BUỔI ÐẦU CỦA CƠN KHỦNG HOẢNG VỀ GIÁO LÝ THẾ KỶ IV
ÐỨC TIN ÐƯỢC TRA VẤN LẠI BỞI ARIUS
CÂU TRẢ LỜI
CỦA NICÉE.
Chúng ta không thể đọc và hiểu các Giáo Phụ thế kỷ
IV nếu không biết về một trong những vấn đề trọng yếu đối với các ngài : đó là
chủ thuyết Arius, tên một linh mục Alexandrie, với sự phổ biến tư tưởng của
Arius, bắt đầu từ khoảng năm 320, Giáo Hội bước vào một cuộc tranh luận mấu
chốt, và nó sẽ huy động năng lực của Giáo Hội trong một thời gian dài. Những
vấn đề nêu ra chắc chắn không phải là mới nhưng chúng lại bùng lên với sức mạnh
hồi sinh : Thiên Chúa mà các Kitô hữu tin là Ðấng nào ? Ðức Giêsu Kitô là ai
trong tương quan với Thiên Chúa và với con người ?
Chúng ta đã biết ý tưởng về một hay nhiều trung
gian giữa Thiên Chúa, mà tự thân là bất khả đạt thấu, và thế giới, là một ý
tưởng có sức quyến rũ như thế nào, từ thánh Justin tới Origène rồi tới
Lactance, cũng như từ Philon tới Plotin, nơi các nhà thần học Kitô giáo, khi
trình bày Ngôi Lời và Thần Khí như là có mối liên hệ với thế giới, một mối liên
hệ được coi là bất xứng với Chúa Cha, và khi gắn liền với chính hiện hữu của
các vị với hiện hữu của thế giới thì dễ có nguy cơ xúc phạm đến thần tính trọn
vẹn của Ngôi Lời và Thần Khí. Ðức tin sâu xa của các nhà hộ giáo và các Giáo
Phụ thế kỷ III đã giúp họ tránh được những kết luận không thể chấp nhận, nhưng
vẫn không loại bỏ được sự hàm hồ mà người ta còn thấy nơi một Eusèbe de
Césarée, hoặc theo người ta nói, nơi một Lucien dAntioche, người mà Arius theo
học một thời.
Chúng ta không rõ thần học của Arius hình thành
đích xác là như thế nào, nhưng chắc chắn nó theo lối suy tư gần với một trong
những khuynh hướng triết học thời bấy giờ. Khốn thay, vì không có ý thức về đức
tin của Giáo Hội mà những người đi trước ông đã chứng tỏ, Arius đẩy tư tưởng đi
theo một thứ luận lý đến nỗi cuối cùng hoàn toàn xa rời đức tin truyền thống. "Tín biểu" của Công Ðồng Nicée
(325), nguồn gốc của Kinh Tin Kính đọc trong phụng vụ, mãi mãi làm chứng về sự
rung chuyển do cuộc tranh luận này gây ra và về phản ứng của dân Kitô giáo. Vì
do tầm quan trọng của những vấn đề đặt ra, chủ thuyết Arius trước tiên là sự
việc của Giáo Hội và của đức tin không chỉ đơn giản là cuộc tranh luận giữa các
nhà thần học hoặc là cơ hội chính trị thuận lợi do một số hoàng đế thời đó khai
thác.
NHỮNG ÐIỀU HÀM HỒ TRONG THẦN HỌC CỦA ORIGÈNE.
(Thần học
của Origène có thể đem lại những luận chứng cho Arius do khuynh hướng hạ phục
thuyết của ông).
"Chúng
tôi nói rằng Ðấng Cứu Thế, cũng như Thánh Thần, siêu vượt trên mọi thụ tạo,
không bởi so sánh nhưng bởi tính siêu việt tuyệt đối, nhưng chính Ngài lại bị
Chúa Cha siêu vượt trên cũng bằng ấy và ngay cả hơn thế, và Thánh Thần siêu
vượt hơn các hữu thể khác, tuy vậy những hữu thể đó không phải là không đáng
kể. Quả vậy, Thánh Thần là hình ảnh lòng nhân từ của Ngài và là sự chiếu tỏa,
không phải của Thiên Chúa, nhưng là của vinh quang Ngài và của ánh sáng vĩnh
hằng của Ngài, Thánh Thần là sự tỏa phát, không phải của Cha nhưng là của quyền
năng Ngài, là lưu xuất thuần lý của vinh quang Toàn Năng của Ngài, là gương soi
không tỳ vết phản chiếu hoạt động của Ngài, (gương soi) qua đó Phaolô, Phêrô va
những người như họ nhìn thấy Thiên Chúa, vì Ngài đã nói : "Ai thấy Ta là
thấy Cha, Ðấng đã sai Ta".
Nhưng
Origène cũng đã bác bỏ trước các kết luận của Arius :
Trong Ba
Ngôi, không gì có thể nói được là lớn hơn hay ít lớn hơn, vì nguồn suối độc
nhất của thần tính nắm giữ mọi sự bằng Lời của Người hay lý trí và Người thánh
hóa bằng Thần Khí (Hơi Thở) miệng Người tất cả những gì xứng đáng được thánh
hóa . Nhưng ngoài hoạt động đó, còn có một hoạt động riêng của Chúa Cha, qua
hoạt động này Người ban sự hữu cho mọi người theo bản tính riêng biệt của Người
; cũng có một tác vụ riêng của Chúa Giêsu Kitô đối với những kẻ Ngài ban lý
trí, theo bản tính riêng biệt của Ngài : nhờ có lý trí, thêm vào sự hữu, họ
được ban cho hiện hữu phù hợp với sự thiện. Cuối cùng, cũng có ân sủng của
Thánh Thần, được ban cho những người xứng đáng lãnh nhận : ân sủng đó được Ðức
Kitô ban phát và do Chúa Cha thực hiện, dựa theo công phúc của những người có
khả năng lãnh nhận. Ðiều này Tông Ðồ Phaolô đã chỉ dạy rõ ràng khi trình bày
hành vi của Ba Ngôi là duy nhất và đồng nhất, lúc ngài nói : "Ðặc sủng
chia làm nhiều, nhưng cũng là một Thần Khí. Tác vụ chia làm nhiều, nhưng cũng là
một Chúa, kỳ công chia làm nhiều, nhưng cũng là một Thiên Chúa, Ðấng ra uy làm
nên mọi sự nơi mọi người". (1Cor
12, 4 - 7)
Ðoạn văn này
cho thấy một cách hết sức rõ ràng rằng trong Ba Ngôi không hề có bất cứ sự khác
biệt nào : những điều là đặc sủng của Thánh Thần thì do Chúa Con ban cho và do
Thiên Chúa Cha thực hiện.
Chú giải Phúc Âm thánh Gioan
XIII, 151 - 153
Sources Chrétiennes no.
120, p. 113 - 115
Khảo luận Des Prinipes 1. 3. 7
bản dịch M. Harl, p 54 - 55
THIÊN CHÚA
CỦA ARIUS.
Mối bận tâm căn bản của Arius dường như là muốn gìn
giữ một ý tưởng về Thiên Chúa : Ðấng siêu việt cách triệt để trên thế giới, độc
nhất, hiện hữu phi-khởi-nguyên, khôn tả, bất khả đạt thấu, bất biến, "bất khả thụ" (theo nghĩa Người
không thể chịu hay bị bất cứ điều gì), không lệ thuộc thời gian. Thuật ngữ là
thuật triết học hơn là thuật Kinh Thánh ; mối quan tâm bảo vệ tính tuyệt đối
của Thiên Chúa dầu vậy vẫn diễn tả phần chân lý chứa đựng trong thuyết Arius.
Ðiểm yếu của thần học Arius nằm trong con đường suy
tư của ông. Thay vì đặt định nghĩa đó dưới ánh sáng của đức tin mạc khải, thì
ngược lại ông lấy đó làm tiêu chuẩn giải thích đức tin Thiên Chúa là khởi
nguyên phi-khởi-nguyên, tách biệt khỏi mọi hữu thể khác bằng một hố thẳm không
thể vượt qua. Trong khi đó Ngôi Lời không phải là không có khởi nguyên vì lẽ
Ngài phát xuất từ Chúa Cha : Ngài có liên lạc với thế giới, và hơn thế nữa, khi
nhập thể, Ngài cho thấy mình là "khả
biến", "khả thụ", lệ thuộc thời gian. Như thế, Arius
kết luận, Ngài không thuộc hàng Tuyệt Ðối Thần Linh, nhưng thuộc hàng hữu thể "phát xuất" (dérivés), cho dù
chỉ có mình Ngài là phát xuất từ Chúa Cha và là tác giả của các hữu thể khác.
Như vậy, chỉ mình Chúa Cha là "Thiên
Chúa thật", còn Ngôi Lời, huống hồ là Thần Khí, chỉ có thể được
gọi là Thiên Chúa cách hoàn toàn tương đối.
Việc không chấp nhận đồng hóa Chúa Con và Chúa
Thánh Thần với Ðấng độc nhất có vẻ như là sự quay về với chủ thuyết độc thần
của Cựu Ước. Nhưng trước hết người ta phải hẳn liên tưởng tới bộ ba của thuyết
Tân-Platon : Plotin đặt "Nhất thể"
trên chóp đỉnh của mọi sự, tuyệt đối siêu việt, "bên kia hữu thể", từ Nhất Thể
lưu xuất ra Trí Tuệ, rồi đến Hồn của thế giới, và từ Hồn phát xuất ra các tinh
thần thấp hơn. Người ta ngờ rằng, ẩn sau chủ thuyết Arius là thứ thần học mang
chiều kích vũ trụ luận và lược đồ phân cấp nói trên. Thế nhưng, các bản văn của
chính Arius, không để lộ nền trời triết học đó, luận chứng của ông chủ yếu là
luận chứng Thánh Kinh, lợi dụng các bản văn Cựu Ước, chẳng hạn Cách Ngôn 8, 22
("Giavê đã dựng nên ta, tiên thường của
công trình Người") trong đó Khôn Ngoan được các Giáo Phụ nhất
trí đồng hóa với Ngôi Lời, và các bản văn khó hiểu liên quan đến Kitô học trong
Tân Ước : Marcô 13, 22 ("Con không biết
ngày phán xét") ; Gioan 14, 28 ("Cha cao trọng hơn Ta") ; Colosê 1, 15 (Ðức Kitô "Trưởng Tử" mọi thụ tạo) .v.v.
Arius hiển nhiên đặt ra những câu hỏi cho đức tin :
Nghĩ thế nào được việc Thiên Chúa lại đến trong thế giới, trong thời gian tuyệt
đối lại dấn mình vào tương đối ? Celse đã từng nêu vấn nạn như thế. Làm sao
giải thích sự "trung gian"
của Ðức Kitô giữa Thiên Chúa và loài người (lòng đạo đức tự nhiên lại không có
khuynh hướng nhìn Ðức Kitô như một vị trung gian, đứng giữa Thiên Chúa và chúng
ta hay sao ?). Quan niệm và nói thế nào về Ðấng Ðộc Nhất đồng thời lại là Thiên
Chúa là Cha, Con và Thánh Thần ? Nhưng đức tin cũng chất vấn Arius : nếu người
ta đi theo ông thì mạc khải cụ thể của Vị Thiên Chúa của Thánh Kinh và của Ðức
Giêsu Kitô, Ðấng quả là Hoàn Toàn Khác nhưng cũng là Ðấng Hoàn Toàn Gần Gũi, sẽ
nên như thế nào ? Phải chăng nhập thể và cứu độ chỉ cho chúng ta được tương
giao với Thiên Chúa cách gián tiếp, có trung gian xen giữa, chứ không thực sự
gặp gỡ Thiên Chúa nơi Ðức Giêsu Kitô ? Ðức Giêsu Kitô của Arius không còn là
Emmanuel : Thiên Chúa ở cùng chúng ta để cứu độ chúng ta, Ngài chỉ là Ngôi Lời "khả biến", tạm thời biến thành
linh hồn nhân loại để chịu một cuộc thử thách nhờ đó mà Ngài đáng được những
tước hiệu của Thiên Chúa : một lịch sử siêu việt của Logos chứ không còn là
lịch sử của chúng ta nữa. Cách hiểu như thế làm cho mầu nhiệm bị huỷ hoại và
người ta không còn nhận ra đâu là Ðức Kitô của các Giáo Phụ thời trước, đâu là "Trinitas" của Tertullien, hay
Thiên Chúa của Origène nữa. Nội dung đức tin và giải thích Thánh Kinh phải
khuôn theo một ý tưởng định sẵn về Thiên Chúa và theo lối luận lý diễn dịch
cứng nhắc. Cuộc khủng hoảng do Arius, với những biến chuyển về tín lý của nó,
cho thấy vị thế khó khăn của đức tin phản tỉnh, giữa một bên là phải tuân theo
dữ kiện mạc khải, và bên kia là những đòi hỏi của lý trí và những quyến rũ của
tinh thần.
LỜI TUYÊN XƯNG ÐỨC TIN CỦA ARIUS TRƯỚC (KHI CÓ) CÔNG ÐỒNG NICÉE.
Lời tuyên
xưng đức tin của Arius với Giám Mục Alexandrie thành Alexandrie (trước Công
Ðồng Nicée) :
"Ðức
tin mà chúng tôi lãnh nhận từ cha ông của chúng ta và chúng ta đã được học biết
từ nơi Ngài. Thưa Cha rất kính mến, đức tin đó là thế này : Chúng tôi nhận biết
một Thiên Chúa, chỉ có Người là không được sinh ra, chỉ có Người là vĩnh cửu,
chỉ có Người là không có khởi nguyên, chỉ có Người là Thiên Chúa thật, bất tử,
chỉ có Người là khôn ngoan, chỉ có Người là thiện hảo, chỉ có Người là toàn
năng, chỉ có Người là thẩm phán, Ðấng điều hành và cai quản mọi sự, bất biến và
không đổi thay . Người đã sinh ra Con độc nhất của Người trước muôn đời muôn
thuở, nhờ Ngài, Người đã tạo nên các thời đại và mọi vật mọi loài, (Con) được
sinh ra, không theo vẻ bề ngoài, nhưng là thực sự, tồn hữu do một hiệu lực của
thánh ý bất biến và không thay đổi của Người, là thụ tạo hoàn hảo của Thiên
Chúa, nhưng không phải như một trong các thụ tạo : được tạo thành, nhưng không
phải như một trong các vật được tạo thành.
Nhưng, như
chúng tôi nói, Ngài đã được tạo dựng nên cùng với các thời gian và từ trước
muôn đời và Ngài đã lãnh nhận từ Cha sự sống và hiện hữu, và những huy hoàng
rạng rỡ của vinh quang mà Cha đã ban cho Ngài. Quả vậy, khi cho Ngài thừa kế
mọi sự Chúa Cha không để mình mất đi điều có nơi Người, không để mất việc Người
hiện hữu không có khởi nguyên. Vì Người là nguồn suối của tất cả.
Chính vì vậy
có ba bản thể : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa, chính là
nguyên nhân của mọi hữu thể, tuyệt đối chỉ có Người là không có khởi nguyên.
Chúa Con, được sinh ra ngoài thời gian bởi Chúa Cha, được tạo dựng và được
thiết lập từ trước muôn đời, Ngài không hiện hữu trước khi được sinh ra, nhưng
được sinh ra ngoài thời gian trước tất cả mọi sự, chỉ có Ngài là được tạo thành
bởi một mình Chúa Cha. Ngài không vĩnh cửu, không đồng vĩnh cửu và không dự
phần vào việc không được sinh ra như và cùng với Chúa Cha. Ngài không hiện hữu
cùng với Chúa Cha, như một số kẻ nói như thế về cả hai khi khẳng định hai khởi
nguyên không được sinh ra. Nhưng, vì là duy nhất và là khởi nguyên của tất cả,
Thiên chúa hiện hữu trước mọi sự. Và vì vậy, Người cũng hiện hữu trước Ðức Kitô
. xét về chính hiện hữu của Ngài, sự sống của Ngài, vinh quang của Ngài và tất
cả những gì được ban cho Ngài đều đến từ Thiên Chúa, nên Thiên Chúa là khởi
nguyên của Ngài. Người ở trên Ngài như là Thiên Chúa của Ngài và Người có hiện
hữu của Người trước Ngài : còn Ngài, Ngài lảnh lấy hiện hữu từ Thiên
Chúa".
(Dịch theo Ortiz de Urbina,
Nicée et Constantipole, 1963,
p. 252 - 253)
NẠI TỚI THÁNH KINH ÐỂ CHỐNG LẠI ARIUS.
Trước Công
Ðồng Nicée, trong một luân thư gửi hàng Giám Mục Alexandrie thành Alexandrie đã
dùng Thánh Kinh bác bỏ các luận đề của Arius :
Có ai từng nghe thấy những điều như thế
bao giờ ? Và bây giờ khi nghe những điều đó, có ai lại không bịt tai để những
lời đê tiện đó không lọt vào tai mình ? Khi nghe Gioan nói : "Lúc khởi
nguyên đã có Lời" (Yn 1, 1) có ai lại không kết án những kẻ nói : có một
thời gian Ngài đã không hiện hữu ? Khi nghe những lời này của Phúc Âm :
"Con độc nhất của Thiên Chúa" (Yn 1, 18) và "nhờ Ngài mọi sự đã
được dựng nên" (Yn 1, 3) còn ai mà lại không căm ghét những kẻ khẳng định
rằng Chúa Con chỉ là một trong các thụ tạo ? Làm sao Ngài có thể ngang bằng với
những vật mà nhờ Ngài được dựng nên ? Làm sao Ngài có thể là Con độc nhất, khi
mà người ta xếp Ngài cùng hàng với mọi vật, vào trong hạng của chúng ? Làm sao Ngài
lại xuất từ hư vô trong khi Chúa Cha nói : "Từ lòng Ta, ngay trước rạng
đông, Ta đã sinh ra Con" (Tv 106, 3) ? Làm sao Ngài lại khác với Chúa Cha
về bản thể, trong khi Ngài là hình ảnh hoàn hảo và là phản ánh huy hoàng của
Cha (2Cor 4, 4 ; Hr 1, 3) và là Ðấng đã nói : "Ai thấy Ta là thấy
Cha" (Yn 14, 9) ? Nếu Con là Lời và là Khôn Ngoan của Cha, làm sao lại có
một thời gian Ngài đã không hiện hữu ? Như thể họ muốn nói rằng đã có một thời
gian Thiên chúa không có Lời và không có Khôn Ngoan. Ðấng đã nói về chính mình
: "Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta" (Yn 10, 38) và "Ta và Cha
là một" và là Ðấng đã nói qua các tiên tri : "Hãy xem Ta, Ta là, Ta
không hề thay đổi" (Ma 3, 6), chẳng lẽ Ngài lại phải chịu sự thay đổi và
biến tính hay sao ? Ngay cả khi người ta nghĩ rằng lời đó có thể là nói về
chính Chúa Cha, thế nhưng, bây giờ phải xem đó là lời nói về Ðức Kitô thì có lẽ
thích đáng hơn, vì rằng, khi làm người, Ngài không thay đổi, nhưng như thánh
Tông Ðồ nói : "Ðức Giêsu Kitô hôm qua và hôm nay vẫn là một và cho đến
muôn đời" (Hr, 13, 8). Ai buộc chúng phải nói rằng vì chúng ta mà Ngài đã
được dựng nên, trong khi thánh Phaolô nói : "Vì Ngài và do bởi Ngài mà mọi
vật hiện hữu" (Hr 2, 10) ? Còn về lời quả quyết lộng ngôn phạm thượng của
chúng cho rằng Con không hoàn toàn biết Cha, thì cũng chẳng có gì đáng ngạc
nhiên. Vì một khi chúng quyết định chống lại Ðức Kitô, thì chúng cũng khinh
thường Lời của chính Chúa, Ðấng đã nói : "Như Cha biết Ta, Ta cũng biết
Cha" (Yn 10, 15).
Ortiz de Urbina, Nicée et
Constantinople, Paris 1963, p. 250 - 251
ÐỨC TIN CỦA NICÉE.
Tín biểu của Nicée, đối chiếu với tín
biểu của Césarée de Palestine, tín biểu này là nền tảng để soạn tín biểu Nicée.
Những kiểu nói có gạch dưới đã được thêm vào để chống lại Arius :
Tín biểu của Césarée |
Tín biểu của Nicée |
Chúng
tôi tin một Thiên Chúa là Cha toàn năng |
Chúng
tôi tin một Thiên Chúa là Cha toàn năng |
Ðấng
tạo dưng muôn vật hữu hình và vô hình |
Ðấng
tạo dựng muôn vật hữu hình và vô hình |
Và
tin một Chúa Giêsu Kitô |
Và
tin một Chúa Giêsu Kitô |
Ngôi
Lời Thiên Chúa |
Con
duy nhất sinh bởi Chúa cha nghĩa |
Thiên
chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng |
Thiên
Chúa bởi Thiên Chúa ánh sáng bởi ánh sáng |
Sự
sống bởi sự sống. |
Thiên
chúa thật bởi Thiên Chúa thật |
Con
Một, Trưởng tử mọi tạo vật |
|
Sinh
bởi chúa cha từ trước muôn đời |
Ðược sinh ra mà không phải được
|
Nhờ
Người mà muôn vật được thành |
Nhờ
Người mà muôn vật trên trời |
Ðể
cứu rỗi chúng tôi |
Vì
loài người chúng tôi và để cứu rỗi |
Người
đã mặc lây xác phàm và đã cư ngụ giữa chúng tôi |
Người
đã hóa thành nhục thể và đã làm người. |
Người
đã chịu khổ hình |
Người
đã chịu khổ hình |
Ngày
thứ ba Người đã sống lại |
Ngày
thứ ba Người đã sống lại |
Người
lên cùng Chúa Cha và sẽ trở lại
trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết |
Người
lên trời, từ nơi đó Người sẽ trở |
Chúng
tôi cũng tin một Chúa Thánh Thần |
Và
tin vào Chúa Thánh Thần. Còn
những kẻ nói : đã có một thời gian Người đã không hiện
hữu, hoặc ; Người đã xuất từ hư vô, hoặc rằng Con
Thiên Chúa có bản thểkhác hoặc rằng : Người đã được tạo dựng nên hoặc rằng : Người
không phải là bất biến nhưng lệ thuộc sự
thay đổi. Giáo Hội ra vạ tuyệt thông cho những kẻ đó. |
THIÊN CHÚA
CỦA CÁC GIÁO PHỤ : TÍN BIỂU NICÉE.
Tuy nhiên, từ năm 325, Công Ðồng "chung" đầu tiên (oecuménique)
(từ Hylạp có nghĩa là "phổ quát" nhóm họp do sáng kiến của Constantin
trả lời cho thần học của Arius qua việc đưa ra tín biểu nổi tiếng mà sau này
trở thành "quy luật"
đức tin đối với các Giáo Phụ thế kỷ IV. Tín biểu Nicée tương ứng với phần đầu
của Kinh Tin Kính đọc trong phung vụ cho tới những chữ : "Tôi tin kính Ðức Chúa Thánh Thần". Tín
biểu này dựa vào tín biểu của Césarée nhưng xác định rõ hơn, khẳng quyết Chúa
Con sinh "từ bản thể Chúa Cha", Ngài
là "Thiên Chúa sinh bởi Thiên
Chúa" "đồng bản thể với Chúa Cha". Một đàng, Tín Biểu
trở về với Thánh Kinh khi dựa vào ý niệm về tử hệ của Ngôi Lời ("được sinh ra chứ không phải được tạo
thành") để khẳng định thần tính của Ngài, đàng khác nó không
chỉ xử dụng ngôn ngữ của Thánh Kinh để trả lời cho các vấn nạn : từ ngữ then
chốt "đồng bản thể" (consubstantiel),
vay mượn ở ngôn ngữ triết học, nhằm loại bỏ mọi ý tưởng về một sự khác biệt về
bản tính hoặc "bản thể" (Substance)
giữa Chúa Cha và Chúa Con, ngang bằng nhau về thần tính, có "cùng một bản thể" và ngay cả có
"một bản thể duy nhất" theo
nghĩa được minh nhiên gán cho từ ngữ này sau Công Ðồng Nicée. Ðây chính là sự
bác bỏ một Ðức Kitô trung gian thuộc về vũ trụ, được phú ban một thần tính thấp
kém hơn. Nicée nói với chúng ta rằng nơi Ðức Giêsu Kitô chúng ta gặp được chính
Ðấng Tuyệt Ðối là Thiên Chúa, một Thiên Chúa thật sự dấn thân vào trong thế
giới chúng ta. Ðức tin hệ tại ở việc Ngài tự mạc khải thế nào thì ta đón nhận
Ngài thể ấy.
Tại Công Ðồng Nicée, chỉ có hai Giám Mục từ chối ký
vào bản Tín Biểu, nhưng một số khác trong số các Giám Mục Hylạp thì chỉ chấp
nhận với thái độ do dự, vì e ngại cách giải thích theo hình thái thuyết về từ
ngữ "đồng bản thể". Từ
ngữ này sẽ còn là trọng tâm của cuộc tranh luận trong nhiều thập kỷ.
Bên Ðông phương, có ba khuôn mặt Giám Mục nổi bật,
mỗi người một cách, minh họa cho chúng ta giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng
trầm trọng về tín lý ở thế kỷ IV này : Eusèbe thành Césarée, Eustache thành
Antioche và Athanase thành Alexandrie. Bên Tây phương, có thánh Hilaire, vị đại
tiến sĩ đầu tiên của thế kỷ IV.
SÁCH NGHIÊN
CỨU THÊM.
I. ORTIZ DE URBINA. Nicée et Constantinople coll. "Histoire des Conciles oecuméniques" Paris.
LOrante, 1963 (với các tài liệu được phiên dịch).
E. BOULARAND. Lhérésie dArius et al "foi" de Nicée. Paris, Letouzey
et Ané, 1972, 2 vol.
B. DE MARGERIE. La Trinité chrétienne dans
lhistoire coll. "Théologie
histoirique" Paris. Beauchesne,
1975
Encyclopédie Catholicisme . "Nicée", t.IX, 1982 coll. 1196 -
1200