đồ của Người, và đã không hối
tiếc về tội của mình, chính tội của Ađam đã biến khả năng yêu thương thành
những thèm khát nhục dục và ích kỷ. Nói theo kiểu đối nghịch mà Maxime rất
thích sử dụng thì "cách"
(tropos) sống của con người không còn phù hợp với "Lý tính" (logos, hay nguyên lý) của bản tính mình
nữa, không còn phù hợp với ơn gọi cốt yếu của mình nữa. Sự bất tuân của con
người đã phá hỏng chương trình của Thiên Chúa. Tạo vật sa ngã đã rời xa Ðấng Tạo
Dựng. Hiệp nhất nhường bước cho chia rẽ. Tuy nhiên, "Thánh Ý vĩ đại, vô lường vô hạn, từ trước muôn đời của Thiên
Chúa", qua việc Nhập Thể của Ngôi Lời của Người, đã làm cho
Ngôi Lời trở thành Ðấng Trung Gian tuyệt hảo giữa thụ tạo (le crée) và bất-thụ-tạo
(lincrée). Và theo Maxime, một sự tái lập như thế (restauration) sẽ không thể
có được trong một quan niệm nhất ý về Ðức Kitô (monothélite, Ðức Kitô chỉ có
một ý chí) : Làm sao con người có thể canh tân mình cách tự do nếu nơi Ðấng
Trung Gian không có ý chí nhân loại ? Chính trong mạch tư tưởng đó, Maxime đã
đưa ra quan niệm rất tế vi về hai bản tính nơi Ngôi Lời Nhập Thể.
Vào những năm 633 - 634, trong thư gửi Pyrrhus, Maxime -
cũng như Giáo Hoàng Honorius vì chú tâm đến tính duy nhất của ý muốn cụ thể
(vouloir concret) nơi Ðức Giêsu, đã nồng nhiệt tán thành "sắc lệnh" của Sergius mà không
nghĩ đến việc phân biệt hai ý chí nơi Ðức Kitô. Sau đó, khi suy tư về cơn hấp
hối của Ðức Giêsu, dưới ánh sáng học thuyết của ngài về "nguyên lý" (logos) và "cách" (tropos) hiện hữu, dần
dần ngài đã chống lại chủ trương của Sergius. Ngài lưu ý rằng, để giữ cho mỗi
bản tính không bị biến tính (altérée) trong "nguyên
lý" (logos) yếu tính của mình, thì hai bản tính thiết yếu phải
có những năng lực và hoạt động cùng thuộc về bản tính (connaturelles), nhất là
ý chí, vì ý chí là nguồn của năng lực và hoạt động. Nhưng mặt khác, bản tính và
các đặc tính, trong cụ thể, lại nằm trong "cách"
hiện hữu (mode dexistence), nằm trong một chủ vị hành động (personne
agissante), và trong trường hợp ở đây là ngôi vị độc nhất của Ðức Kitô, thủ
lãnh nhân loại. Ở mức độ của "cách"
(hiện hữu) được nâng cao, vượt trên bản tính này, ý muốn nhân loại
(vouloir humain) vẫn giữ nguyên vẹn nguyên
lý" thuộc bản tính của mình nhưng đồng thời tự nguyện hiệp nhất
với thái độ làm Con của Ngôi Lời, nhất là trong tiếng "xin vâng" của cơn hấp hối, và
như thế, ý muốn nhân loại đón nhận một "cách"
sống mới. Nói theo kiểu của F.M. Lethel "Ơn cứu độ của chúng ta được một Ngôi Vị Thần Linh muốn bằng một ý
muốn nhân linh - theo ý chí nhân loại của Ngài". Như thế, một
Ðức Kitô duy nhất, trong cả hai bản tính của Ngài là tác nhân "muốn và hành động" của Ơn Cứu
Chuộc (agent volitif et opératif ) (Maxime).
Việc canh tân bản tính nhân loại - không bị biến tính,
nhưng được thần hóa nhờ hiệp thông với Thiên Chúa trong Ngôi Vị của Ngôi Lời
Nhập Thể - kéo theo "sự canh tân mọi
bản tính" và việc tái thống nhất mọi thực tại : "Nhờ Ðức Kitô, nghĩa là mầu nhiệm theo Ðức Kitô,
mọi thời đại và tất cả các thực tại trong các thời đại đó nhận lấy nơi Ðức Kitô
khởi điểm và chung cục của hiện hữu". Như thế là hoàn thành
điều mà con người, ngay cả tín hữu, không thể nào thực hiện được, đó là "sự hiệp nhất đã được tiên liệu từ trước muôn
đời giữa giới hạn và vô hạn ; giữa lường hạn và vô lường (.) giữa Ðấng Sáng Tạo
và thụ tạo".
CON NGƯỜI ÐƯỢC BAN CHO
"HIỆN HỮU, HIỆN HỮU TỐT ÐẸP VÀ LUÔN ÐƯỢC HIỆN HỮU".
23. Các hữu thể thì nằm ngoài tinh thần,
còn trong chính tinh thần thì chỉ có biểu tượng (représentation) về các hữu
thể. Nhưng với Thiên Chúa, Ðấng Vĩnh Hằng, Vô Hạn, Vô Hình thì hoàn toàn khác,
Ngài là Ðấng ban cho chúng ta hiện hữu, thiện hữu và thường hữu.
24. Bản tính có tinh thần và lý trí
thông dự vào Thiên Chúa Chí Thánh bằng chính hữu thể của mình, bằng khả năng
hiện hữu tốt đẹp (tôi muốn nói, bằng khả năng hướng đến sự thiện, hướng đến
khôn ngoan) và bằng ơn huệ nhưng không, đó là luôn được hiện hữu. Chính nhờ sự
thông dự đó mà con người (bản tính có tinh thần và lý trí) nhận biết Thiên
Chúa. Còn về các thụ tạo thì con người có được tri thức về chúng, tôi xin lặp
lại, là nhờ nhận thức về Khôn Ngoan, Ðấng đặt định vạn sự mà con người chiêm
ngắm nơi các tạo vật, và Khôn Ngoan lại hiện diện nơi tinh thần, trong trạng
thái thuần khiết chứ không hiện diện dưới dạng bản thể.
27. Thiên Chúa, Ðấng chính là Hữu Thể,
chính Thiện Hảo là chính Khôn Ngoan, hay đúng hơn, nói cho cùng, Ngài siêu vượt
trên các phẩm tính ấy, Thiên Chúa tuyệt đối không thể có những phẩm tính trái
ngược nhau. Nhưng các thụ tạo, vốn hiện hữu là nhờ một sự thông dự hoàn toàn
nhưng không, và các hữu thể có lý trí và trí tuệ, tất cả đều có những phẩm tính
trái ngược ; bên cạnh hiện hữu là phi hữu (non-être, hư vô), bên cạnh khả năng
trở nên tốt lành và khôn ngoan là tính ác độc và sự ngu dốt. Thế nhưng sự hiện
hữu hay không-hiện-hữu (non-existence) của mọi thụ tạo là tùy ý muốn của Ðấng
Sáng Tạo nên chúng ; còn thông dự hay không thông dự vào Thiện Hảo và Khôn
ngoan thần linh thì lại tùy ở ý muốn của các hữu thể có lý trí.
Maxime, Centuries sur la Charité III SC no.
9,
p. 130 - 133 ; Trad. J. Pegon.
"NGUYÊN LÝ"
(LOGOS) VÀ "CÁCH" (TROPOS)
Các Giáo Phụ Cappadoce giải thích rằng,
nguyên lý (logos) của bản tính thì chung cho cả Ba Ngôi Thiên Chúa và thuộc về
duy nhất tính (monade, unité) còn "cách" (tropos) hiện hữu (phụ hệ,
tử hệ, nhiệm xuất - tức là các tương quan) thì thuộc riêng mỗi ngôi vị
(personnes) và thuộc về cá vị [hypostase = LÊtre déterminé, différencié,
existant à part soi]. Maxime đã nhận lấy hai khái niệm này và áp dụng vào thần
học về Ba Ngôi của ngài cũng như áp dụng trong nhiều lãnh vực khác, đặc biệt là
trong nhân học (anthropologie), nhằm phân biệt điều thuộc bản tính với điều
thuộc ngôi vị, và từ đó áp dụng vào Ðức Kitô. Mỗi bản tính của vị "Thần
Nhân" (LHomme-Dieu), Thần tính và nhân tính, luôn luôn giữ nguyên vẹn
"nguyên lý" (logos) của bản tính cũng như các đặc tính gắn liền với
bản tính nhưng tính duy nhất của ngôi vị mang lại cho hai bản tính một
"cách" hiện hữu mới, "canh tân các bản tính" bằng cách nâng
cao các bản tính trong các hoạt động của chúng "vượt lên trên bản
tính". Như trong cơn hấp hối của Ðức Kitô, ý chí nhân loại vốn gớm ghét
đau khổ và bộc lộc sự khước từ đau khổ, nhưng cũng chính ý chí nhân loại đó,
trong ngôi vị của Ngôi Lời, đã thuận theo chương trình của Chúa Cha và muốn chịu
đau khổ. Như thế, ý chí nhân loại một cách nào đó đã được thần hóa trong sự lựa
chọn của mình, đồng thời vẫn là ý chí nhân loại nguyên vẹn, khác biệt với ý chí
của Ngôi Lời. Sau đây là một vài áp dụng sự phân biệt (giữa Logos và Tropos)
hết sức quan trọng nơi Maxime. Các trích dẫn và phần lớn các bản dịch ở đây
mượn lại của J.M.Garrigues, Maxime le Confesseur, Paris 1976, p. 107, 135 - 136
phần chú thích 145 - 149 và 164.
Tất cả các kỳ công mà Thiên Chúa đã thực
hiện nơi Ðất Hứa hoặc nơi các xứ sở mà Israel cũ đi qua, thì Ngài cũng thực
hiện như vậy khi canh tân bản tính của thực tại, tuy nhiên canh tân bản tính ở
đây phải hiểu là canh tân về "cách" hoạt động của bản tính (mode de
son énergie) chứ không phải về "nguyên lý" (logos) theo đó nó hiện
hữu.
(Difficultés. 42, PG 91, 134D)
Ý muốn [vouloir, xét là năng lực, tài
năng] và muốn một cách nào đó [thể hiện của ý muốn] là hai điều khác nhau (.).
Ý muốn (.) thì đều có nơi mọi hữu thể cùng một bản tính, và cùng một giống
loại. "Muốn một cách nào đó" . là "cách" xử dụng ý chí (.)
và điều này chỉ có nơi chủ sự sử dụng ý chí và làm nổi rõ ý chí theo sự khác
biệt hiểu theo nghĩa thông thường.
(Dispute avec Pyrrhus, PG 91, 292D - 293A)
(Ngôi Lời), vẫn hoàn toàn duy nhất khi
đảm nhận thân xác vốn được phú một linh hồn có lý trí và trí tuệ, đã trở thành
người do một ý muốn khôn tả, Ngài đã và đang là thế nào thì Ngài vẫn là như
thế, vẫn là Ðấng toàn năng, khi canh tân các bản tính theo một "cách"
vượt trên bản tính, hầu cứu độ con người.
(Lettre 13, PG 91, 532BC).
Nơi Chúa, các hoạt động thuộc bản tính
tự nhiên của ý chí không diễn ra như nơi chúng ta, khi Ngài thực sự đói và
khát, Ngài đã không đói, khát theo "cách" của chúng ta. Nhưng theo
một cách cao siêu hơn cách của chúng ta. Và quả thực Ngài đã chịu điều đó cách
tự nguyện. Cũng thế, khi Ngài thực sự sợ hãi, thì Ngài đã không sợ hãi theo
cách chúng ta, nhưng vượt trên chúng ta. Nói cho kỳ cùng, những gì thuộc bản
tính tự nhiên nơi Ðức Kitô thì Ngài liên kết làm một với mình, nhờ "nguyên
lý" của riêng Ngài và theo một "cách" vượt lên trên bản tính ngõ
hầu bản tính được bảo đảm bởi "nguyên lý" (logos) đồng thời nhiệm cục
được bảo đảm bởi "cách" (tropos).
(Dispute avec Pyrrhus, PG 91, 297D - 300A).
"Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén
này khỏi Con, nhưng xin đừng theo ý Con, một xin theo ý Cha". Khi nói như
thế Ðức Kitô tỏ cho thấy khuynh hướng của ý muốn nhân loại trong cơn phiền sầu
thổn thức của Ngài, tuy nhiên khuynh hướng đó đã mang lấy dấu ấn của Ngài và đã
được đem tới hiệp nhất với ý muốn Thiên Chúa qua sự tự nguyện đưa "nguyên
lý" của bản tính tự nhiên vào trong "cách" của Nhiệm Cục [=
chương trình cứu chuộc] ; Ngài nói đến "nguyên lý" của các bản tính
hiệp nhất với nhau và nói đến "cách" hiệp nhất theo ngôi vị, chính
cách hiệp nhất đó đã canh tân các bản tính nhưng không biến đổi cũng không lẫn
lộn.
(Opusc, Théol. Et Pol. PG 91, 48C).
Nói một cách tổng quát, mọi đổi mới đều
nhằm tới "cách" của sự vật được đổi mới, chứ không diễn ra nơi nguyên
lý của bản tính. Quả vậy, một sự đổi mới về "nguyên lý" sẽ làm hỏng
bản tính, vì bản tính không bảo toàn được nguyên lý trong đó nó hiện hữu,
nguyên lý đó đã bị biến chất, biến tính. Nhưng, sự đổi mới về "cách"
vừa gìn giữ nguyên vẹn "nguyên lý" của bản tính, đồng thời tỏ lộ năng
lực kỳ diệu, vì nó cho thấy một cách hiển nhiên bản tính hoạt động và thụ nhận
(nature active et passive) vượt ra ngoài khả năng tự nhiên của nó.
(Difficulté 42, PG 91, 1341D).
HAI Ý MUỐN HIỆP THÔNG
VỚI NHAU TRONG CƠN HẤP HỐI CỦA ÐỨC KITÔ.
Ðức Kitô, trong cuộc Khổ Nạn mang ơn cứu
độ, lúc Ngài đã thực sự in sâu ý muốn của con người chúng ta nơi Ngài và như
một con người, khẩn xin cất sự chết xa khỏi Ngài, thì Ngài như tỏ cho thấy nơi
Ngài có hai ý muốn . Thế nhưng trong việc dâng lời khấn xin Thiên Chúa cũng như
việc Ngài có ý tỏ cho thấy sự yếu đuối của Ngài qua niềm thổn thức phiền sầu
của con người xác thịt, thì Ngài không hề có thái độ chống lại Thiên Chúa,
không hề khăng khăng với ý của mình, nhưng thưa lên : "Nếu có thể . nhưng
xin đừng theo ý con, một xin theo ý Cha" và nối kết niềm khắc khoải thổn
thức với một thái độ mạnh mẽ và quyết liệt trước cái chết. Ngài đã thực sự in
sâu nơi Ngài những gì thuộc về (bản tính) chúng ta xuyên qua cơn phiền sầu thổn
thức của giây phút đó hầu giải thoát chúng ta khỏi phiền sầu, mang lại bảo đảm
cho bản tính xác thịt mà Ngài đã nhận lấy làm của mình, và làm cho Nhiệm Cục
thoát khỏi mọi dáng vẻ của thuyết ảo thân. Và theo hướng ngược lại, Ngài đã
trực tiếp đưa dẫn khát vọng tột cùng của ý chí nhân loại của Ngài, đến chỗ kết
hợp chặt chẽ và hiệp thông với ý muốn của Cha và cũng là của chính Ngài, khi
ngài quyết định bằng những lời lẽ này : "Song đừng cho ý của Con, mà là ý
của Cha được thành sự". Nhờ câu nói cuối cùng này mà loại bỏ được sự phân
chia giữa hai bản tính và nhờ câu nói ở trên mà loại bỏ được sự lẫn lộn giữa
hai bản tính.
(Opusc. Théol. Et Pol. 16 PG 91, 196C - 197A ;
Trad.
J.M.Garrigues, Maxime le Confesseur, Paris, 1976,
p. 147).
Một Mầu Nhiệm Tình Yêu.
Mỗi người đều có thể dấn mình vào đà thần hóa ấy (élan
divinisateur), trong đó "nguyên
lý" (logos) "của các bản tính" được tái định hướng,
tìm lại được sức cuốn hút của "Nguyên
Lý" (Logos) vĩ đại, tức là Ngôi Lời sáng tạo, thông dự vào sức
năng động thuộc yếu tính của toàn thể công trình tạo dựng. Phần mỗi người là
đón nhận lấy "cách hiện hữu" làm
con của Ðức Kitô (mode dexistence filial). Phương thế chính đó là tình yêu ;
môi trường là Giáo Hội và các Bí Tích. Tất cả công trình Nhập Thể cứu chuộc là
mầu nhiệm tình yêu. Maxime không ngừng nói đến vị trí hàng đầu của Ðức Ái, được
diễn tả cách đặc biệt qua lòng thương xót đối với tha nhân : "Ai noi theo lòng nhân ái của Thiên Chúa, thuyên
chữa mọi khổ đau của những kẻ bất hạnh, theo cách thế của Thiên Chúa, người đó
sẽ nên như Thiên Chúa". "Do lòng yêu thương con người, Thiên Chúa trở
thành người (shumaniser, nhân hóa) vì con người trong mức độ con người, một khi
được củng cố bởi đức ái, được thần hóa cho Thiên Chúa". Thật là
ý nghĩa khi Maxime dành chương cuối cùng của tác phẩm "Nhiệm huấn" (Mystagogie, dẫn
vào mầu nhiệm) để bàn về Ðức Ái. Chính Bí Tích Rửa Tội đưa đến "cách sinh ra" mới (mode de
naissance) và đem người Kitô hữu, qua Bí Tích Thánh Thể, vào trong Mầu Nhiệm
tình yêu của Thiên Chúa, theo sau Ðức Kitô. Ðức Ái là sự nối dài và là sự hoàn
tất của Phụng Vụ. Như vậy, trong lòng Giáo Hội, Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời
đạt tới tầm mức viên mãn nơi con người, đặc biệt nơi các đan sĩ, và nơi toàn
thể công trình tạo dựng.
Maxime là kết quả của một truyền thống hết sức phong phú.
Bầu khí tác phẩm của ngài mang đậm nét của trường phái Alexandrie. Nhà thần học
thần bí này, mặc dù có khuynh hướng triết lý, nhưng đã suy tư và sống trong sự
cung chiêm Ngôi Lời vĩnh cửu. Trong thực tế, ngài đã hứng lấy rất nhiều từ
Origène, các Giáo Phụ Cappadoce, Denys lAréopagite . Tuy nhiên, ngài lại là
người bảo vệ hai bản tính của Ðức Kitô theo hướng của các nhà thần học Antioche
và Ðức Léon Cả. Về tu đức, ngài thường theo Évagre. Nói chung, ngài tiếp cận
kho tàng phong phú của các bậc tiền bối, điều chỉnh, xác định rõ hơn, và vượt
lên trên các vị đó, làm thành một tổng hợp, trong đó "tất cả thống nhất với nhau" : nhân học, vũ trụ
luận, linh đạo. Và điều này được đưa ra giữa lòng một thế giới đang bị đảo lộn,
đang bị người Batư, Hồi giáo và lạc giáo hoành hành. Kết thúc công trình, ngài
đã chết cho những tư tưởng của mình, đúng hơn, chết cho "Giáo Hội Công Giáo", vốn không
gì khác hơn là "lời tuyên xưng đức tin
thẳng thắn và mang lại ơn cứu độ". Ðông phương xem Maxime như
một buổi hoàng hôn rực rỡ.
"KHÔNG GÌ MANG
HÌNH DẠNG THIÊN CHÚA CHO BẰNG LÒNG MẾN THIÊN CHÚA".
Quả thật, không gì mang hình dạng Thiên
Chúa (déiforme) cho bằng lòng mến Thiên Chúa, không gì huyền nhiệm hơn, không
gì nâng cao con người hơn trong sự thần hóa ; lòng mến chứa đựng, qui tụ nơi
mình, mọi thiện hảo mà lời chân lý xếp vào số các nhân đức, và hoàn toàn xa
khỏi tất cả những gì mang dáng vẻ sự dữ, bởi lòng mến là sự viên mãn của lề
luật và các tiên tri. Sau các tiên tri, huyền nhiệm lòng mến đã biến con người
chúng tương quan thành thần linh, thâu tóm những gì là riêng lẽ, bất toàn của
các giới luật vào trong một ý niệm phổ quát, chính Thánh Ý Thiên Chúa đã muốn
thu họp lại trong lòng mến theo một kiểu độc nhất và từ lòng mến, Thiên Chúa
Quan Phòng phân phát ra dưới muôn vàn cách thế .
Quả là điều khiến ta phải bàng hoàng
kinh sợ khi nghe thấy việc, chính Ðấng sáng tạo nên thiên nhiên (bản tính), vì
lòng mến, đã mặc lấy bản tính của chúng ta, phối hiệp với bản tính đó theo ngôi
vị, nhưng không làm nó bị biến đổi, hầu chận đứng sự sa ngã, phân tán của bản
tính, đưa nó về lại với Ngài, đồng thời bản tính tìm lại được sự thống nhất nơi
mình, và tâm tình đối với Ngài hay trong chính mình không còn có sự khác biệt
với nhau nữa. Ngài đã tỏ cho thấy hết sức rõ ràng con đường vô cùng vinh quang
của lòng mến, một con đường thực sự là thần linh và thần hóa vì nó dẫn tới
Thiên Chúa và thậm chí người ta nói rằng Thiên Chúa là lòng mến (Tình Yêu). Con
đường này ở khởi thủy đã bị những bụi gai của tình yêu ích kỷ che lấp, nhưng,
bằng những đau khổ Ngài chịu vì chúng ta, Ngài đã cho chúng ta một hình ảnh đầu
tiên về con đường của lòng mến nơi chính mình Ngài và đã khai quang cho tất cả
mọi người một cách nhưng không.
(Lettre 2. A Jean le Cubiculaire, PG 91, 393B -
396C et 404
Trad. I. H. Dalmais, Vie Soir. Oct. 1948, p. 296 et
301).
HỘI THÁNH THỰC HIỆN SỰ
HIỆP NHẤT.
Chính như thế mà Hội Thánh xuất hiện
trong vai trò thưc hiện cho chúng ta những hiệu quả như Thiên Chúa (thực hiện),
cũng như hình ảnh tác động theo như Nguyên Mẫu của mình. Vì có nhiều và hầu như
vô kể nam phụ lão ấu, khác biệt với nhau và hết sức khác nhau về sự sinh trưởng
và dáng vẻ bên ngoài. Về quốc tịch và ngôn ngữ, về lối sống và tuổi tác, về
hiểu biết và nhất là về danh vọng, về của cải, tính tình và các tương quan ;
thế nhưng, tất cả đều sinh thành trong Hội Thánh và nhờ hoạt động của Hội Thánh
mà tái sinh và được tái tạo nhờ Thánh Thần. Với mọi người Hội Thánh đã trao ban
và đang trao ban cách đồng đều một hình thái và một danh hiệu thần linh duy
nhất, đó là thuộc về Ðức Kitô và được mang Danh Ngài. Hội Thánh cũng trao ban
cho mọi người, thể theo đức tin, một cách thế hiện hữu duy nhất, thuần nhất và
bất khả phân chia, và vì thế không cho phép phân biệt vô số những khác biệt
không diễn tả hết được đang có giữa mỗi người trong họ mà ngay cả khi có sự
phân biệt như thế cũng không được phép, vì mối tương quan chung và vì sự hiệp
nhất mọi người trong Hội Thánh; chính vì mọi người mà tuyệt đối không ai bị
tách ra khỏi cộng đoàn, bởi vì tất cả cùng quy tụ và được hiệp nhất với nhau
nhờ hoạt động của ân sủng đức tin.
Vì thế, như đã nói trên, Hội Thánh là
hình ảnh Thiên Chúa thực hiện cùng một sự hiệp nhất giữa các tín hữu như Thiên
Chúa. Cho dù các tín hữu hết sực khác biệt nhau về ngôn ngữ, về nơi sinh sống
và về tập quán, nhưng họ được kết hợp lại với nhau trong hội Thánh nhờ đức tin.
Thiên Chúa cũng thực hiện sự hiệp nhất này giữa các yếu tính của các hữu thể mà
không làm chúng lẫn lộn với nhau, bằng cách giảm nhẹ và kết hợp chúng với nhau,
như chúng ta đã chứng minh, nhờ mối tương quan nối kết sự khác biệt giữa chúng
lại với chính Ngài, Ðấng là nguyên nhân, nguyên lý và là cùng đích.
(Maxime, Mystagogie I, PG 91, 665C - 668C. Bản dịch
của M. Lot-Borodine,
Irenikon, XIII, 1936, pp. 596 - 597 (reprise par A.
G. Hamman. Linitiation
Chrétienne. Lettres chrétiennes no. 7,
Paris, 1963, pp. 256 - 257).
III. NỀN VĂN CHƯƠNG HỢP TUYỂN : JEAN
DAMASCÈNE.
Ngay từ thế kỷ V, người ta đã thấy các tác giả Latinh và
Hylạp thích soạn các tuyển tập "Giáo
Phụ" nhằm đưa học thuyết của các ngài vào trong đời sống lâu
dài của Giáo Hội, nhưng điều này hoàn toàn không phải vì họ không có khả năng
suy tư riêng. Ðầu thế kỷ VI, Procope de Gaza lại càng báo trước một cách rõ
ràng hơn khuynh hướng của thời Trung Cổ, đó là bảo tồn quá khứ trong các tập "văn tuyển" : ông đã thu thập
những đoạn trích từ các tác phẩm chú giải sẵn có về các câu Kinh Thánh trong 8
quyển đầu sách Cựu Ước (lOctateuque) cũng nhờ đó mà lưu giữ được nhiều mẫu văn
trong các tác phẩm đã bị thất lạc. Thể loại văn chương này về sau sẽ phát triển
mạnh. Thế kỷ VII, Antiochus, một đan sĩ thuộc đan viện Saint-Sabbas góp nhặt
các trích đoạn Cựu Ước, Tân Ước và cả các Giáo Phụ, làm thành như một thủ bản
luân lý Kitô giáo, với nhan đề "Pandecte
de la Sainte Écriture" (Góp nhặt từ Kinh Thánh). Nhưng nhân vật
nổi danh nhất trong số các nhà sưu tập này là Jean Damascène, cũng là đan sĩ
của Saint-Sabbas và là người có nhiều công trạng khác nữa.
NHÀ SƯU TẬP VÀ BIÊN TẬP.
Jean sinh tại Damas khoảng năm 650. Là công chức trước khi
là đan sĩ, và sau đó là Linh Mục. Ngài hoạt động trí thức rất mạnh mẽ và lâu
dài. Ngài mất khi đời đã bách niên. Ngài là tác giả của ít nhất 4 sưu tập. Một
về chú giải, một về luân lý và hai sưu tập về tín lý. Ngài soạn một tác phẩm
chú giải các thư thánh Phaolô trong đó hầu hết là mượn lại của các tác giả
khác, nhất là của Jean Chrysostome. Người ta cũng không biết đích xác phần nào
là của riêng ngài trong bộ luân lý được mệnh danh là "Paralleles sacrés" (Những song đối thánh) một
nhan đề sau này mới có, lấy lại tựa đề phần thứ ba của bộ sách, trong phần này
là tội lỗi và nhân đức được đối chiếu song song. Bản văn được truyền lại dưới
nhiều dạng rất khác nhau, cũng có phần chưa được xuất bản, nhưng dù thế nào đi
nữa, tác phẩm này chứa đừng hàng ngàn trích dẫn Thánh Kinh và Giáo Phụ, cùng
với ghi chú về nguồn gốc, được sắp xếp theo nhiều cách khác nhau, đôi khi theo
thứ tự mẫu tự, xoay quanh đời sống Kitô hữu. Qua tác phẩm này, chúng ta biết
được rất nhiều tác phẩm được biên soạn nhưng đã thất lạc.
Tác phẩm "Nguồn
tri thức" của Jean Damascène (Source de la connaissance) là một
khảo luận tín lý rất bao quát, gồm ba phần, phần I là "Những vấn đề triết học" (Chapitres
philosophiques hay dialectique), phần II là một danh mục các lạc thuyết và phần
III "Trình bày về đức tin chính
thống" (Expose de la foi orthodoxe), ngay trong phần đầu của
tác phẩm này, Jean đã khẳng định không có gì là của ngài cả. Và quả thật, người
ta đã nhận ra nơi tác phẩm này những luận đề hoặc bản văn của phần lớn các Giáo
Phụ Hylạp, ngay cả có những khảo luận được lấy lại toàn bộ. Tuy nhiên, ở đây
các bản văn, khảo luận đó không còn mang tựa đề riêng của chúng nhưng được đưa
vào một tổng hợp, một tổng luận thần học, làm thành một cuốn lịch sử đầu tiên
về học thuyết Kitô giáo. Jean còn soạn một tác phẩm ngắn hơn, "Institution élémentaire" (Một
loại dẫn nhập vào tín lý), trong đó tất cả đều là trích văn hoặc được lấy lại
kể cả của chính ngài.
Ngày từ tác phẩm "Nguồn
tri thức", Jean đã cho thấy ngài không chỉ là kết cục của một
thế giới đang thu xếp hành trang. Thật ra, ngài còn là tác giả của nhiều tác
phẩm tín lý của riêng mình. Ðặc biệt, bằng ngòi bút của mình, ngài tham gia vào
các xung đột thần học hoặc là các xung đột bắt nguồn từ trong quá khứ như
thuyết của Nestorius hay thuyết nhất tính, hoặc mới xuất hiện như chủ trương
bài ảnh tượng, bùng phát năm 721 và lập tức được hoàng đế Léon III người
Isaurie (Léon III LIsaurien) bênh vực, ngài lên tiếng biện hộ cho việc tôn kính
ảnh tượng. Ngài cũng còn để lại một số bài giảng, một bài khảo luận ngắn về tu
đức, một số tác phẩm về phụng vụ và hạnh các thánh.
CHUYÊN VIÊN VỀ THUẬT NGỮ BA NGÔI.
Phần di sản mà ngài chỉ làm công việc thu thập và khai
thác dù có lớn mấy đi nữa thì Jean Damascène, tuy không có thiên tài như
Maxime, vẫn là một người có tính cách riêng, đưa ra lập trường của mình trong
nhiều lãnh vực đặc biệt chung quanh vấn đề về Thiên Chúa, Ðức Kitô, Mẹ Maria và
các thánh. Ngài xác tín rằng sở dĩ có những lạc giáo lớn xuất hiện, là vì các
từ ngữ như hypostase (hay personne, cá vị, ngôi vị) thiếu sự xác định rõ ràng,
dứt khoát. Vì thế ngài khởi sự tác phẩm tín lý bằng một bài học về triết hoc. "Hypostase" trước tiên là điều
thực hữu (vrai réel), là "cá vị có hiện
hữu nội tại", có "lập
hữu riêng" (Subsistance prope). Trong khi bản tính là một yếu
tố chung cho các cá thể (individus), thì ngôi vị là thực tại đặc thù, ở trong
một bản tính mang tất cả những đặc điểm cá biệt, xác định nó là cá vị (sujet
individualisé). Mỗi ngôi vị ở trong một hay nhiều bản tính. Mỗi bản tính cụ thể
(nature concrète) cùng với những tùy thể đặc thù, là một ngôi vị (hypostase)
hoặc hiện hữu trong một ngôi vị (enhypostasiée, được đặt trong ngôi vị). Năng
lực như ý chí chẳng hạn, thì gắn liền với bản tính, nhưng việc vận dụng năng
lực vào một đối tượng nào đó thì lại là đo ngôi vị (hypostase, cá vị).
Trong Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mỗi ngôi vị đều đồng
nhất hoàn toàn với yếu tính thần linh, nhưng mỗi Ngôi Vị mãi mãi có một cách
lập hữu riêng (mode de subsistance) phân biệt với các ngôi vị khác, cách lập
hữu riêng đó chính là những tương quan giữa các ngôi vị dựa trên nguồn gốc :
tính bất khả thụ sinh của Chúa Cha, Ðấng không được sinh ra (le nonné), tử hệ
của Ngôi Lời (filiation), Ðấng được sinh ra (le né), sự nhiệm xuất của Chúa
Thánh Thần (Procession),Ðấng nhiệm xuất (le Procédant). Chúa Con hiệp nhất với
Chúa Cha trong sự nhiệm xuất của Chúa Thánh Thần, nhưng việc Ngài là nguyên lý
cùng với Chúa Cha (trong sự nhiệm xuất của Chúa ThánhThần là do đón nhận từ
Chúa Cha). Không nên nói rằng Thánh Thần nhiệm xuất "Từ cả hai" (Ab Utroque, theo kiểu Tây phương),
nhưng nhiệm xuất "từ Cha qua Con" (du
Père par le Fils). Sau cùng, Jean nói đến sự thấm nhập vào nhau trọn vẹn
(compénétration total) giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng không pha trộn, cũng
không lẫn lộn. Ở đây chúng ta nhận ra tất cả học thuyết về Ba Ngôi của các nhà
thần học cổ thời cũng như đương đại.
NGƯỜI KẾ TỤC MAXIME TRONG LÃNH VỰC KITÔ
HỌC.
Jean Damascène là một nhà chuyên môn hơn nữa về Mầu Nhiệm
Nhập Thể. Mầu Nhiệm đầy "nghịch
lý" và "khôn tả" này
chiếm một vị trí quan trọng trong công trình của ngài. Jean đánh dấu một tiến
triển về thuật ngữ, so với ngay cả các tiền bối gần ngài nhất. Nơi Ðức Kitô,
ngôi vị duy nhất của Ngôi Lời được "hợp
thành" vì ngôi vị tồn tại trong một bản tính thứ hai nhưng
chính bản tính đó (nhân tính) lại chỉ hiện hữu dựa vào ngôi vị của Ngôi Lời.
Nhân tính đã không khi nào là một ngôi vị (personne) hay một cá thể (individu).
Nhân tính khởi đầu hiện hữu ngay trong chính hiện hữu của Ngôi Lời. Nhân tính
được "đặt trong ngôi vị" (enhypostasiée)
được đi vào hiện hữu, cùng với tính đặc thù và những đặc điểm cá biệt của nó,
ngay trong chính hành vi Nhập Thể. Trong sự hiệp nhất ngôi vị này (ngôi hiệp,
union hypostqtiaue), hai bản tính thấm nhập vào nhau, không lẫn lộn, phân biệt
nhưng không tách biệt. Jean nói : "Ngôi
vị duy nhất của Ngôi Lời Nhập Thể là bất thụ tạo xét về thần tính và là thụ tạo
xét về nhân tính". Nhập Thể được nối kết với việc sinh hạ, và
vì thế, Ðức Maria là "Mẹ Thiên
Chúa" (Theotokos).
Vì các bản tính cùng với những đặc tính của chúng vẫn toàn
vẹn, nên các bản tính vẫn giữ sự phân biệt trong các hoạt động, các ý chí, tài
năng và các hành vi. Tự do của con người Ðức Kitô được nhấn mạnh cách rõ ràng.
Tuy nhiên, theo Jean Damascène, vì quyết định cụ thể của ý chí là thuộc ngôi
vị, nên "bằng một động tác tự do, linh
hồn của Chúa muốn một cách tự nguyện điều mà ý chí thần linh muốn cho linh hồn
muốn". Mỗi bản tính đều có hoạt động riêng, nhưng không bao giờ
hoạt động một mình, mà là hoạt động "trong
sự hiệp thông với bản tính kia", nói theo kiểu của Ðức Giáo
Hoàng Léon, nhà thần học Latinh duy nhất mà Jean biết tới. Ngôi Lời thực hiện
hoạt động riêng của mình qua nhân tính, còn nhân tính lại được thần hóa và được
tham dự vào sự thờ phượng đích đáng dành cho Thiên Chúa. Nhân tính tạo ra những
hành vi cứu độ - nhưng thần tính mới làm cho những hành vi đó có khả năng cứu
chuộc. Ðiều này làm sáng tỏ "hoạt động
Thần Nhân" (énergie théandrique) mà Denys lAréopagite đã nói
đến. Người ta có cảm giác khắp nơi đều có sự hiện diện của Maxime.
NHÂN TÍNH ÐỨC KITÔ ÐÃ
KHÔNG BAO GIỜ HIỆN HỮU (ÐỘC LẬP).
Ngay sau sự ưng thuận của Ðức Thánh Nữ
Ðồng Trinh, Thánh Thần đã ngự xuống trên Mẹ (.) để tinh luyện, làm cho Mẹ có
khả năng đón nhận thần tính của Ngôi Lời và trở nên Mẹ của Ngôi Lời. Thánh Ðức
và là Khôn Ngoan hằng hữu của ÐấngTối Cao, nghĩa là Con Thiên Chúa đồng bản
tính với Chúa Cha, đã rợp bóng trên Mẹ, và từ bản thể vô nhiễm và rất thanh
khiết của Mẹ, tạo nên cho mình một thân xác được hoạt động bởi một linh hồn có
lý trí và trí tuệ, hoa quả đầu mùa của tất cả chúng ta và điều này xảy ra là
qua sự tạo dựng trực tiếp bởi tác động của Thánh Thần. Và hình thái của thân
xác được tạo dựng như thế không phải được hình thành từ những tăng trưởng hết
sức nhỏ và tiệm tiến, nhưng thân xác đó đã đạt được ngay hình thái hoàn hảo của
nó. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa trở thành ngôi vị (hypostase) cho thân xác, vì
chưng Ngôi Lời không kết hợp với một thân xác đã có hiện hữu độc lập từ trước,
nhưng chính Ngôi Lời đã trở thành ngôi vị cho thân xác . đến mức ngay khi thân
xác hiện hữu thì cùng lúc thân xác đó đã là thân xác của Ngôi Lời Thiên Chúa,
và cùng lúc đó, thân xác được linh hoạt bởi một linh hồn có lý trí và trí tuệ.
Chính vì thế mà chúng tôi nói đến một Thiên Chúa nhập thế chứ không nói đến một
con người được thần hóa. Ðấng tự bản tính đã hoàn toàn là Thiên Chúa, thì cũng
chính Ðấng ấy, tự bản tính, đã trở nên hoàn toàn là con người. Ngài không phải
chịu sự biến đổi trong bản tính, và Ngài cũng không xuất hiện cho chúng ta dưới
cái vẻ bề ngoài của một con người, nhưng, với thân xác lấy từ Ðức Thánh Trinh
Nữ, được linh hoạt bởi một linh hồn có lý trí, trí tuệ, khi thân xác đó tìm
được sự hiện hữu nơi Ngài thì Ngài kết hợp theo ngôi vị với thân xác nhưng
không lẫn lộn, không biến đổi, cũng không phân chia. Ngài đã không biến đổi bản
tính của thần tính Ngài thành bản thể của thân xác, cũng không biến đổi bản thể
của thân xác Ngài thành bản tính của thần tính Ngài. Ngôi Lời cũng không làm
thành chỉ một bản tính phức hợp (nature composée) hợp bởi thần tính và nhân
tính mà Ngài đã mang lấy.
(Exposé de la foi orthodoxe III, 2, PG, 985A - 988A
;
Trad. M. Jugie, "Jean Damascène" D.T.C.
col. 731, complétée).
KẺ TRUNG THÀNH ÐỐI VỚI ÐỨC MARIA.
Do phần vụ Mẹ đảm nhận trong Mầu Nhiệm Nhập Thể, Ðức Maria
chiếm một vị trí đặc biệt trong thần học cũng như linh đạo của Jean Damascène.
Mẹ Thiên Chúa là "xưởng thợ" nơi
ơn cứu độ được thực hiện, là Vườn Ðịa Ðàng nơi trồng cây sự sống, là chiếc
giường tân hôn nơi Ngôi Lời phối hợp với nhân tính. Mẹ là dấu chỉ của sự hiệp
nhất với Thiên Chúa, Ðấng sẽ qui kết toàn thể nhân loại lại nơi mình. Sự gần
gũi với Ðức Kitô mang lại cho Me một sự thánh thiện đặc biệt cũng như cho Mẹ
được dự phần vào chức năng ban sự sống, làm cho phong nhiêu và thuyên chữa của
Con Mẹ.
Ngay từ biến cố Nhập Thể, Mẹ đã được tham dự vào vương
quyền của Ðức Kitô : "Người đã thực sự
trở nên Nữ Vương của toàn thể tạo thành khi Người trở nên Mẹ của Ðấng Tạo
Dựng".
Người ta thấy nơi Jean Damascène một khuynh hướng rất mạnh
muốn khuôn đúc Ðức Maria theo hình ảnh của Ðức Giêsu. Ngài không chỉ tin vào
việc Ðức Maria lên trời, vốn đã được giảng dạy khá phổ biến từ thế kỷ V, ngài
còn xác định biến cố đó xảy ra ở Jérusalem. Ðức Maria đã trải qua cái chết,
thân xác tan rã, nhưng không đau đớn. Ngày thứ ba, linh hồn Mẹ trở lại phục
sinh, gặp lại Con Mẹ và loan báo cuộc phục sinh phổ quát sẽ diễn ra vào ngày
quang lâm.
"BÀ ÐÃ ÐƯỢC SINH
RA KHÔNG PHẢI VÌ BẢN THÂN BÀ".
Ôi, Người Nữ yêu kiều, vô cùng diễm phúc
! "Trong nữ giới có Người là diễm phúc và đáng chúc tụng thay hoa quả lòng
Người". Ôi hỡi Bà, là Nữ Tử vua Ðavít và là Mẹ Thiên Chúa, Vua Vũ Trụ !
Người là kiệt tác sống động, thần thiêng mà Thiên Chúa Ðấng Tạo Dựng lấy làm
vui thoả, thần trí của Người được Thiên Chúa dẫn dắt ; Người chỉ chú tâm đến
một mình Ngài và tất cả niềm khao khát của Người chỉ hướng đến một điều duy
nhất đáng khát khao và yêu mến, Người chỉ nổi giận trước tội lỗi và kẻ đẻ ra
tội lỗi. Bà sẽ có sự sống vượt trên tự nhiên. Vì chưng, Bà có được sự sống ấy
không phải vì bản thân, cũng như không phải vì bản thân Bà mà Bà được sinh ra
trong cuộc đời : chính vì Ngài mà Bà sinh ra, chính vì Ngài mà Bà sẽ phục vụ
cho ơn cứu độ phổ quát, để cho ý định xưa kia của Thiên Chúa, là việc Nhập Thể
của Ngôi Lời và việc thần hóa chúng tôi, nhờ Bà mà được thành sự (.) Kỳ công
trên mọi kỳ công : Một phụ nữ được đặt trên cả các Séraphims, bởi lẽ Thiên Chúa
đã xuất hiện trong sự tự hạ "dưới các thiên thần một chút" (Tv 8, 6)
! Chớ gì Salomon, người rất mực khôn ngoan, hãy lặng thinh và đừng nói :
"Chẳng có gì mới dưới ánh dương" (Gv 1, 9) . Thánh thay Thiên Chúa,
Ngôi Cha, Ðấng đã muốn trong Bà và nhờ Bà mà Mầu Nhiệm đã định từ trước muôn
đời được thành sự.
(Sur la Nativité 9 - 10, SC no. 80, p.
69 - 73, Trad. P. Voulet).
NGƯỜI ÐƯA RA HỌC THUYẾT VỀ ẢNH TƯỢNG.
Sau cùng, Jean Damascène nổi tiếng do cuộc chiến đấu của
ngài chống lại chủ trương bài ảnh tượng. Ngài tự coi mình là người bảo vệ các
ảnh tượng về Ðức Kitô, Ðức Trinh Nữ và Các Thánh. Cuộc tranh luận này không
phải là không liên quan đến thuyết nhất tính. Ảnh tượng diễn tả lại thực tại
khả giác, thực tại bên ngoài. Nếu nơi Ðức Kitô, nhân tính bị tan biến trong
thần tính thì việc diễn tả lại thân xác Ðức Giêsu liệu có ích gì ?
Nhưng Jean đã đưa ra lời biện hộ trong một học thuyết về
ảnh tượng và về vật chất. Thiên Chúa hiển nhiên là vô hình, nhưng Ngài là Ðấng
sáng tạo nên vật chất và là vị đầu tiên tạo ra các hình ảnh. Ngôi Lời há chẳng
phải là hình ảnh trọn hảo của bản thể Ngài hay sao ? Con người lại không phải
đã được tạo dựng theo hình ảnh Ngài hay sao ? Nhưng nhất là, Ngài đã trở nên
hữu hình nơi thân xác của Vị Thiên-Chúa-làm-người. Và Jean đã thét lên : "Tôi không tôn thờ vật chất, mà là tôn thờ Ðấng
dựng nên vật chất, Ðấng đã trở nên vật chất cho tôi và Ðấng đã hạ cố cư ngụ nơi
vật chất và thực hiện việc cứu độ tôi qua vật chất". Ảnh tượng
Ðức Maria và Các Thánh, những người mô phỏng và thân thiết với Ðức Kitô, gợi
lên mối tương quan của các ngài với Thiên Chúa, khác nào một hồi ký. Ðặc biệt,
ảnh tượng cần cho "người vô học như
cuốn sách cần cho người học thức". Nó giúp đi từ hình ảnh đến
với nguyên mẫu, từ bản sao sang chính bản, nơi mà hiệu lực của sự sống thần linh
hiện lộ. Nói theo kiểu của M. Quenot, người đã diễn tả chính xác truyền thống
Byzantin, ảnh tượng là "cánh cửa mở vào
tuyệt đối", nơi ân sủng có thể đi qua. Ðây cũng là một sứ điệp
mới mà Jean Damascène trao gửi chúng ta.
Một đan sĩ là văn sĩ và là nhà giảng thuyết, xét về phần
lớn công trình của ngài, hiển nhiên xứng đáng đứng vào hàng các tác giả kết
thúc một thời đại. Ngài đã htực hiện một bản tổng kết : Hữu ý tóm tắt bảy thế
kỷ tư tưởng Kitô giáo trong Giáo Hội Hylạp và trao lại cho các thế hệ mai sau
bộ bách khoa tôn giáo đó, được minh họa bằng năm đến mười ngàn trích dẫn. Với
công trình này, ngài quả đã có một đóng góp phi thường cho lịch sử. Tuy nhiên,
ngài không chỉ bằng lòng với việc tường thuật lại quá khứ. Là con người có đầu
óc sáng suốt vững vàng và hết sức cởi mở đối với triết học, ngài đã vượt trên
quá khứ đó, xác định rõ hơn các học thuyết, nhất là về các thuật ngữ Ba Ngôi và
Kitô học. Ngài đích thân tiếp tục các cuộc chiến đấu xảy ra trong quá khứ nhưng
vẫn mang tính thời sự và cung cấp các luận chứng cho những cuộc tranh luận mới.
Vị Giáo Phụ Hylạp cuối cùng bảo đảm tính liên tục của thần học.
"ÐẤNG VÔ HÌNH ÐÃ
TRỞ NÊN HỮU HÌNH (.), BẠN CÓ THỂ LÀM RA ẢNH TƯỢNG".
Nếu bạn hiểu rằng Ðấng tự bản tính là vô
xác thể đã làm người vì bạn, thì như thế dĩ nhiên bạn có thể làm ra ảnh tượng
về con người của Ngài. Bởi vì Ðấng vô hình đã trở nên hữu hình khi mặc lấy thân
xác, nên bạn có thể làm ra ảnh tượng của Ðấng mà người ta đã nhìn thấy.
Bởi chưng Ðấng không có thân xác, không
hình dạng, không lượng, không chất, Ðấng vượt trên mọi cao cả vì sự ưu việt của
bản tính Ngài, thì chính Ngài, vốn mang bản tính thần linh, đã nhận lấy thân
phận tôi đòi, đã hóa nên lượng, nên chất và mang lấy những nét đặc biệt của con
người. Vậy bạn hãy khắc trên gỗ và trình bày cho người ta chiêm ngắm Ðấng đã
muốn trở nên hữu hình.
(Sur les images 1. 8, PG 94, 124OA,
bản dịch của M. Quenot. Licône, Paris, p. 57).
SÁCH NGHIÊN CỨU THÊM.
QUANH PHONG TRÀO ÐAN
TU.
Các Bản Dịch :
Aux Sources chrétiennes : Jean Moschus, Le pré spirituel
(no. 12) ; Dorothée de Gaza, Oeuvres spirituelles (no.
92)
Jean Climaque, Léchelle sainte, Spiritualité orientale, no.
24 (Abbaye de Bellefontaine).
Quanh Vấn Ðề Kitô Học
(các văn tuyển) :
F.X. Murphy et P. Sherwood, Constantinople II et III,
Paris 1974.
v Chr. von SCHOENBORN, Sophrone de
Jérusalem. Vie monastique et Confession dogmatique, Paris, 1972.
v J.- M. GARRIGUES, Maxime de
Confesseur. La charité, avenir divin de lhomme, Paris, 1976 ; F.-M Lethel,
Théologie de lagonie du Christ. La liberté humaine du Fils de Dieu et son
importance sotériologique mises en lumières par saint Maxime le Confesseur,
Paris 1979 ; F. HEINZER et Chr. von SCHOENBORN, Maximus Confessor, Actes du
symposium sur Maxime le Confesseur, Paradosis 27, Fribourg 1982.
Các Bản Dịch :
Aux Source chrétiennes, de Maxime uniquement Centuries sur
la charité (no. 9).
La Mystagogie dans A.- HAMMAN, Linitiation chrétienne,
Lettres chrétiennes, no. 7, Paris, 1963.
A. ARGYRIOU, Le mystère du salut, Les écrits des saints
(riche coll. dextraits).
v B. STUDER, "Jean
Damascène", Dict. sp., col. 452 - 466.
Các Bản Dịch :
Homélies sur la Nativité et la Dormition (SC no.
80). "La foi orthodoxe" suivie de "Défense des icône",
Paris 1968.
KẾT LUẬN.
Ðể kết cuốn Lịch sử các Giáo Phụ vắn gọn này, thiết tưởng
không cần phải trở lại với các vấn nạn tổng quát mà môn Giáo Phụ học đặt ra. J.
Liébaert đã có đề cập đến ở đầu cuốn I (trang 1 - 5) và cũng trong khoảng thời
gian này, ngài có trình bày trong các mục "Giáo
Phụ học" (patrologie) và "Các
Giáo phụ" (Pères de lÉglise) mà ngài đã soạn cho bộ bách khoa "Catholicisme" (Giáo thuyết Công
giáo). Ở đây, chúng ta chỉ đưa ra vài ghi nhận.
Chúng ta đã cùng bước đi với những nhân vật tiêu biểu nhất
của Giáo Hội trong bảy thế kỷ đầu, những vị giải thích trực tiếp Sách Thánh
được đọc trong Giáo Hội, và là những người kế tục các Tông Ðồ trong chính sự
toàn vẹn của lời giải thích này. Chúng ta đã thấy các ngài xác định, sống và
cầu nguyện bằng đức tin của các ngài. Xác định đức tin trong các văn phẩm và
trong các bản văn Công Ðồng ; sống đức tin trong đời sống riêng hoặc trong cơ
cấu Giáo Hội, với tư cách giáo dân, tu sĩ hoặc giáo sĩ mà không luôn luôn -
hoặc chưa - là thánh ; chúng ta đã nhìn thấy các ngài cầu nguyện qua các dấu
chỉ Bí Tích hoặc tự phát trong Giáo Hội hoặc một mình trước Thiên Chúa. Làm như
thế, các Kitô hữu này, những người thừa kế trực tiếp Mạc Khải, đã ghép vào
Thánh Kinh một tiêu chuẩn thứ hai của tính chính thống đó là Thánh Truyền. Các
ngài đã trở thành tiêu chuẩn của đức tin, làm thành điều mà từ rày về sau người
ta gọi là "Lý chứng Giáo Phụ" (Argument
Patristique).
Chính các ngài cũng đã ý thức về điều đó. Từ thế kỷ V, với
một chuyển biến gần như một bước ngoặc, nhất là từ Cyrille dAlexandrie, chính
các ngài đã viện dẫn các "Thánh
phụ" (Pères) như là những bảo đảm cho sự trung thành với Giáo
Hội, danh xưng này bao hàm thành viên các Công Ðồng hay các "Nghị Phụ" (Pères Conciliaires),
các văn nhân Giáo Hội (Auteurs ecclésiastiques), "Các Thánh Phụ mang Thiên Chúa của Giáo Hội Công Giáo" (Pères
théophores de lÉglise catholique), nói theo kiểu của Maxime le Confesseur. Sự
phù hợp với các vị tiền bối ấy được các ngài nâng lên thành quy tắc đức tin,
cũng chính điều này mà chúng ta đã thấy các ngài thi nhau xây dựng các tuyển
tập Giáo Phụ, tuy các tuyển tập này có nguy cơ sai lầm hoặc gây hiểu lầm vì các
đoạn trích bị tách ra khỏi văn mạch của chúng. Chính Vincent de Lérins là người
đưa ra học huyết về lý chứng Giáo Phụ. Ðứng trước những lệch lạc, cần phải "thu thập ý kiến của các vị tiền bối" (majores)
"đối chiếu ý kiến các Thánh phụ và
đứng về phía "những điều đã được mọi
người, ở khắp nơi, luôn luôn tin như thế".
Giáo Hội đã dứt khoát lấy luận chứng đó làm của mình. Tuy
nhiên, cần phải hết sức tránh việc coi các ý kiến (opinions) của các Giáo Phụ
như là tín điều một cách vội vàng, thiếu suy xét. Sự nhất trí nơi các Giáo Phụ
rất hiếm, khó lòng mà xác định được và cũng cần phải được xem xét lại tùy theo
những khám phá hoặc những tiến bộ của chúng ta trong việc đọc và hiểu các Giáo
Phụ. Việc giải thích các Giáo Phụ càng trở nên tế nhị hơn vì những từ ngữ quan
trọng nhất trong các cuộc tranh luận lớn về thần học lại là những từ ngữ mượn
từ triết học cổ điển, và ý nghĩa của chúng có thể thay đổi tùy theo các hệ thống
tư tưởng. Không chỉ có vấn đề chuyển từ tiếng Hylạp sang tiếng Latinh nơi các
Giáo Phụ mới gây khó khăn, mà cả những từ ngữ do một Nestorius chịu ảnh hưởng
của phái Khắc Kỷ nói ra thì đối với một Cyrille chịu ảnh hưởng của triết thuyết
Platon, những từ ngữ đó sẽ mang một ý nghĩa mà tác giả của chúng chắc hẳn không
hiểu như thế. Ðiểm lưu ý này kéo theo nhiều điều đáng lưu ý khác. Hầu hết các
tác phẩm tín lý của các Giáo Phụ đều là những tác phẩm bút chiến, và những lý
chứng ad hominem" (nhắm vào
đối thủ) mà chúng ta có thể không nắm bắt được tầm mức của chúng, và một ngôn
ngữ cứng cỏi vốn không diễn tả tư tưởng của tác giả trong sự chính xác bình
thản của nó. Cuối cùng, đối với tác phẩm luân lý, người ta nhận thấy các tác
giả cũng như các đối tượng mà các tác phẩm đó nhằm tới thường có nguồn gốc đan
tu. Trong lãnh vực này cũng thế, không dễ dàng gì rút ra một học thuyết chung
cho mọi Kitô hữu.
Trong những điều kiện tốt nhất, nếu người ta thực hiện sự
có thể nắm bắt được tư tưởng của Giáo Hội đương thời nơi tác phẩm của các ngài,
thì dù thế nào đi nữa, thời đại các Giáo Phụ cũng chỉ là một giai đoạn của Giáo
Hội, mà trong Giáo Hội, Thánh Thần vẫn tiếp tục công trình của Ngài cho đến tận
thế. Truyền thống vẫn tiếp tục. Grégoire de Nazianze đã chẳng nói đến sự tiến
triển, trong đó "Ánh sáng của Mầu Nhiệm
Ba Ngôi sẽ càng chiếu tỏa rực rỡ hơn" sao ? Không nên biến giai
đoạn thành đoạn kết, tương đối thành tuyệt đối.
Các Giáo Phụ để lại cho chúng ta một kho tàng tư tưởng và
đời sống thiêng liêng vô cùng phong phú. Vì phải trả lẽ trước những bác bẻ của
người ngoại giáo cũng như trước những lệch lạc trong nội bộ, các ngài đã phải
minh giải đức tin của mình, và trong bảy thế kỷ, đã xây nên một nền thần học "rút ra từ Kinh Thánh", sừng
sững từ đó đến nay, rất ít bị lay chuyển. Lối trình bày của các ngài, ngay cả
trong các khảo luận, không bao giờ chìm mãi trong lý luận thuần lý, trong chú
giải Thánh Kinh lại càng ít hơn. Ðời sống thiêng liêng, tu đức của các ngài đã
thổi vào đó một sức nóng, một đà vươn làm chúng ta luôn luôn xúc động. Có biết
bao tâm hồn thần bí trong những thế kỷ đầu ấy của Giáo Hội, nơi mà kinh nguyện
và thi ca giao ngộ trên những đỉnh cao ! Các trước tác, thường là do hoàn cảnh
và hầu như luôn luôn là do trách vụ, nhưng không ít tác phẩm có giá trị văn
chương rất cao. Ðặc biệt là các bài giảng đã kế tục một cách xứng đáng các diễn
văn chính trị hoặc pháp lý cổ thời, không thua kém bất cứ thể loại văn chương
nào khác.
Giai đoạn Giáo Phụ không phải là hồi tàn cuộc của nền văn
chương cổ điển, nhưng là hồi độc sáng của nền văn chương đó và, xét về tầm quan
trọng cũng như phẩm chất, nó tạo thành một lãnh vực có giá trị đặc biệt của
thời hậu thượng cổ. Mong rằng những trang sách trên đây đã cho thấy được điều
đó.