KHỞI ÐẦU MỘT ÐẠI TRUYỀN
THỐNG
GIÁO PHỤ EUSTATHE THÀNH ANTIOCHE
ÐỊCH THỦ SỐ
MỘT CỦA PHÁI ARIUS.
Eustathe, một con người mạnh mẽ, nhân vật chủ chốt,
bên cạnh Alexandre thành Alexandre và Ossius thành Cordoue khi cuộc khủng hoảng
Arius khởi phát. Số phận bi thảm của Eustathe đã chấm dứt đời Giám Mục ngắn
ngủi của ngài cách tàn nhẫn và ảnh hưởng tai hại đến việc lưu giữ các tác phẩm
của ngài.
Ngài nhận Tòa Giám Mục Antioche trong những năm
trước Công Ðồng Nicée (giữa những năm 319 - 324). Ngay từ những giây phút đầu,
ngài đã tỏ lập trường chống lại những ý tưởng của Arius. Nếu đúng như
Théodoret, sử gia người Atioche thế kỷ V nói, thì chính ngài là người được vinh
dự khai mạc Công Ðồng và đọc bài diễn văn tiếp đón hoàng đế Constantin. Dù sao
không thể nghi ngờ việc ngài là một trong những người hướng dẫn Công Ðồng trong
tư cách là người "Bênh vực chân
lý", theo cách nói của Théodoret, đương đầu với các Giám Mục có
thiện cảm với Arius, chẳng hạn Eusèbe thành Césarée, người mà ngài nghiêm khắc
phê phán. Thái độ hăng hái quyết liệt và những tác phẩm chống thuyết Arius đã
khiến ngài bị phe Arius coi là đối thủ phải triệt hạ khi những người này có thể
ngóc đầu dậy sau Nicée, nhờ những biến động về chính trị trong đế quốc, một hội
nghị phục vụ cho phe Arius được tổ chức ở Antioche tuyên bố bãi chức Eustathe,
việc này có lẽ xảy ra ngay từ năm 327 và muộn nhất là vào năm 330 - 331, hoàng
đế đã lưu đày ngài sang Thrace. Kẻ bất hạnh bị phát vãng đã chết trước khi
triều đại Constantin kết thúc. Tuy nhiên, một nhóm nhỏ tín hữu cùng với vài
thành viên trong hàng giáo sĩ vẫn nhớ đến ngài một cách mãnh liệt, không nhận
quyền bính của các Giám Mục thuộc phái Arius lên thế Eustathe, và gây nên cuộc
ly khai với những hệ lụy ảnh hưởng đến toàn Giáo Hội Ðông phương trong suốt thế
kỷ IV.
Người ta có thể hiểu được Eustathe đã không có thời
gian để chứng tỏ tất cả tầm cỡ của mình. Vả lại chúng ta chỉ còn giữ được những
mãnh rời rạc từ các trước tác của ngài, các trước tác đó ban đầu được một cộng
đoàn nhỏ theo Eustathe ở Antioche bảo quản kỹ lưỡng, nhưng rồi, sau cuộc khủng
hoảng ở thế kỷ IV, đã được phổ biến rộng rãi, và được khai thác trong suốt các
cuộc tranh luận về Kitô học, để cuối cùng bị quên lãng và thất lạc. Eustathe đã
trước tác trước khi có vụ Arius. Vụ Arius chỉ là yếu tố kích thích hoạt động
văn chương của ngài. Qua thánh Jérôme, chúng ta biết ngài đã để lại số lượng
thư tín rất lớn. Trong số các tác phẩm bị thất lạc, người ta chỉ còn giữ được
toàn phần một tác phẩm nhỏ : "Về bà đồng
bóng ở Endore" (1Samuel 28, 7 - 25), trong đó Eustathe không
chấp nhận việc bà đồng bóng đã có thể thực sự chiêu hồn Samuel, và xem sự việc
đó chỉ là sự gian trá của ma quỷ, trong khi Origène lại tin sự kiện đó là thực.
Di sản của Eustathe chỉ còn là những mảnh nhỏ, và qua những mảnh đó, chúng ta
biết được có nhiều tác phẩm đã biến mất : một khảo luận "Về linh hồn" (De anima) chống
lại các triết gia, một khảo luận khác "Về
linh hồn chống lại phe Arius", một chú giải "Cách ngôn 8, 22", các tác phẩm
khác nhau chống lại chủ thuyết Arius, các bài giảng . Những nghiên cứu hiện nay
đưa ra ánh sáng tầm quan trọng của công trình bị quên lãng này trong lịch sử
thần học đồng thời làm sáng tỏ chỗ đứng đặc biệt của Eustathe trong truyền
thống Ðông phương Kitô giáo cổ thời.
CHỨNG TỪ CỦA EUSTATHE VỀ CÔNG ÐỒNG NICÉE.
Trong những
tình huống như vậy, khi một đại công đồng họp tại thành của người Nicée, các
Giám Mục qui tụ lại lên tới 270 vị, vì số đông như thế nên tôi không thể đưa ra
số liệu chính xác được và ngay sau đó tôi cũng không điều tra cho kỹ càng. Khi
thảo luận về nghĩa của đức tin, người ta đã đưa ra cuốn sách lộng ngôn phạm
thượng của Eusèbe như là bản tham chiếu quyết định (Eusèbe, Giám Mục ở
Nicomédie, nơi mà hoàng đế còn đang ở, người bảo trợ chính và quyền thế nhất
của Arius). Khi được đọc lên trước mọi người, cuốn sách đó lập tức gây cho
thính giả một cảm giác sững sờ, nôn mửa, và phủ lên tác giả của nó một sự nhục
nhã không thể nào tẩy xóa được. Khi phe nhóm qui tụ quanh Eusèbe đã bị lên án
cách minh nhiên và cuốn sách bị xé nát trước mắt mọi người . phe nhóm của
Arius, vì sợ bị lưu đày sau một Công Ðồng quan trọng và đồng tâm nhất trí đến
như thế, vội vàng bước tới và ra vạ tuyệt thông học thuyết bị cấm chỉ đó : họ
tự tay ký nhận các bản văn được soạn thảo với sự tán thành chung của Công Ðồng.
Nhưng, khi
chiếm được các Tòa Giám Mục bằng đủ cách gian lận, những thứ gian lận buộc phải
chịu hình phạt, thì họ lại tán trợ những học thuyết bị lên án, khi thì bí mật,
khi thì công khai, bịa ra đủ thứ lý vụn vặt . quyết làm cho căn nguyên của mối
mất hòa thêm sâu . họ tiến hành cuộc chiến chống lại các lệnh sứ của đạo thật.
Nhưng chúng tôi không tin rằng những kẻ vô thần lại thắng được Thần Tính.
Trong Théodoret de Cyr,
Histoire ecclésiastique
I, 7 - Patrologie grecque 82,
col. 922
LINH HỒN NHÂN LOẠI CỦA ÐỨC GIÊSU VÀ VAI TRÒ CỨU THẾ CỦA NGÀI.
Theo
Eustathe, phải gán việc "xuống âm phủ" cho linh hồn của Ðức Kitô chứ
không phải cho Ngôi Lời, Ðấng hiện diện khắp nơi nhờ thần tính của Ngài
"không phải do một lựa chọn của ý muốn, nhưng do quyền năng của thần tính
của Ngài mà Ngôi Lời Thiên Chúa chắc chắn hiện diện khắp nơi. Nếu Ngài đã để
đền thờ mà Ngài lựa chọn bị phá hủy thì ngày thứ ba, Ngài đã nâng dậy nhờ một
hiệu lực mới. Và linh hồn được chứa đựng trong căn nhà nhân loại đó, khi xuống
đến những phần sâu nhất dưới đất, Ngài đã mở một lượt các cánh cửa và đưa các
linh hồn bị cầm hãm dưới đó lên . khi Ngài đến tận các nơi chôn dưới đất thì
đồng thời, cũng ngày hôm đó, Ngài đã dẫn linh hồn người trộm lành vào thiên
đàng. Vì nếu bởi một người mà ơn cứu độ đã đến với mọi người, thì hiển nhiên
chính linh hồn (của Ðức Kitô) đã giải thoát chị em mình là các linh hồn, cả khi
xuống những phần sâu dưới đất của hỗn mang lẫn khi tái lập chúng trong tình
trạng nguyên thủy của thiên đàng, bằng quyền năng của vương quyền bất bại của
Ngài. Chính vì thế, nếu Ðức Kitô quả quyết rằng, kẻ xuất thân từ nhân loại, kẻ
duy nhất trong mọi người đã lên trời . thì chính nhờ quyền năng của linh hồn
Ngài mà con người (Giêsu) đã thực hiện được điều đó cách tuyệt hảo nhất. Linh
hồn chí thánh của Ðức Kitô, đã rảo khắp tất cả và đã lên tới tầng trời cao nơi
mà không một người nào đạt tới.
Về Bà đồng bóng ở Endor 17 -
18
NGƯỜI KHỞI
XƯỚNG TRUYỀN THỐNG KITÔ HỌC Ở ANTIOCHE.
Trong tập sách nhỏ "về
bà đồng bóng ở Endor", Eustathe bác bỏ cách giải thích của
Origène, và nhân tiện phê bình việc lạm dụng phép ẩn dụ. Do đó, ngài bị mang
tiếng mãi là "chống thuyết
Origène", điều này có lẽ không được đúng lắm, ngay cả về khoa
chú giải. Tuy nhiên, dường như người ta thấy tiên báo nơi ngài một phương pháp
chuuyên biệt giải thích Thánh Kinh mà sau này sẽ xuất hiện nơi những "người Antioche". Truyền thống
chú giải Antioche như người ta thấy rất phát triển vào hậu bán thế kỷ IV rất có
thể đã bắt đầu từ ngài. Ðàng khác, Eustathe chính là người đã khởi đầu một
truyền thống Kitô học đặc sắc. Khác với Méthode thành Olympe và Eusèbe thành
Césarée, ngài giữ lại giáo huấn của Origène, như Pamphile trước đó không lâu,
về linh hồn nhân loại của Ðức Kitô, về sự thánh thiện và những đặc ân của linh
hồn kết hợp với Ngôi Lời. Ðiều ngài bày tỏ trong tập sách "về bà đồng bóng ở Endor", trước
khi xảy ra vụ Arius, đó là niềm thành kính chân thật đối với "linh hồn thánh" của Ðấng Cứu
Thế, và người ta không thể nhận ra ở đó tiếng vọng trực tiếp của Kitô học
Origène. Thực ra, về điểm này, chính nơi nhà thần học bị xếp vào loại chống
Origène này mà người ta gặp lại được nhiều hơn hết là tư tưởng của vị thầy
người Alexandrie.
Eustathe cũng là người đầu tiên khám phá và tố giác
một trong những nhược điểm quan trọng trong Kitô học của Arius : giản lược
chính Ngôi Lời "khả biến" và
"khả thụ" vào hàng linh
hồn trong Nhập Thể, và như vậy Ngôi Lời thế chỗ linh hồn nhân loại của Ðức
Kitô. Quan niệm này, tước bỏ tâm lý nhân loại của Ngôi Lời Nhập Thể và giới hạn
"nhân tính" của Ngài
vào thân xác, và như thế là cắt bỏ đi một chiều kích cốt yếu của nhân tính. Ðối
lại với quan niệm cho rằng Ðức Kitô là Ngôi Lời kết hợp với một thân xác,
Eustathe đưa ra quan niệm Ngôi Lời kết hợp với "một
con người", một con người trọn vẹn là người, "con người của Ðức Kitô". Thứ
ngôn ngữ này, tất nhiên có sắc thái nhị nguyên thái quá, chứa đựng một chân lý
chính yếu ; sự toàn vẹn nhân tính của Nhập Thể, nhân tính đầy đủ của Ðấng Cứu
Thế, nếu không như thế thì Ngài sẽ không còn là Ðấng Cứu Chuộc chúng ta. Vào
thời Eustathe, phản ứng chống lại Kitô học của Arius này còn lẽ loi, nhưng các
môn đệ của Eustathe đã giữ nguyên vẹn giáo lý của ngài và giáo lý đó sẽ bộc lộ
sự phong phú của nó trong các cuộc tranh luận Kitô học về sau. Như thế, cái
được gọi là Trường Phái hay đúng hơn : truyền thống Kitô học Antioche ở những
thế kỷ IV và V, với ý thức sắc bén của nó về sự toàn vẹn nhân tính của Nhập Thể
và ngôn ngữ đặc trưng của nó "Ngôi Lời-con người" đã bắt đầu từ Eustathe
là điều không thể chối cãi. Như vậy Eustathe đã đóng góp một phần rất đáng kể
vào việc xây dựng một trong những thành phần của nền thần học vĩ đại của các
Giáo Phụ.
NGÔI LỜI ÐÃ KẾT HỢP VỚI MỘT CON NGƯỜI.
Eustathe
nhìn thấy nơi Ðức Kitô Ngôi Lời Thiên Chúa kết hợp với "một con
người" với tất cả sự vững chắc toàn vẹn của nó về thể lý và linh hồn.
"Nếu
viên mãn của thần tính cư ngụ trong Ðức Kitô thì cái cư ngụ phải khác với cái
được cư ngụ. Nếu có sự khác biệt về bản tính giữa hai điều đó, thì cả đau khổ
của cái chết, cả sự thèm ăn, cả sự khát uống, cả giấc ngủ, cả nỗi buồn, cả sự
mệt nhọc, cả sự rơi lệ, và bất cứ một biến đổi nào đều không thể cùng hiện hữu
với viên mãn của thần tính, vì tự bản tính của nó là bất biến. Những điều đó
cần phải được gán riêng cho con người hợp bởi hồn và xác. Quả vậy, khởi đi từ
chính những phản ứng nhân linh không vương tội lỗi nên cho thấy rằng không phải
là vẻ bề ngoài hay trong tư tưởng, nhưng là thực sự Thiên Chúa đã mặc lấy con
người qua việc đảm nhận con người cách trọn vẹn" .
Hiển nhiên
những điều này liên quan đến con người của Ðức Kitô. Con người mang Thiên Chúa
trong mình, con người đã tự nguyện chịu lấy đau khổ của cái chết vì lợi ích
nhân loại, con người đó đã lãnh nhận cành lá chiến thắng và, có thể nói, những
danh dự của cuộc chiến đấu lãnh lấy quyền lực . và vinh quang mà trước đó người
đó không hề có.
Phần còn sót lại của các tác
phẩm
Chống thuyết Arius.