MỘT NHÀ NHÂN BẢN KITÔ
GIÁO:
LACTANCE
Lactance là một trong những tác giả cổ thời mà người ta có
thể xếp vào loại tác giả hạng hai, thế nhưng những nghiên cứu khoa học mới đây
về ông lại cho thấy có sự lý thú và tầm quan trọng thực sự. Chắc chắn ông không
có ảnh hưởng lâu dài như Tertullien hay Cyprien, cũng không có bề rộng và sự
tỏa sáng của một Origène. Tuy nhiên, danh tiếng của ông như một "Cicéron Kitô giáo", có từ thời
Phục Hưng, chứng tỏ người ta đã thừa nhận tài năng văn chương của ông. Nhưng
nhất là, cho dù không phải là nhà triết học lớn hay nhà thần học lớn, ông đã chứng
tỏ một đầu óc độc đáo, xứng đáng giữ một chỗ đứng đặc biệt trong hàng các Giáo
Phụ.
MỘT CUỘC ÐỜI KHÔNG ÐẾN NỖI TẦM THƯỜNG Ở
VÀO MỘT THỜI KỲ QUYẾT ÐỊNH.
Với Lactance, chúng ta gặp lại một Kitô hữu giáo dân, trở
lại đạo khi đã lớn, là văn sĩ và là thầy dạy độc lập theo kiểu Justin và
Tertullien. Cả ông cũng không từ bỏ văn hóa thế tục của mình, ngược lại là
khác, vì nghề của ông là làm giáo sư tu từ học, nghĩa là dạy cả ngữ pháp, văn
chương lẫn khoa hùng biện. Văn của ông cao nhã và trong sáng, đúng theo truyền
thống lớn cổ điển. Ông sống giữa lòng xã hội đương thời và thậm chí là một nhân
chứng đặc biệt về thời đại của mình, vì ông đảm nhận các chức vụ nằm trong quỹ
đạo của triều đình, trước hết là triều đình của hoàng đế Dioclétien, rồi của
Constantin. Sinh khoảng giữa thế kỷ III và mất vào khoảng năm 25 của thế kỷ IV,
ông ở vào khúc quanh quan trọng của lịch sữ Giáo Hội cổ thời, cùng với Eusèbe
thành Césarée, người Hylạp, đồng thời và trẻ hơn ông chừng 10 tuổi. Cả hai đều
trãi qua giai đoạn mấu chốt, chuyển từ thời bách hại đạo (cuộc bách hại sau
cùng do Dioclétien phát động năm 302) sang thời thiết lập sự khoan dung đối với
tôn giáo trong những năm 312 - 313, và là thời chuyển quyền hành vào tay
Constantin, hoàng đế đầu tiên theo Kitô giáo. Lactance hiểu rằng, từ đây, một
vận mệnh mới mở ra cho Giáo Hội, và với suy tư của ông về chính trị tôn giáo,
ông đã thực sự là người của giai đoạn mới này, ngang với Eusèbe. Tuy nhiên,
trong lúc công trình thần học của Eusèbe trực tiếp đi vào những cuộc tranh luận
về giáo lý đặc biệt của thế kỷ IV kể từ năm 320, thì công trình của Lactance,
trên thực tế, lại xa lạ với những tranh luận ấy, và xét theo những mối bận tâm
của ông thì công trình thần học của ông thuộc về thời kỳ trước. Vì ông thuộc về
hai triền dốc lịch sử, với mức độ khác nhau, nên không dễ gì xác định vị trí
của ông khi khai triển khoa Giáo Phụ. Ở đây chúng ta buộc phải nói trước ít
điều về một bối cảnh mà sau này chúng ta sẽ bàn tới cách thích hợp hơn khi nói
về Eusèbe.
"CHIẾN THẮNG"
CỦA GIÁO HỘI.
(Các biến cố xảy ra trong những năm 312
- 313 được Lactance xem như là chiến thắng dứt khoát của Giáo Hội đối với ngoại
giáo)
Này mọi đối thủ của ta đã bị đè bẹp, hòa
bình được vãn hồi khắp hoàn vũ, Giáo Hội, mà mới đây bị quật ngã, nay lại sừng
sững đứng lên : Ðền thờ Thiên Chúa bị bọn vô đạo tàn phá nay lòng thương xót
Chúa nâng dậy, hiển vinh hơn bao giờ hết. Ðó là vì Thiên Chúa cho xuất hiện
những bậc vua chúa và họ đã triệt hạ đế quốc hung tàn và đẫm máu của các bạo
vương, đã góp phần vào việc cứu nhân độ thế, khi xua tan, có thể nói như thế,
đám mây của tời kỳ tai ác này và mang lại cho mọi cõi lòng niềm vui và vị ngọt
của an bình thanh tĩnh. Hôm nay, sau những xoáy lốc dữ dội của nỗi đau khổ u
ám, không khí đã tìm lại bình yên và ánh sáng bao mong ước đã lấy lại tất cả
chói lọi huy hoàng. Hôm nay, do lời kinh của các tôi tớ Người, Thiên Chúa đã
nguôi ngoai, đã nâng dậy những kẻ sóng soài gục ngã bằng sự cứu giúp thần thánh
của Người. Hôm nay, Người đã dập tắt mưu đồ bọn ác nhân và lau khô dòng lệ
những người than khóc. Những kẻ lăng nhục Thiên Chúa đã bị quật ngã ; những kẻ
triệt hạ Ðền Thánh đã bị xô nhào xuống vực thẳm còn khủng khiếp hơn ; những tên
làm nghề đao phủ xử người công chính đã phải phó linh hồn hung ác của chúng, bị
giáng cả một trời tai họa và đớn đau mà chúng đáng phải chịu. Trừng phạt chậm
trễ tất nhiên là thế, nhưng nghiêm khắc và xứng với tội ác của chúng. Vì chưng,
Thiên Chúa trừng phạt chúng khác nhau, để qua con người của chúng, Người cho
những bài học lớn lao và tuyệt diệu, và để cho hậu thế biết rằng Thiên Chúa là
độc nhất, và vị Thiên Chúa độc nhất đó là một thẩm phán biết gia hình cho những
kẻ bách hại vô lương, xứng với một vị báo thù thần thánh. Tôi viết ra là vì
muốn làm chứng về sự tận số của những con người đó, ngõ hầu tất cả những ai vì
ngăn cách không biết đến những biến cố này, cũng như tất cả những ai sẽ đến sau
chúng tôi, biết rằng vị Thiên Chúa tối cao đã tỏ rõ uy lực và oai nghiêm của
Người để tiêu diệt và triệt tiêu quân thù của uy danh Người như thế nào .
Chúa đã hủy chúng ra không, làm chúng
biến mất khỏi mặt đất. Vậy chúng ta hãy hân hoan mừng sự khải hoàn của Thiên
Chúa, hãy cùng nhau làm lễ mừng chiến thắng của Chúa bằng những lời hoan chúc :
ngày đêm chúng ta hãy vui mừng, vâng, chúng ta hãy mừng Ngài bằng kinh nguyện
của chúng ta, để Ngài mãi mãi gìn giữ hòa bình mà sau mười năm Ngài đã ban cho
Dân Ngài. Và anh, nhất là anh, Donat rất thân mến, anh có quyền được Thiên Chúa
nghe thấy, vậy hãy nài xin Chúa, vì lòng nhân hậu từ ái của Ngài, tiếp tục trải
lòng thương xót trên các tôi tớ của Ngài, đẩy xa mọi tấn công và cạm bẫy của
quỷ dữ và bảo đảm cho Giáo Hội đang hồi rạng rỡ của chúng ta được yên bình muôn
thuở.
Lactance, "Về
cái chết của những kẻ bách hại" I và III
Dịch từ Sources Chrétiennes no. 39, 78 -
79, 138
Chúng ta chỉ được biết một ít chi tiết về tiểu sử
Lactance, hơn nữa các sử gia ngày nay vẫn còn tranh luận về các chi tiết này.
Theo thánh Jérôme, Lactance sinh tại Bắc Phi. Ông được đào tạo ở đó, nhất là
tại trường Arnobe, và rồi trở lại đạo. Cũng tại đây, ông khởi đầu làm thầy dạy
khoa tu từ : sau đó, vào những năm cuối thế kỷ III, ông rời Phi Châu khi hoàng
đế Dioclétien cho vời ông sang thủ đô Nicomédie ở Tiểu Á để giữ một ghế chính
thức. Ngay cả ở Ðông Phương, Latinh thực sự vẫn là ngôn ngữ hành chánh của đế
quốc ; song tại môi trường Hylạp này, ông thầy mới vào nghề gặp một số khó khăn
trong việc chiêu nạp học trò. Nói chung người ta nghĩ rằng, Lactance trở lại
với đức tin Kitô giáo chính là ở Nicomédie, nhưng một số sử gia cho là ông trở
lại sớm hơn, lúc còn ở Phi Châu. Có điều chắc chắn là sau những chỉ dụ cấm đạo
vào các năm 302 - 303, ông đã phải bỏ nhiệm sở. Ông rời xa thủ đô trong suốt
thời gian có cuộc đàn áp Kitô giáo. Sau những năm thất sủng này, ông tìm lại
được những chức vụ đặc biệt trong triều đình Constantin. Vị hoàng đế này có thể
đã biết đến Lactance tại Nicomédie vì có một thời gian ông phải làm con tin tại
đây : một phương thế mà Dioclétien đã sử dụng để bảo đảm cho mình sự trung
thành của Constance Chlore, thân phụ của Constantin, khi đó là hoàng đế Tây
Phương. Khi đến lượt mình làm chủ Tây Phương, Constantin đã chọn Lactance làm
thái phó dạy hoàng tử cả là Crispus, sinh năm 303. Bấy giờ, nhà tu từ Latinh
rời Tiểu Á để đến lập cư tại Trèves. Khi Constantin đóng đô ở Nicomédie sau ngày
chiến thắng đồng sự của mình ở Ðông Phương là Licinius năm 324, Lactance không
đi theo hoàng đế ; và có lẽ ông mất sau đó ít lâu.
Chính trong phần tư đầu của thế kỷ IV, và với tư cách là
văn sĩ Kitô giáo, LActance đã soạn ra tác phẩm còn truyền lại cho chúng ta.
Cũng ở đây, những vấn đề về niên biểu biên soạn và đôi khi cả về tính chính
thực đã là đề tài tranh luận giữa các nhà chuyên môn. Tác phẩm biên soạn đầu
tiên có lẽ khảo luận "Về công trình của
Thiên Chúa" (De opficio Dei), biện hộ cho lòng tin vào Thiên
Chúa Tạo Dựng và Quan Phòng, bằng cách mô tả sự hài hòa nơi con người, xét là
một hữu thể phức hợp, và nhất là nơi thân xác. Sau đó là tác phẩm chủ chốt : "Các định chế của Thiên Chúa" (Divina
Institutiones), mà việc soạn thảo có thể trải dài trong những năm khó khăn của
cuộc bách hại và trong thời gian đầu của kỷ nguyên Constantin ; và "Epitome", một loại sách giản
yếu dường như do chính Lactance soạn thảo. Một khảo luận "Về cơn thịnh nộ của Thiên Chúa", có
thể được soạn vào năm 313 hoặc 314, nhưng cũng có thể muộn hơn. Cuối cùng,
chúng ta phải kể đến tác phẩm nửa lịch sử, nửa hộ giáo : "Về cái chết của những kẻ bách hại", trải
dài cho tới những biến cố của năm 313 ; tư cách tác giả của Lactance nói chung
được công nhận kể từ thời thánh Jérôme, nhưng gần đây đôi khi bị người ta phủ
nhận.
MỘT NHÀ HỘ GIÁO MUỐN LÀ NHÀ SƯ PHẠM.
Vào thời kỳ của Constantin và Lactance, Kitô giáo đã tạo
được vị thế của mình trên thế giới. Các môi trường ngoại giáo hẳn có thể nhạo
báng Kitô giáo, nhưng không còn có thể không biết đến nó và phải nhìn nhận như
một sự kiện phải thừa nhận. Vả lại, rất nhiều người ngoài Kitô giáo đã ngấm
ngầm phản đối lại chính sách bất khoan dung của chính quyền đối với Kitô giáo,
khi họ không chỉ dừng lại ở việc phá hoại những biện pháp bách hại. Ý thức được
tình thế đó, Lactance biết quan tâm rút ra những lợi điểm của nó hơn những nhà
hộ giáo trước kia đã làm, theo ông, họ đã vụng về khi ngỏ lời với một cử tọa
không phải là Kitô hữu. Tất cả đều tìm cách trình bày đức tin sao cho thuyết
phục và dễ hiểu, phần Lactance, ông có tham vọng đạt tới điều đó nhờ vào sự am
hiểu của bản thân về giới trí thức ngoại giáo đương thời. Ông trách Tertullien
là đã có những lời lẽ quá đáng, và thái độ chỉ biết phòng thủ ; ông lấy làm
tiếc về cách dụng ngữ của Cyprien là quá vay mượn ở cung đình, khó có thể hiểu
được đối với những người không am tường. Ông nghĩ rằng chính ngôn ngữ của Thánh
Kinh có thể làm cho người học thức cảm thấy khó chịu. Có thể nói tất cả tác
phẩm của ông đều do mối bận tâm hộ giáo thúc đẩy, thêm vào đó là sự cao nhã,
thi vị, tính hữu lý và khách quan do sự tìm tòi, nghiên cứu của riêng ông. Chỉ
có tác phẩm "Về cái chết của những kẻ
bách hại" của ông là có giọng điệu đả kích và phô bày một thái
độ đắc thắng của Kitô giáo dễ gây khó chịu. Tuy nhiên, trong sự hồ hởi của
những năm 313 và những năm kế tiếp, chắc hẳn thái độ đắc thắng đó chẳng phải là
riêng gì của Lactance. Nhân tiện, chúng ta nên lưu ý là trong tác phẩm này đã
có nét phác họa về một thần học chính trị mà Constantin và Eusèbe rất tâm đắc,
mơ ước một liên minh vĩnh viễn giữa những lợi ích của đế quốc và những lợi ích
của Giáo Hội, giữa lý tưởng của một công dân tốt và lý tưởng một Kitô hữu tốt.
Mục tiêu của Lactance là thuyết phục dân ngoại để họ tin
rằng chân lý Kitô giáo hoàn tất và vượt trên sự khôn ngoan thế tục, đồng thời
củng cố đức tin của các Kitô hữu trước những cám dỗ của văn hóa ngoại giáo. Ðể
thực hiện, trước hết phải dựa trên cơ sở thuần lý, mặc dầu ông xác tín rằng
chân lý mạc khải vượt trên khả năng của lý trí. Việc đặt hai mục tiêu và hai
bình diện gần nhau như thế làm cho toàn bộ tác phẩm của ông luôn mang tính
lưỡng diện, vừa chỉ trích không thương tiếc, vừa đánh giá hết sức tích cực di
sản ngoại giáo. Chẳng hạn, ông không ngần ngại lật ngược lời trách cứ cho rằng
đức tin Kitô giáo là không có lý lẽ bằng cách tố giác sự võ đoán và phi lý của
các truyền thống và các thành kiến của ngoại giáo (Institutiones, cuốn I, III,
V) : vả lại, đây là lối phê bình mà ông đã tìm thấy kiểu mẫu trong cuốn "Về bản tính các thần minh" (De
natura deorum) của Cicéron. Ông có lối nhấn mạnh riêng của mình về những nhược
điểm luân lý của ngoại giáo, về sự mâu thuẫn giữa học thuyết của các triết gia
với đời sống của họ, trong khi, dưới mắt ông, chứng từ của đời sống luân lý và
đời sống Kitô hữu là luận cứ hộ giáo quan trọng.
Nhưng, cùng lúc đó, vì muốn được giới học thức lắng nghe
và không làm cho họ cảm thấy đụng chạm trong nếp suy nghĩ của mình, ông khai
triển một cách tiếp cận Kitô giáo khởi từ nền văn hóa cổ, cho thấy rằng Kitô
giáo và khôn ngoan Kitô giáo là sự hoàn thành các tôn giáo, các nền khôn ngoan
dò dẫm đi trước trong lịch sử. Lúc này, nhà bút chiến ẩn mình sau nhà nhân bản,
và đối với nhà nhân bản, văn hóa cổ cống hiến nhiều cửa ngõ dẫn tới sứ điệp
Phúc Âm. Vì vậy ở đây, chúng ta thấy Lactance lợi dụng kiến thức rộng rãi của
mình về văn chương và văn minh cổ, chủ yếu là Latinh, đến mức những tác phẩm
của ông là cả một nguồn phong phú cho sử gia về thế giới cổ thời. Cicéron là
thầy của ông, lôi cuốn ông với những cái nhìn cao siêu, với lý tưởng về "nhân loại", về tình huynh đệ,
không chấp nhận kẻ mạnh áp bức người yếu . và còn nhiều nguồn khác phải kể đến,
từ Virgile mà ông coi như một "tiên
tri" ngoại giáo - đến Quintilien, từ những người theo thuyết
Platon cho đến những nhà Khắc Kỷ - nhất là Sénéque - thông qua những trích dẫn
đôi khi bất ngờ, chẳng hạn Épicure và học thuyết của ông về sự đồng hiện hữu
của những cặp đối nghịch trong tác phẩm "Về
cơn thịnh nộ của Thiên Chúa".
Chính tác phẩm cuối cùng này, cũng như cuốn "Về công trình của Thiên Chúa", chứng
tỏ, có thể nói như thế, ông có định kiến không đề cập gì đến các nguồn riêng
của giáo lý Kitô giáo. Trong khi vấn đề "Cơn
thịnh nộ" của Thiên Chúa là vấn đề chính yếu đặt ra khi đọc Cựu
Ước, thì Lactance lại chỉ bàn đến trên bình diện thuần lý mà thôi. Hơn nữa, là
để chống lại luận đề về tính "bất khả
thụ" của Thiên Chúa, một luận đề mà các triết gia và cả các
thần học gia Kitô giáo thường nói tới. Tác phẩm "Công trình của Thiên Chúa" cũng thế, đặc biệt
khai triển những đề tài lấy hứng từ Cyprien và các sách giáo khoa triết học, y
học, mặc dù mục tiêu cuối cùng của nó là nhằm bảo vệ một quan niệm Kitô giáo về
sự Quan Phòng. Thái độ thận trọng này đối với Cựu Ước và Tân Ước có thể làm cho
người ta ngạc nhiên : nhưng nó không hề ẩn chứa sự thiếu hiểu biết Kinh Thánh.
Ở những chỗ khác, Lactance trích dẫn Thánh Kinh, và nhiều hồi ức chứng tỏ ông
là nguời thấm nhuần Kinh Thánh. Luận cứ truyền thống về các sấm ngôn và sự liên
tục của hai giao ước đều có chỗ đứng trong khoa hộ giáo của ông. Và như đã nói
trên, Lời Chúa đối với ông là nguồn suối duy nhất của chân lý viên mãn về tôn
giáo và luân lý. Dù sao, trong số các Kitô hữu tiền bối của mình, Lactance đã
muốn đi theo con đường của Minucius Felix hơn là con đường của Tertullien hay
của Cyprien.
MỘT KHOA HỘ GIÁO THÍCH
NGHI.
(Lactance xác định lối hộ giáo của mình
so sánh với phương pháp của thánh Cyprien khi phản bác Démétrien, một người
ngoại giáo).
"Ðấy là lý do tại sao tôi đã không
lùi bước trước nhiệm vụ bàn luận thật cặn kẽ đề tài mà Cyprien đã không khai
thác hết trong phần biện hộ mà ngài cố gắng đứa ra để phản bác tên
"Démétrien", - nói theo đúng từ ngữ của ngài - "kẻ sủa át
cả" chân lý. Hơn nữa, ngài đã không rình bày đề tài đó như đáng lý nó phải
được trình bày : thực vậy, lẽ ra ngài phải dùng những luận cứ hữu lý để bác bỏ
những kết án của hắn chứ không phải dùng những chứng từ Kinh Thánh, vì đối thủ
của ngài xem đó chỉ là chuyện vắt óc hoàn toàn vô ích, tưởng tượng và dối trá.
Vì, khi phải công kích một người không hay biết chân lý, thì đáng lý ngài phải
phần nào gác qua một bên những ký ức của mình về các Sách Thánh, dẫn dắt người
đó như dắt một kẻ mới học, khởi đầu bằng nhưng kiến thức sơ đẳng, rồi dần dần
chỉ cho thấy những phần tử của ánh sáng để anh ta không bị lóa mắt khi được đưa
vào ánh sáng tràn đầy. Vì, cũng như một em bé không thể chịu nổi sức mạnh của
thức ăn đặc, cứng do bao tử còn yếu và người ta nuôi nó bằng sữa, là thứ thức
ăn lỏng, trơn cho đến khi nó trở nên cứng cáp rồi mới có thể dùng thức ăn nặng
hơn, trường hợp anh ta cũng phải như thế, vì chưa thể chấp nhận những luận cứ
của Thiên Chúa, nên trước hết phải trình bày cho anh ta những chứng từ của con
người, nghĩa là chứng từ của các nhà triết học, các nhà sử học, nên ưu tiên nại
tới chính các tác giả mà anh ta dựa vào bác các luận đề của anh ta. Vì thế điều
mà ngài đã không làm, do chiều theo kiến thức đặc biệt của ngài về các Sách
Thánh, đến mức chỉ dừng lại độc nhất ở các bản văn đó, những bản văn nền tảng
của đức tin, thì tới lượt tôi, tôi đã thực hiện điều đó, dưới sự linh hứng của
Thiên Chúa, vả lại cũng là để dọn đường cho những người khác ngõ hầu họ theo
gương tôi".
Institutions divines (Các định chế của
Thiên Chúa) cuốn V, 4. 3-7
Dịch từ Sources Chrétiennes no. 204, p.
149 - 151
THỜI VÀNG SON KHÔNG
PHẢI CHỈ LÀ GIẤC MỘNG.
Nếu như mọi người hết thảy kính thờ
Thiên Chúa thật .
Anh em hãy có tinh thần công minh, nhân
từ, và sự công chính mà anh em tìm kiếm tự nó sẽ đến với anh em. Anh em hãy
đuổi xa khỏi tâm hồn anh em mọi tư tưởng xấu, thời vàng son tự khắc sẽ trở lại
với anh em : nhưng điều đó, anh em chỉ có thể đạt được nếu anh em để tâm kính
thờ Thiên Chúa.
Nếu chỉ duy có Thiên Chúa là được tôn
thờ, hẳn sẽ không có những cãi cọ, hay những cuộc chiến tranh, vì lúc đó con
người biết rằng mình là con cái của Thiên Chúa độc nhất, và như vậy họ được nối
kết với nhau bằng mối liên hệ huyết tộc thần linh, một mối dây linh thánh và
bất khả xâm phạm : sẽ không có những âm mưu ám muội, vì con người biết đâu là
thứ trừng phạt mà Thiên Chúa, Ðấng thấu rõ những tội ác thầm kín và thậm chí cả
tư tưởng của họ, dành sẵn cho những kẻ làm hư hoại các tâm hồn ; sẽ không có
những kẻ ngoại tình, dâm bôn, đĩ điếm nếu mọi người biết rõ Thiên Chúa lên án
mọi ham muốn xác thịt vượt ra ngoài ước muốn sinh sản ; sự túng cực sẽ không
buộc người phụ nữ để cho tiết hạnh của mình ra uế tạp, vì đàn ông sẽ kềm chế
dục vọng của họ ; tất cả những người giàu có, với tấm lòng đạo đức, thành tín,
sẽ đến với những người trắng tay : và như thế, như tôi đã nói, sẽ không có tất
cả những sự dữ đó trên mặt đất này nếu mọi người sống theo lề luật của Thiên
Chúa, nếu mọi người đều thực thi điều mà chỉ có dân chúng ta thực hiện. Hạnh
phúc biết mấy và là thời vàng son biết mấy cho nhân loại, nếu sự dịu dàng, lòng
thành tín, yêu chuộng hòa bình, lẽ công bình, sự tiết độ và lòng tin ngự trị
trên khắp hoàn vũ. Cuối cùng, để cai quản nhân loại, sẽ không cần đến quá nhiều
thứ luật khác nhau, vì chỉ cần luật Thiên Chúa cũng đã đủ để đạt tới sự nguyên
tuyền, sạch tội : không hề cần đến nhà tù, khí giới của những kẻ cầm quyền, hay
cần đến sự khủng khiếp của những đòn trừng phạt, vì những giới luật đưa tới ơn
cứu dộ của Thiên Chúa tự chúng sẽ chan hòa trong tâm hồn con người và huấn
luyện họ thực thi việc công chính.
Lactance, Institutions divines V. 8, 3. 9
Dịch từ Sources Chrétiennes no. 204, p.
165 - 167
MỘT LỐI HỘ GIÁO NHIỀU
THAM VỌNG.
(Lactance giải thích mục tiêu mà ông
nhắm tới trong cuốn "Các định chế của Thiên Chúa" đáp lại một số văn
sĩ bài Kitô giáo).
Ðược thúc đẩy, vừa do sự vô đạo kiêu
căng của chúng, vừa do một đòi hỏi bên trong của chân lý nguyên tuyền và do
Thiên Chúa, ít ra tôi tin là như thế, mà tôi đảm nhận sứ mạng phản bác những kẻ
cáo buộc sự công chính, với tất cả trí lực của tôi, không phải viết để chống
lại những kẻ đó, vì chỉ cần vài chữ là họ đã có thể bị đè bẹp, nhưng là để quật
ngã chỉ trong một lần duy nhất, một cuộc tấn công độc nhất, tất cả những kẻ đã
hoặc đang thực hiện cùng một loại nhiệm vụ đó ở khắp nơi.
Thực vậy, tôi tin chắc rằng cả một đám
văn sĩ khác, trong rất nhiều nước, và không những bằng tiếng Hylạp mà cả bằng
tiếng Latinh, đang dùng tác phẩm của họ để xây tòa nhà bất chính của họ. Và vì
tôi không thể trả lời cho riêng từng người, tôi nghĩ rằng cần phải đưa ra phần
biện hộ của mình thế nào để đánh đổ mọi tác giả trong quá khứ cùng với tất cả
các tác phẩm của họ và chận đứng mọi khả năng viết hoặc đối đáp lại của các tác
giả khác trong tương lai. Chỉ cần họ lắng tai : chắc chắn tôi sẽ làm được, đến
nỗi kẻ nào nghiên cứu tác phẩm của tôi sẽ chấp nhận điều mà trước đó anh ta kết
án, hoặc, điều này cũng gần y như thế, rốt cuộc anh ta không còn nhạo báng nữa.
Tất nhiên, Tertullien cũng đã biện hộ cho điều đó một cách hoàn hảo trong tác
phẩm mang tựa đề "Hộ giáo", song, trả lời cho những lời buộc tội là
một chuyện,và điều này chỉ hệ tại ở việc tự bào chữa và phủ nhận, còn đưa ra
những "định chế" lại là một chuyện khác - điều này chúng tôi đang
làm, và tất nhiên phải đưa vào đó tất cả nội dung chính của giáo lý .
Và nếu, trước lời kêu gọi của chúng tôi,
có những nhà thông thái, hùng biện bắt đầu đi vào con đường này, và thực sự
muốn tung vào chiến trường của luân lý, tài năng và năng lực hùng biện của họ,
thì không thể nghi ngờ rằng những tôn giáo trá ngụy sẽ nhanh chóng tiêu tan và
tất cả triết học sẽ lụi tàn một khi mọi người tin chắc rằng chỉ duy có đạo
chúng ta mới là đạo đích thực, và cũng thế chỉ duy có sự khôn ngoan của chúng
ta mới là khôn ngoan thật.
Institutions divines V. 4. 1 - 3. 8
Sources Chrétiennes no. 204, p. 147 -
151
CÔNG CHÍNH, GIÁ TRỊ TỐI
THƯỢNG.
Lactance định nghĩa sự "công
chính", giá trị luân lý tối thượng :
Bây giờ chúng ta hãy xem đêu là sự thiện
tối thượng, là điều được đề ra cho nhà hiền triết như sự thiện tối cao. Mọi
người đều sinh ra cho sự công chính : không những các Sách Thánh dạy điều đó,
mà ngay cả các triết gia đôi khi cũng tuyên bố như thế. Cicéron nói : trong tất
cả các vấn đề được đưa ra bàn cãi trong những cuộc tranh luận giữa các nhà
thông thái, chắc chắn không có vấn đề nào quan trọng hơn là việc hiểu rõ rằng
chúng ta đã được sinh ra cho sự công chính.
Ðó là chính chân lý. Chúng ta không sinh
ra cho tội ác, mỗi người chúng ta là một con vật xã hội (kiểu nói tìm thấy ở
Sénèque) được dựng nên cho sự hiệp nhất. Loài dã thú được sinh ra cho sự tàn
ác, vì chúng chỉ có thể nuôi mình bằng mồi săn và máu. Dầu vậy, ngay cả bị thúc
đẩy bởi cơn đói tột cùng, chúng vẫn buông tha những con vật đồng loại .
Con người, được nối kết với nhau bằng
lời lẽ trao đổi, bằng cộng đồng tinh thần, phải dung tha con người, phải yêu
thương con người hơn biết bao nhiêu nữa ! Ðó là công chính đích thực .
Sự công chính tự nó bó buộc theo hai bổn
phận, một đàng là bổn phận đối với Thiên Chúa như đối với một người cha, và
đàng khác là bổn phận đối với con người như đối với một người anh em . : đối
với Thiên Chúa là đạo, đối với anh em là đức ái.
Epitome, chương 34
MỘT THẦN HỌC GIA NHIỀU THAM VỌNG.
Lactance còn có tham vọng đưa độc giả đi xa hơn nữa qua
tác phẩm đồ sộ của ông về "Các định chế
của Thiên Chúa" : một tựa đề có lẽ gợi hứng từ các luật gia lớn
của Roma. Hơn nữa "công chính"
là một trong những ý tưởng chìa khoá của tác phẩm. Tác giả có tham vọng trình
bày đầy đủ đức tin Kitô giáo, từ phần mở đầu có tính cách hộ giáo cho đến nội
dung căn bản của nó : Thiên Chúa, Ðức Kitô và công trình của Ngài, luân lý và
phụng tự Kitô giáo, các thực tại chung cuộc : ngày tận thế và thế giới bên kia.
Phía Hylạp, nhờ các Giáo Phụ Alexandrie, người ta đã chuyển rất sớm từ sự trình
bày huấn giáo và các khảo luận bút chiến sang những tiểu luận đầu tiên mang
tính tổng hợp và xây dựng giáo thuyết. Phía Latinh, chính công trình của
Lactance đánh dấu bước chuyển biến này.
Tham vọng lớn lao, nhưng thực hiện thì phải nói thật không
cân xứng bao nhiêu. Về thần học, Lactance là một người tự học, do đó có những
khiếm khuyết trầm trọng và có vẻ không chuyên khi vận dụng nguồn kiến thức của
mình. Ít ra điều này cũng đúng với phần ông trình bày về mầu nhiệm Kitô giáo.
Suy tư của ông về Chúa Cha và Chúa Con ít nhất cũng là mơ hồ và trình bày thẳng
Ngôi Lời kém hơn Thiên Chúa. Trong phần đó ông cũng không nói gì về Chúa Thánh
Thần, một điều quá lạ lùng nơi một người từng đọc Tertullien. Bù lại khi bàn về
Nhập Thể, Lactance đã giữ lại từ vị tiền bối của mình một cái nhìn rất đúng về
khía cạnh thần tính và khía cạnh nhân tính nơi Ðức Kitô, nhưng ông nhìn thấy
nơi Ngài, trước tiên là một thầy dạy và là một gương mẫu, tuy không phải không
biết vai trò là Ðấng Cứu Thế của Ngài cũng như mầu nhiệm Ðóng Ðinh và Phục
Sinh. Khi mô tả phụng tự người Kitô hữu dâng lên Thiên Chúa, ông nhấn mạnh cách
chính đáng các khía cạnh nội tâm và đạo đức, còn đời sống Giáo Hội và đời sống
Bí Tích thì chỉ nhắc qua. Về các thực tại chung cuộc, nhất là về ngày tận thế,
người ta lấy làm ngạc nhiên về cách hiểu sát mặt chữ của ông khi đọc sách Khải
Huyền của thánh Gioan.
Tóm lại, chính Lactance đã đưa ra chững cứ đầy đủ cho thấy
ông không phải là điều mà ngày nay người ta gọi là "một nhà tín lý học" (un dogmaticien). Xét về mặt
suy tư có hệ thống, ơn gọi của ông là ơn gọi của một nhà luân lý, và chính với
tư cách một nhà luân lý mà ông tỏ rõ khả năng của mình khi để lại một đóng góp
độc đáo và sáng tạo. Ông không phải là nhà luân lý Kitô giáo đầu tiên. Trước
ông, Tertullien và Cyprien đã cố gắng giải đáp các vấn đề cụ thể của đời sống
Kitô hữu nhưng không tìm cách xây dựng một luân lý học có hệ thống. Chỉ Clémant
thành Alexandrie, trong cuốn "nhà sư
phạm" (Pédagogue) là có phác họa một khảo luận về đời sống Kitô
hữu, nhưng chỉ lướt qua phần suy tư căn bản để rồi đi ngay vào các chi tiết của
đời sống hàng ngày, thậm chí chỉ là những phép xử thế. Chính Lactance, trong
các cuốn V và VI của tác phẩm "Các Ðịnh
chế" mới là người đều tiên đề ra một cách có phương pháp những
nền tảng triết học và thần học của khoa luân lý khởi từ kiến thức ngoài đời
cũng như từ kinh nghiệm Kitô hữu của ông.
Một trong những ý tưởng chủ lực của ông đó là : luân lý và
tôn giáo kết hợp chặt chẽ với nhau. Con người là một hữu thể tôn giáo, được
dựng nên để gặp gỡ thiên Chúa, một "con
vật thần linh" (Animal divin). Luân lý chỉ hữu hiệu khi đặt nền
trên tôn giáo, và tôn giáo chỉ đích thực khi đưa tới cách xử sự ngay chính.
Lactance tuy không chấp nhận đồng hóa nhân đức với tri thức theo kiểu các triết
gia Hylạp, nhưng theo ông, luân lý và tôn giáo đòi hỏi phải có được khôn ngoan
đích thực, thứ khôn ngoan đã dược mạc khải và bao hàm hiểu biết thật sự về con
người, về thế giới và về Thiên Chúa. Dưới mắt ông, cội rễ của sự hỗn loạn về
luân lý trong nhân loại là vì không biết đến thứ khôn ngoan này. Ðiều ông đặc
biệt nhấn mạnh đó là cần phải hiểu biết điều mà ông sẵn lòng gọi là "huyền nhiệm con người", trong
sự cao cả và nỗi yếu hèn của một hữu thể tự do, đứng ở điểm gặp gỡ của thế giới
vật chất và thế giới tinh thần, phải tuân theo tiếng gọi của lý trí và sự thúc
đẩy của bản năng. Lactance mang khuôn mặt riêng biệt so với các nhà luân lý cổ
thời, dù trong hay ngoài Kitô giáo, khi ông khôi phục giá trị của thị dục và
khoái lạc : thị dục và khoái lạc chỉ xấu khi chùng bị định hướng sai, cũng như
có những cơn giận chính đáng .
Xét về đời sống thực tiễn, luân lý và tôn giáo gặp nhau
trong sự "công chính" ,
một ý niệm trọng tâm trong đó Lactance nối kết sự công chính giữa con người với
nhau cũng như các mối tương quan giữa con người với Thiên chúa và sự thánh
thiện Kitô giáo. Theo ông, sự công chính của con người đối với Thiên Chúa được
thực hiện qua lòng kính sợ, qua thờ phượng nội tâm và hy tế thiêng liêng. Còn
về sự công chính đối với con người, ông giải thích và định nghĩa một cách hết
sức đặc sắc : thật đáng ngại vì trong đó, đòi hỏi hiện đại nhất về tình huynh
đệ đại đồng, về tự do lương tâm, về các quyền con người đều được báo trước và ở
đó cũng hội tụ những đề tài của Cicéron và những tiếng vọng của Tin Mừng. Mọi
người đều là anh em, không chỉ do mối liên hệ tự nhiên mà còn do mối liên hệ
linh thánh nối kết họ với Thiên Chúa ; mọi người tự bản chất là bình đẳng. Con
người, mọi người và từng người, đáng được hưởng sự "nhân đạo" và lòng
thương xót. Nhân đạo hệ tại ở việc "yêu
thương mỗi người vì anh ta là người" và Lactance không ngần
ngại đẩy nhân đạo tới mức từ khước các quyền riêng, tới thái độ bất bạo động,
tới việc không kháng cự lại sự dữ. Thương xót là nhân đức của sự tương trợ giữa
con người với nhau, vì mọi người, một cách nào đó đều thiếu thốn. Lactance
không phải là người không thực tế, theo ông, đời sống luân lý luôn luôn là một
cuộc chiến đấu gian nan. Chiến đấu dũng cảm, khiêm tốn, kiên trì là hoa quả của
sự "nhẫn nại", bà chúa của mọi nhân đức mà Ðức Kitô và các vị tử đạo
là những mẫu gương mãi mãi sống động.
Người ta có thể cho rằng cách trình bày như thế về luân lý
chưa có được âm điệu hoàn toàn là của Kitô giáo như mong đợi : ngôn ngữ là ngôn
ngữ của triết học hơn là của Thánh Kinh, việc tôn giá trị của tôn giáo luân lý
và nội tâm khá phiến diện, lòng kính sợ Thiên Chúa vượt trên tình yêu . Ở đây,
chúng ta gặp lại biểu hiện của mối bận tâm của ông đối với công chúng ngoại
giáo. Dầu vậy, không vì thế mà người ta có thể phủ nhận khảo luận của ông là
công trình của một Kitô hữu xác tín, làm nên một giai đoạn trong lịch sử khoa
luân lý.
CON NGƯỜI HÃY SỐNG NHÂN
ÐẠO.
(Lactance nói về "nhân đạo",
một danh từ triết học mà ông dùng để gọi đức ái theo Phúc Âm).
Mối dây cao nhất nối kết con người với
nhau đó là tính nhân đạo : ai phá vỡ nó phải bị xem là kẻ vô đạo và là một kẻ
giết thân thích (parricide). Vì, nếu chúng ta tất cả đều là dòng dõi của cùng
một người do Thiên Chúa tác tạo, thì chắc chắn chúng ta đều cùng chung một dòng
máu, do đó, phải coi sự thù ghét con người, ngay cả đối với một người bất
lương, là tội ác lớn lao nhất. Chính vì thế Thiên Chúa đã dạy bảo chúng ta đừng
bao giờ nuôi lòng hiềm thù, nhưng hãy luôn dung thứ đối với thái độ đó . Nếu
chúng ta đã lãnh nhận tinh thần và linh hồn từ một Thiên Chúa duy nhất, thì
chúng ta là gì nếu không phải là anh em ? . Vậy, phải coi là loài dã thú những
kẻ hại người, những kẻ bóc lột, hành hạ, giết chết, tiêu diệt bất chấp quyền và
luật nhân đạo.
Chiếu theo mối dây huynh đệ này, /thiên
Chúa dạy chúng ta đừng bao giờ làm điều dữ, nhưng hãy luôn làm điều lành. Thế
nào là làm điều lành theo nghĩa đích xác của nó ? Chính Ngài xác định : đó là
cứu giúp những người khốn khổ, những kẻ lao đao gánh nặng, đem lương thực ho
người túng đói .
Vì thế, chúng ta cần phải nhìn thấy
chính chúng ta trong tha nhân. Chúng ta không đáng được cứu thoát khỏi hiểm
nguy nếu chúng ta không phải là người hay cứu giúp . Vậy chúng ta hãy giữ lòng
nhân đạo nếu chúng ta còn muốn được gọi một cách chính đáng là những con người.
Giữ lòng nhân đạo là gì nếu không phải là yêu người vì anh ta là người, như
chúng ta mọi đàng . Ðó là sự công chính hoàn hảo, vì chính điều đó bảo vệ xã
hội loài người.
Institutions divines VI, 10 -11
SÁCH NGHIÊN CỨU THÊM
J. R. LAURIN, Orientations maitresses des Apologistes
chrétiens de 270 à 361, Univ. Grégor. 1954.
E. LAMIRANDE, "lactance"
dans Dictionnaire de Spirritualité, t. IX, 1976, coll. 48 - 49.
M. SPANNEUT, Tertullien et les premiers moralistes
africains, p. 125 - 179.
J. FONTAINE - M. PERRIN, Lactance et son temps, coll, "Théologie historique" Beauchesne,
Paris, 1978.
M. PERRIN, Lhomme antique et chrétien, lanthropologie de
Lactance, coll. "Théologie
historique", Beauchesne, Paris, 1981.
Các bản dịch trong "Sources
Chrétiennes" : La Mort des persécuteurs (no. 39)
Institutions divines 1. V (no. 204 - 205) - Loeuvre de Dieu (no.
213 -214) - La colère de Dieu (no. 289).