HILAIRE DE POITIERS "ATHANASE CỦA TÂY PHƯƠNG"
Tuy cùng thời với nhau, Hilaire và Athanase có lẽ
chưa bao giờ gặp nhau. Nhưng, hai tên tuổi này cần phải được đặt bên nhau vì có
rất nhiều điểm tương đồng giữa hai cuộc đời, nhiều nét giống nhau giữa vai trò
của mỗi người trong cuộc khủng hoảng ở thế kỷ IV. Chắc chắn Hilaire đã không
tham dự vào những diễn biến đầu tiên của cuộc khủng hoảng này, vì ngài khởi đầu
sự nghiệp Giám Mục và là nhà thần học vào khoảng năm 350. Thế nhưng, Hilaire
chẳng bao lâu đóng một vai trò trong Giáo Hội Tây phương như vai trò mà
Athanase đã đóng từ 20 năm trong Giáo Hội Ðông phương : một người bảo vệ không
thể lay chuyển cho đức tin của Nicée, một người cương quyết chống lại sức ép
của triều đình, một nhân chứng chắc chắn về niềm tin Ba Ngôi của Giáo Hội, và
cuối cùng là người kiến tạo hữu hiệu sự tái thống nhất hàng Giám Mục. Ngoài ra,
chúng ta có thể cúi chào ngài trong tư cách là vị đại tiến sĩ đầu tiên xuất
hiện từ Giáo Hội Gaule.
Tuy nhiên, dường như không có gì chuẩn bị trước cho
ngài đi vào một định mệnh liên hệ với Giáo Hội như vậy. Sinh ra trong một gia
đình khá giả, ngài đã được đào tạo rất tốt về mặt trí thức. Poitiers là một
thành của Aquitaine II lúc bấy giờ, Aquitaine là một tỉnh có thể tự hào vì có
một nền văn hóa rực rỡ. Chúng ta không rõ Hilaire đã hướng tới sự nghiệp nào và
hành trình thiêng liêng của ngài ra sao. Tuy nhiên, chính ngài hé cho thấy ngài
chỉ đến với Ðức Tin sau một tìm kiếm lâu dài, nhờ gặp gỡ Thánh Kinh, khám phá
Ðức Kitô và sứ điệp của Người : một hành trình làm cho ta nhớ lại hành trình
của Justin, và cho thấy, ngài trở lại và được rửa tội khi đã trưởng thành. Lúc
các giáo sĩ và giáo dân chọn Ngài làm Giám Mục thì ngài đã lập gia đình và có
một đứa con gái.
Ngài đã lập tức tỏ ra là một mục tử xác tín về tầm
quan trọng của việc nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu Thánh Kinh. Tác phẩm "Chú giải về thánh Matthêu" viết
trong những năm đầu của đời Giám Mục, minh chứng điều đó ; tác phẩm này cho
thấy ngài đã quen thuộc Thánh Kinh một cách đặc biệt. Cũng trong thời gian đó,
ngài còn soạn thảo ba cuốn đầu tiên của đại tác phẩm "Về Ba Ngôi". Vào giai đoạn này, ngài biết
Tertullien và Cyprien, nhưng vẫn chưa biết đến các nguồn Kitô giáo Hylạp. Cho
tới những năm 355 - 356, ngài chỉ theo dõi từ xa các diễn biến của cuộc khủng
hoảng Arius, chứ không trực tiếp can dự.
HILAIRE HÉ CHO THẤY HÀNH TRÌNH ÐẾN VỚI ÐỨC TIN VÀ PHÉP RỬA CỦA MÌNH.
Khát vọng
của tâm hồn tôi, không những là làm những gì mà sẽ thật đau khổ và đáng bị phê
phán nếu không làm điều đó, nhưng còn là khát vọng mong đuợc biết tác giả của
ân sủng lớn lao đến như thế, nghĩa là Thiên Chúa. Tất cả tâm hồn tôi muốn báo
đáp cho Người : tin chắc rằng phụng sự Người, đặt tất cả niềm hy vọng vào
Người, nghỉ an nơi lòng nhân hậu của Người giữa muôn tai họa hiện tại, như nơi
một hải cảng thân quen, chắc chắn . đó chính là làm cho tâm hồn mình nên tôn
quí .
Trong lúc
gẫm suy những ý tưởng như thế và những ý tưởng khác tương tự, tôi chợt gặp thấy
những cuốn sách do Môsê và các Tiên Tri viết theo các truyền thống của Dothái
giáo. Trong đó, người ta có thể đọc thấy chính những lời của Ðấng Tạo Dựng
chứng thực về mình : "Ta là Ðấng Có" (Xh 3, 14), và "Người sẽ
nói với con cái Israel thế này : Ðấng Có đã sai tôi đến với các người".
Tôi lấy làm thán phục trước một định nghĩa hoàn hảo như thế về Thiên Chúa : nó
diễn tả tri thức khôn dò thấu về bản tính Thiên Chúa trong một công thức hoàn
toàn thích hợp với trí tuệ con người.
Thêm vào tất
cả những ý tưởng đó còn có một tâm thức tự nhiên : niềm hy vọng về chân phúc
bất hoại, xứng đáng lãnh nhận, nhờ tư tưởng thánh thiện về Thiên Chúa và nhờ
cuộc sống vô phương trách cứ, như phần thưởng cho cuộc chiến đầu đã giành chiến
thắng. Ðúng vậy, có ý tưởng chính xác về Thiên Chúa liệu có ích gì, nếu mọi tâm
thức đều bị cái chết huỷ hoại, bị tiêu tan do sự sụp đổ nào đó của bản tính hư
hoại mà tôi không rõ .
Giờ đây, tâm
hồn từng xao xuyến lo âu của tôi đã tìm lại được một niềm hy vọng vượt quá mong
đợi. Ðấy là giáo huấn về huyền nhiệm Thiên Chúa mà tôi đã hân hoan đón nhận.
Nhờ thân xác, linh hồn tôi tiến đến với Thiên Chúa : nhờ niềm tin, linh hồn tôi
được kêu gọi tới một cuộc sinh ra mới, được ban cho khả năng đón nhận ơn tái
sinh thần linh.
Về Ba Ngôi I, 3 - 12 Trad. A.
Rlaise,
Coll. "Les écrits des
Saints", Ed. du
Soleil Levant, Namur 1964, p.
38 - 47
NGƯỜI CHIẾN
ÐẤU.
Chính những năm 355 - 356 đã quyết định vận mệnh
của ngài trong Giáo Hội. Khi đó, hoàng đế Constance ra sức áp đặt hàng Giám Mục
phải thuận theo chính sách tôn giáo của ông và phải lên án Athanase. Tại một
Công Ðồng nhóm họp tại Arles, các Giám Mục hiện diện đều tùng phục, ngoại trừ
Paulin de Trèves, người bị lưu đầy. Một Công Ðồng khác ở Milan năm 355 cũng lại
là một chiến thắng cho hoàng đế. Phẫn nộ trước cách thức đe dọa của chính quyền
cũng như trươc sự nhu nhược của các đồng sự, Hilaire thấy không thể giữ thái độ
dè dặt nữa và quyết đứng ra chống lại. Chỉ một thời gian ngắn, ngài trở thành
linh hồn cuộc chống đối, lôi kéo được một phần hàng Giám Mục Gaule vào cuộc. Từ
đây ngài là đích nhắm cho phe Arius thay chân của hoàng đế, và ngay sau đó,
cũng như Rhadanius de Toulouse, ngài lãnh án lưu đày. Ngài bị đày sang Tiểu Á
chính trong thời gian Giáo Hoàng Libère bị bắt và giải sang Thrace.
Như vậy tại Ðông phương, Hilaire sẽ sống những năm
tháng đen tối nhất của Giáo Hội thế kỷ IV (356- 366) trong khi Athanase, người
được ngài hăng say bảo vệ, đang lẫn trốn tại Aicập. Ðược hưởng ,một cuộc sống
khá tự do, ngài không ngồi yên. Trong thời kỳ này, ngài hoàn tất khảo luận "Về Ba Ngôi" và một tác phẩm
thần học khác nhằm trình bày cho các Giám Mục Gaule và Anh thấy những nét tinh
tế về thần học Hylạp, và nhiều bản tuyên tín do các Công Ðồng bên Ðông phương
soạn thảo từ lúc cuộc tranh luận phát triển : "Về
các hội nghị" hay "Về
đức tin của người Ðông phương" (chúng ta cũng có một tác phẩm
tương tự của Athanase, với nhan đề giống như vậy "Về các hội nghị"). Ngài còn thực hiện một tập tài
liệu, kiểu hồ sơ lịch sử của Athanase, để tố giác những mưu mô của phe Arius và
dùng các sự kiện để biện minh cho vị Giám Mục thành Alexandrie.
Các tác phẩm này duy trì sự chống đối ở Gaule. Tuy
nhiên, Hilaire và những người theo ngài đã không thể làm điều gì để ngăn chặn
sự lụn bại của hàng Giám Mục. Năm 357, Giáo Hoàng Libère bị phái Arius cô lập
và áp chế đã ký nhận một công thức đức tin mà người ta áp đặt cho ngài, cử chỉ
này tương đương với việc xá giải cho Arius và bỏ rơi Athanase. Cũng năm ấy,
Ossius de Cordoue già lão, người "Cha
của các Công Ðồng" chấp nhận những nhượng bộ còn quan trọng hơn
nữa. Công việc tệ hại này được hoàn tất với hai Công Ðồng năm 359. Một tại
Rimini, Ý : 400 Giám Mục Latinh rốt cuộc nhượng bộ Constance, Công Ðồng kia
nhóm họp ít lâu sau tại Séleucie, Tiểu Á : Các Giám Mục chống đối, chán nản
trước sự đầu hàng của các Giám Mục Tây phương nên cũng đi vào con đường đó. Ngài
bất lực chứng kiến sự đầu hàng của các Giám Mục Ðông phương mà tức giận sôi
sục, ngài đi theo các đặc sứ của hai Công Ðồng đến Constantinople, họ phê chuẩn
mọi sự mặc cho những lời cảnh cáo của ngài.
Ngài không còn phương sách nào hơn là tiếp tục viết.
Ngài có chất liệu để bổ túc hồ sơ về lịch sử lạc giáo Arius, và đã thực hiện
điều đó. Ngài thảo một bản thỉnh cầu gửi hoàng đế, tiếp đến là một phản kháng
với lời lẽ hết sức mạnh mẽ (Cuốn "Chống
hoàng đế Constance"), nhưng trong lúc này, ngài muốn xếp lại đó
đã. Vả lại, cũng chẳng cần đến thế Constance mới thấy ngài là kẻ quấy rối phiền
nhiễu, và cuối cùng ông đã tống ngài về lại Tây phương năm 360.
Từ lúc đó, vị Giám Mục dũng cảm của Poitiers dồn
hết sức vào việc liên kết lại hàng Giám Mục Gaule và xoá đi sự đầu hàng đáng
buồn ở Rimini. Một Công Ðồng được nhóm họp tại Lutèce (Paris) khoảng cuối năm
360 đánh dấu những nỗ lực của ngài thành công hầu như hoàn toàn.
Chưa hài lòng với thành quả đáng kể này, Hilaire
còn muốn tấn công vào thành trì của lạc giáo Arius là Milan, bên kia dãy Alpes,
nơi một Giám Mục theo phái Arius đang giữ vững. Ngài đến tận nơi, được hoàng đế
cho phép tổ chức một buổi diễn thuyết tranh luận, nhưng rồi hoàng đế muốn tránh
tất cả những gì có thể gây ra xáo trộn nên buộc ngài ngưng hoạt động ở đó.
Hilaire đành phải trở về Gaule và đã phản kháng kịch liệt với lời lẽ cay độc
trong cuốn "Chống Auxence" (364
- 365).
NHỮNG PHẨM CHẤT THIẾT YẾU CHO VỊ GIÁM MỤC.
Tông Ðồ
Phaolô đáng kính, khi muốn xác định bản chất của chức Giám Mục, và bằng những
lời khuyên bảo của mình, muốn tạo ra một con người của Giáo Hội thật sự mới, đã
trình bày cho thấy đâu là phẩm chất tối hậu mà người đó phải có, ngài nói :
"Phải là người nắm giữ giáo điều chắc chắn chiếu theo đạo lý, để có thể
vừa khuyên răn rập theo đạo lý thần lương, vừa biện bác những người chống đối.
Vì có lắm kẻ loạn tặc, huênh hoang hư ngôn, phỉnh phờ gạt gẫm" (Tit. 1, 9
- 10). Như vậy ngài cho thấy những phẩm chất đạo đức thuần túy tất nhiên là hữu
ích cho phẩm cách của vị tư tế, nếu như bên cạnh đó, không thiếu mất những phẩm
chất liên quan đến hiểu biết về đức tin mà vị đó phải giảng dạy và bảo vệ. Quả
thế, bằng lòng với một cuộc sống vô phương trách cứ hoặc bằng lòng với việc nói
năng thông thái, đấy không phải là việc của một Giám Mục tốt và hữu ích. Ðạo
đức vẹn toàn sẽ chỉ có ích cho bản thân mình nếu không đồng thời là nhà thông
thái và sự thông thái sẽ không cho phép giảng dạy với uy quyền nếu không đồng
thời là người vô phương trách cứ.
Tông Ðồ
Phaolô đã muốn người ta tìm thấy nơi vị giám Mục giáo huấn với lời lẽ thuần
lương, một đức tin có ý thức, có khả năng thuyết phục, một sự phản kháng kiên
quyết đối với những kẻ chống đối vô đạo. Quả có lắm kẻ giả mạo đức tin chứ
không tùng phục đức tin : chúng tự tạo ra đức tin cho mình hơn là đón nhận,
vênh vang với những suy tưởng phàm nhân, hão huyền .
Vậy cần phải
trả lời cho sự vô đạo đang lầm lạc, cho sự lầm lạc của những hư ngôn, cho sự hư
luống của những lời phỉnh phờ gạt gẫm ; và cần phải trả lời bằng sự tinh tuyền
của đạo lý, bằng chân lý của đức tin, bằng sự chính xác của lời nói, đến mức sự
chính xác là dấu chứng của chân lý và chân lý là dấu chứng của sự chính xác.
(Hilaire, Về Ba Ngôi VIII, 1.
Trad. A. Blaise, p. 79 - 81)
NHỮNG TAI HẠI DO CÁC GIÁM MỤC GÂY RA.
Hilaire tố
cáo sự thông đồng của các Giám Mục phe Arius với chính quyền.
Trước hết,
hãy than vãn cho sự khốn khổ của thời đại chúng ta và lấy làm đau đớn cho cái ý
nghĩ điên rồ đã khiến người ta tưởng rằng bảo vệ cho Giáo Hội Chúa Kitô là phải
dùng đến những mưu mô thế tục. Tôi hỏi quý vị, quý vị nghĩ mình là Giám Mục,
vậy thì các Tông đồ đã dùng những sự bảo trợ nào cho việc rao giảng Tin Mừng ?
Các ngài đã dựa trên những quyền lực nào để rao giảng Ðức Kitô và làm cho hầu
hết mọi dân nước từ tôn thờ ngẫu tượng sang tôn thờ Thiên Chúa ? Phải chăng các
ngài tìm kiếm một sự kính nể nào đó ở triều đình, khi các ngài hát dâng lên
Thiên Chúa một bài thánh ca trong chốn lao tù, giữa xiềng xích và sau khi bị
đòn roi hay sao ? Phải chăng nhờ những sắc chỉ của một ông vua mà Phaolô bị đem
làm cười chốn hí trường, đã hình thành một Giáo Hội cho Ðức Kitô hay sao ? Phải
chăng ngài tự bênh vực với sự hỗ trợ của Néron, của Vespasienen hay của Dèse,
của những vua chúa mà sự thù ghét đối với chúng ta đã làm nảy nở đức tin vào
lời rao giảng Thiên Chúa hay sao ? Khi các ngài tự tay làm việc nuôi thân, khi
các ngài bí mật họp nhau trong các phòng cao, khi các ngài rảo qua các làng
mạc, thị thành và hầu hết mọi nước, xuyên qua đất liền, biển cả, bất chấp những
quyết nghị của nghị viện, những sắc chỉ của nhà vua, có lẽ nào nghĩ rằng các
ngài lại không có chìa khóa Nước Trời hay sao ? Sức mạnh của Thiên Chúa lại đã
không tỏ lộ chống lại sự thù ghét của con người, khi mà việc rao giảng Tin Mừng
càng bị trói buộc thì lại càng mạnh mẽ hay sao ? Thế mà, ngày hôm nay, đau đớn
thay, những sự che chở của thế gian lại bảo đảm cho đức tin thần linh, Ðức Kitô
dường như bị lột hết sức mạnh, trong lúc người ta dùng âm mưu, mánh khóe nhân
danh Ngài : Giáo Hội đem lưu đầy tù tội ra đe dọa ; muốn dùng sức mạnh để làm
cho người ta tin mình, nhưng chính vì không kể gì đến những lưu đày, những ngục
tối mà Giáo Hội đã lôi kéo vào đức tin. Giáo Hội đày các Giám Mục, nhưng chính
những Giám Mục bị đày là những người truyền bá Giáo Hội. Giáo Hội tự hào vì
được thế gian yêu thích, trong khi Giáo Hội đã không thuộc về Chúa Kitô được
nếu không bị thế gian thù ghét."
Chống Auxence, 3 - 4.
Trad. E. Grijje La Gaule
Chretienne à
Lépoque romaine Paris 1964, p.
265 - 266
VỊ TIẾN SĨ.
Ngoài cuộc đụng độ trên, những năm cuối đời của Hilaire
như là những năm yên hàn. May mắn hơn Athanase ở Ðông phương, và mặc dầu qua
đời trước vị này (ngài qua đời năm 367 hoặc 368), ngài đã có thể chứng kiến sự
hiệp nhất của Giáo Hội Tây phương được phục hồi rộng khắp. Ngài trở về với các
công trình chú giải của mình. Chúng ta còn giữ được một phần cuốn "Chú giải về các Thánh Vịnh" và
cuốn "Sách về các mầu nhiệm bàn
về việc loan báo Ðức Kitô trong Cựu Ước, trong tác phẩm này, tác giả xử dụng
lối chú giải bằng ẩn dụ mà ngài đã khám phá thấy nơi Origène. Hilaire còn sáng
tác nhiều thánh thi phụng vụ mà chúng ta còn lưu giữ được ba bài.
Cuối cùng, hoạt động của ngài kéo dài khoảng hơn 15
năm. Cả ngài nữa, dường như ngài đã không thể bộc lộ hết khả năng của mình. Là
người có học thức uyên thâm, một văn sĩ có tài, tuy rằng ngài sử dụng một ngôn
ngữ và một lối viết văn hết sức đặc biệt của mình khiến cho việc đọc hay dịch
tác phẩm của ngài là chuyện không dễ dàng gì, như thánh Jérôme nhận xét, nhưng
ngài có thiên khiếu để xây dựng nên một văn phẩm lớn. Ngài có tài năng của một
nhà thần học. Ba cuốn đầu của khảo luận "Về
Ba Ngôi", một loại huấn giáo bậc thầy về đức tin vào Thiên Chúa
là Cha, Con và Thánh Thần, chứng tỏ một sự chín chắn rất mực về thần học, đưa
chúng ta về lại với đức tin phép rửa trong tất cả sự minh bạch của nó.
Những tiếp xúc của Hilaire với thần học Hylạp giúp
ngài làm giàu và đào sâu suy tư của mình, nhất là cho phép ngài bổ túc thần học
của Nicée về điểm phân biệt giữa các Ngôi Vị để chống lại hình thái thuyết.
Ðằng khác, ngài còn thừa hưởng truyền thống Latinh một ý thức vững chắc về nhân
tính trọn vẹn của Ðức Kitô, cho dẫu ngài đã tưởng cần phải bảo vệ cái quan niệm
về tính bất khả thụ của Ngôi Lời đối với đau khổ. Như vậy, tácphẩm của ngài
thực sự tạo nên một gạch nối giữa Kitô giáo Laitnh và Kitô giáo Hylạp.
Là nhà thần học giữa lòng xã hội bị xé rách, những
cũng chính vì những vết xé khác nhau đó mà Hilaire đã nổi bật lên nhờ một ý
thức thật sự về đại kết. Mục tiêu của ngài là qui tụ mọi tín hữu bác bỏ thuyết
Arius, bât kể họ thích dùng ngôn ngữ nào hay nhạy cảm thế nào về công thức
Nicée. Vào một giai đoạn mà người ta hăng say ném vào mặt nhau các từ ngữ thần
học và các lời tín hữu thì Hilaire quả quyết đức tin đáng kể hơn là những danh
từ, và ngài không ngần ngại hỗ trợ cho những người tin chắc chắn vào thần tính
của Ðức Kitô nhưng diễn tả bằng một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ của Nicée, dù
điều đó khiến cho một số người đồng minh của ngài khó chịu.
Về điều này, Hilaire không hề theo chủ nghĩa tương
đối. Ngài xác tín rằng đức tin cần phải đối diện với điều mà ngài gọi là "thử thách ngôn ngữ của nhân loại" trong
mối ưu tư đạt tới sự chính xác hết sức có thể, nhưng ngài cũng ý thức sâu xa về
những giới hạn không thể tránh của ngôn ngữ này. Tôn trọng huyền nhiệm của
Thiên Chúa là một trong những nét đặc sắc của tâm hồn ngài. Nhiều lần dưới ngòi
bút của ngài, trình bày thần học biến thành lời cầu nguyện dài một cách thật tự
nhiên : để có thể đi vào hiểu biết về Thiên Chúa thì trước hết, ngài nói, phải "cầu nguyện . tìm . gõ".
Hilaire là nhà thần học độc đáo hơn Athanase, và
nhất là rất có cá tính, không lệ thuộc vào câu nệ, tự vạch lấy con đường cho
mình với một sự chắc chắn vững vàng hơn nhiều nếu xét về toàn bộ. Ngài đã chuẩn
bị cho các nhà thần học lớn thế kỷ IV và V ở Tây phương. Augustin, cũng như sau
này thánh Thomas, thích trích dẫn ngài và chính Augustin coi ngài đích thực là "Tiến sĩ Giáo Hội". Sinh tiền,
Hilaire có biết một trong những người ngưỡng mộ mình, một sĩ quan quân đội
Roma, đó là Martin, Giám Mục Tours tương lai, và là một trong những vị sáng lập
chế độ đan tu ở Gaule. Khi từ bỏ binh nghiệp, Martin tìm đến với Hilaire ở
Potiers, Hilaire đã lấy tình cha con khích lệ Martin trong bước đầu thiết lập
các đan viện ở Ligugé. Như vậy, Giáo Hội Gaule có thêm một lý do để kính nhớ
Ðấng đã là một trong những mục tử vĩ đại của mình.
CÙNG MỘT ÐỨC TIN DƯỚI NHỮNG TỪ NGỮ KHÁC NHAU.
"Duy
nhất" về bản thể giữa Chúa Cha và Chúa Con hay "giống nhau" hoàn
toàn về bản thể ? Hilaire không muốn người ta tuyệt thông lẫn nhau vì những
danh từ trong khi lại chia sẻ cùng một đức tin cốt yếu.
Ðứng trước
nhiều thảm họa và là những hiểm họa nghiêm trọng cho đức tin như thế, cần phải
biết giải thích sự khô cằn của các từ ngữ. Ðừng phê phán một lời nói là nghịch
đạo khi điều đó hiểu được là hợp với lòng đạo . Người Công giáo muốn khẳng định
bản thể duy nhất của Chúa Cha và Chúa Con thì không nên khởi đầu từ đó : đừng
biến nó thành một công thức thiết yếu, như thể ngoài công thức đó thì không có
đức tin đích thực. Người đó sẽ khẳng định một bản thể duy nhất mà không nguy
hại gì nếu trước đó anh ta nói Chúa Cha không được sinh ra, Chúa Con được sinh
ra, Ngài lập hữu bởi Chúa Cha, giống chúa Cha về quyền năng, danh dự và bản
tính . Vì Thiên Chúa không là xét về Ngôi Vị nhưng là về bản tính . sau đó, khi
nói một bản thể, anh ta sẽ không lầm lạc.
Người ta có
thể khẳng định một bản thể duy nhất một cách thành tín, thì người ta cũng có
thể nín lặng về điều đó một cách thành tín. Tại sao chúng ta lại ngờ vực kiếm
chuyện cãi cọ với nhau về danh từ trong khi chúng ta có gì khác nhau trong cách
hiểu vấn đề ?
Hỡi anh em,
tôi xin anh em, hãy dẹp bỏ những ngờ vực và hãy tránh dịp tạo ra những điều đó
. tôi không chịu được diễn ngữ (duy nhất về bản thể) của anh em nếu nó có nghĩa
là người nào tuyên xưng sự giống nhau về bản thể hiểu theo nghĩa đạo đức thì
phải bị vạ tuyệt thông . Người ta không thể lên án một danh từ khi nó không hủy
hoại ý nghĩa của đạo giáo.
Về các hội nghị 69. 71. 91
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA HILAIRE DÂNG LÊN BA NGÔI.
Về phần con,
con ý thức rằng phận sự chính của cuộc đời con cũng như mọi lời nói của con,
mọi tư tưởng của con là phải hiến cả cho người. Lạy Thiên Chúa là Cha Toàn
Năng. Phần thưởng lớn lao nhất mà việc xử dụng ngôn ngữ Người đoái ban cho con
có thể mang lại đó là được phụng sự Người bằng cách tuyên ngôn điều mà Người
là, nghĩa là Chúa Cha, và là Cha của một Chúa Con duy nhất, và chứng minh chân
lý đó trước một thế giới chưa biết đến hay những kẻ lạc giáo phủ nhận nó. Ít ra
đó là những gì mà con tuyên bố là mục đích độc nhất của con : phần còn lại, con
phải khẩn nài ân sủng của lòng xót thương trợ giúp của Chúa ; hiện thời con đã
căng cho Người những cánh buồm của đức tin và của lời tuyên tín của chúng con,
xin Người đoái thương làm cho buồm căng nhờ luồng gió của Thần Khí Người, ban
sức đẩy và đà lướt tới cho việc rao giảng mà chúng con đang thực hiện. Vâng,
Người thành tín với chúng con, Ðấng đã bảo đảm lời hứa này : "Hãy xin thì
sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho" (Lạy Chúa, 11, 9). Phần
chúng con, chúng con xin Người những gì mà thân phận nghèo hèn của chúng con
thiếu thốn và chúng con sẽ đem lòng nhiệt thành không biết mệt mỏi vào việc tìm
kiếm cặn kẽ lời của các Tiên Tri, các Tông Ðồ của Người, chúng con sẽ gõ mọi
cánh cửa giữ chặt ngõ vào tri thức về huyền nhiệm những chính Người mới là Ðấng
ban cho chúng con khi chúng con kêu xin, hiện diện khi chúng con tìm kiếm Người
và mở ra khi chúng con đã gõ .
Vậy, xin
Người ban cho chúng con được ơn trao cho từ ngữ ý nghĩa thật của chúng, ban ánh
sáng cho phép hiểu được, cho chúng con có được lối văn thanh cao và một niềm
tin chính xác. Ðiều chúng con tin, xin hãy làm cho chúng con có khả năng diễn
tả ra : nghĩa là có thể tán tụng Người, Thiên Chúa duy nhất là Cha, cũng như
một Chúa duy nhất của chúng con, Ðức Giêsu Kitô, dưới ánh sáng của các Tiên
Tri, các Tông Ðồ, chống lại những phủ nhận của những kẻ lạc giáo.
Về Ba Ngôi I, 37 Trad. A.
Blaise, p. 51 - 52
SÁCH NGHIÊN
CỨU THÊM.
P. CALTIER, Saint Hilaire de Poitiers, Le premier
docteur de lEglise Latine, Beuachene, Paris 1960.
E. GRIFFE, La Gaule chrétienne à lépoque romaine,
Des Origines chrétiennes à la fin du IV è sìecle, Paris, 1964, p. 218 - 170.
Hilaire et son temps, Collique de Poitiers 1968,
Paris Études Augustiniennes, 1969.
CÁC BẢN DỊCH
Saint Hilaire de Poitiers, taxtes choice, coll. "Les Ecrits des Saints", Editions
du Soleil Levant, Namur, 1964.
Hilaiare de Poitiers, La Trinité I - III, coll. "Les Pères dans la foi", Paris,
D.D.B. 1981.
"Sources
Chrétiennes" : Commentaire sur Mattheu, no.
254 et 258. Traité des Mystères, no. 19.
LỜI BẠT
(CHO PHẦN KẾ TIẾP)
VÀO LÚC Athanase qua đời (373) sau Hilaire ít lâu,
Basile đã là Giám Mục từ vài năm (370), đánh dấu sự xuất hiện của các "đại Giáo Phụ Cappadoce" :
Thánh Basile thành Césarée, thánh Grégoire thành Naziance và thánh Grégoire
thành Nysse. Jean Chrysostome vừa mới được rửa tội (372), Ambroise sắp được
phong làm giám Mục Milan (374), Jérôme ra đi, khởi đầu tiếp xúc với đời sống
đan tu Ðông phương, trong lúc Augustin mới 20 tuổi, đang theo học tại Carthage.
Như vậy, sự kế tục sẽ thật tuyệt vời, nhưng điều đó hẳn không thể có được nếu
không có công khó của những người mà, trên bình diện tư tưởng Kitô giáo và thần
học, xứng đáng được gọi là những người khai phá : Justin, Irénée, Tertullien,
Origène, Cyprien, Athanase, Hilaire . những người đã biết mở ra những con đường
và đặt những cột mốc quyết định.
TUY NHIÊN, công trình của các ngài, dù hết sức
phong phú và đôi khi táo bạo nữa, vẫn không thể tránh khỏi tính chất chưa hoàn
tất của nó. Sự chín mùi sẽ xuất hiện vào những thập niên cuối của thế kỷ IV.
Sau giai đoạn của những người khai phá sẽ là giai đoạn mà những người xây dựng
là chính, những người đã xây nên một di sản thần học và tu đức mà mãi mãi sẽ là
chất sống cho Kitô hữu Ðông phương lẫn Tây phương (như tập 2 sẽ cho thấy điều
đó).