ANTIOCHE DIODORE DE TARSE
VÀ THÉODORE DE MOPSUESTE
I. MÔI TRƯỜNG
ANTIOCHE.
Antioche, vào thế kỷ IV là một thủ phủ, một thành
phố lớn, là mảnh đất đóng kín của ly giáo và, đặc biệt, đây là trung tâm của
một truyền thống thần học.
MỘT THỦ PHỦ.
Antioche de Syrie là thủ phủ dân sự cũng như tôn
giáo. Về mặt chính trị, đế quốc Ðông phương phân làm bốn "địa hạt" (diocèses) : Asie với
thủ phủ là Ephèse, Thrace với Héraclée, Pont với Césarée và địa hạt Orient bao
gồm cả Aicập. Như ta đã biết, tại Công đồng Nicée, tổ chức hành chánh của Giáo
Hội đã biến mỗi hạt này thành giới địa của một Tòa Thượng Phụ (Patriarcats),
ngoại trừ Aicập, bao gồm cả Lybie và Pentapole, và có lẽ cả Thébaide, là được
hưởng sự độc lập : những vùng này được đặt dưới quyền của Tòa Alexandrie, đây
là những thành phố trọng yếu, và tới năm 381, Constantinople, "Tân Rome" được kể thêm vào số
này. Antioche là thủ đô của địa hạt Orient, địa hạt này, ngoài Antioche, còn có
nhiều thủ phủ khác nữa (métropoles). Vào năm 325 thì có hàng trăm Tòa Giám Mục
thuộc quyền Antioche, đây cũng là thời gian mà Eustathe vừa được chọn làm "Tổng Giám Mục" (Archevêque) như
người ta quen gọi ở Orient khoãng giữa thế kỷ IV.
Chính thành phố cũng đã mang một tầm quan trọng,
với 200.000 đến 500.000 dân cư, là thành phố đứng hàng thứ ba của đế quốc Rome
và Alexandrie, thành phố quả thực là vĩ đại,
hay đúng hơn, là thủ phủ của vũ hoàn", Jean Chrysostome đã thốt
lên như thế, có hơi quá đáng (chauvin). Ðây là chốn của khoái lạc và quyến rũ
mà Libanus đã mô tả rất chính xác trong cuốn "Antiochikos".
Vườn cảnh, đền đài dinh thự chen sát nhau dọc theo sông Oronte và
khu Daphné chỉ nguyên là những lạc thú. Giới quí tộc giàu sang không ngừng xây
thêm những dinh thự tráng lệ nguy nga, hầu hết là dùng vào việc đời, họ giúp
các quan chức thành phố tổ chức tại đó thật nhiều những "lễ bái" (liturgies) hay lễ hội quần
chúng : các môn thể thao, đua xe, săn bắn, kịch nói, kịch câm, yến tiệc . tiêu
xài hoang phí đến mức điên khùng, cho những điều mà Jean Chrysostome chỉ thấy
là "vinh hoa phù phiếm". Nhà
giảng thuyết Công giáo, Libanus ngoại giáo và hoàng đế Julien - người từng bị
lôi cuốn vào đó, đã đồng lòng tố giác sự phi luân của nó : César quyết không
bao giờ trở lại đó nữa.
Việc đặt các tên riêng này bên nhau chứng tỏ một
thực trạng khác tại Antioche : đó là sự pha trộn các tôn giáo. Mặc dù Kitô giáo
đã xâm nhập vào Antioche ngay từ thời thánh Phaolô và đã cắm rễ vững chắc,
nhưng người ta ước tính là vẫn còn đến 50% là ngoại giáo. Thế giới ngoại giáo
này không phải là không có những nét cao quí của nó. Libanus, một học giả uyên
thâm đã biến văn hóa thành một "thánh
điện", là bậc thầy vĩ đại nhất của những thế kỷ đầu Công
Nguyên, đã sinh ra tại đây, và đã giảng dạy tại đây cho tới cuối đời (354 -
393) ; sau Athènes, nơi đây chẳng phải là trung tâm trí thức thời danh nhất của
thời kỳ đó hay sao ? Ammien Marcellin cũng xuất thân từ đây và đã lui về đó năm
363 để viết cuốn "lịch sử" (Histoire)
của mình. Julien đã soạn cuốn "Misopôgôn"
vào những năm 362 - 363 tại đây. Những nhân vật lùng lẫy này có thể
đã gặp Melèce vị Giám Mục vĩ đại, Diodore nhà chú giải, hay một trong số rất
nhiều những ẩn sĩ, những người mà đôi lúc đã đứng bên cửa, đã viếng thăm và đã
lưu lại thành phố, chẳng hạn Julien Sabbas hay Aphraate . trong khi chờ đợi vị
Chrysostome tương lai.
MỘT MÔI
TRƯỜNG CỦA LY GIÁO.
Khốn thay ! Trong những năm 360, này, Giáo Hội của
Ðức Kitô tại Antioche đã không trở nên mẫu mực về sự hiệp nhất. Chịu tác hại
của bè Arius và những hậu quả của nó trong toàn vùng Orient, Giáo Hội tại đây
lại còn bị chia năm sẻ bảy giữa các tín hữu. Sau khi Eustathe, người bênh vực
Nicée bị bãi nhiệm khoảng năm 330, phần lớn các tín hữu dù muốn dù không cũng
phải chịu dưới quyền của các vị kế nhiệm thuộc phe Arius, nhưng có một số người
về phe Eustathe hung hãn hơn đã tách ra và lập nhóm riêng, vô phẩm trật, chung
quanh Linh Mục Paulin. Năm 360, Mélèce, vị Tân Giám Mục, một người ôn hòa được
Basile de Césarée và nhiều vị ở Ðông phương hậu thuẩn, đã tập hợp lại được khối
đa số các Kitô hữu. Tuy nhiên, những người chủ trương cứng rắn ở cả hai phía
lại trở nên cứng rắn hơn. Phía Arius, nhân Mélèce bị đi đày, đã đặt lên tòa
Antioche một người trung thành triệt để, đó là Euzoius. Ðàng khác, nhân vật
theo Nicée cuồng nhiệt là Lucifer de Cagliari bất ngờ, năm 362, đã ban cho
những người chính thống chủ trương không khoan nhượng một vị Giám Mục, vị đó là
Paulin đáng kính, vị này luôn được Athanase che chở, được Rome và Tây phương
nhìn nhận. Thêm vào số những kẻ đối đầu lại có Vital, một môn đệ của
Apollinaire de Laodicée. "Ly giáo
Antioche" (Schisme dAntioche) hoành hành trong hơn nửa thế kỷ.
Ðấy là cảnh tượng mà Giáo Hội phơi bày trước mắt hoàng đế Julien, đang có mặt
tại chỗ.
MỘT TRUYỀN THỐNG
THẦN HỌC.
Tuy nhiên, nhóm của Eustathe đã thể hiện một truyền
thống, truyền thống này vươn rộng, vượt ra ngoài phạm vi của nhóm mình.
Antioche không có trường phái thần học như ở Alexandrie. Nhưng có một số khuynh
hướng vốn đã xuất hiện rất rõ nơi Eustathe, khoảng những năm 325, lại xuất hiện
nơi một số vị ở Antioche khác, trong những thập niên cuối của thế kỷ, đặc biệt
trong khoa chú giải và trong Kitô học. Ðối lập lối chú giải theo nghĩa chữ
(littéralisme) với lối giải thích theo nghĩa ẩn dụ (allégorisme) của những
người theo Origène thực ra là không đúng. Origène không bao giờ coi thường
nghĩa trực tiếp (sensobvie) của bản văn, và ông đã đưa một khoa về ngữ học
(philologie) đặc sắc nhằm giúp cho việc giải thích các bản văn. Ngược lại, nhóm
Antioche thường nhận ra nơi các nhân vật, các biến cố Cựu Ước lời tiên báo,
hình ảnh, "tiên trưng" (Type)
của những thực tại Tân Ước, thậm chí còn chấp nhận một sự điều chỉnh nào đó về
ý nghĩa cho phù hợp. Nhưng dù sao nhóm Alexandrie dường như say mê huyền nhiệm nơi
chính các từ ngữ. Các từ nguyên Hipri (étymologies hébraigues), các con số, tên
gọi các động vật, các loài thảo mộc đủ để đem lại cho họ giáo huấn hoặc đưa tâm
hồn họ lên cao (élévation). Họ quan tâm trước tiên tới điều vượt trên bản văn
(lau-delà du texte), tới tầm mức siêu hình và thần bí của nó : đối với họ, tất
cả là biểu tượng ; tất cả lập tức đưa họ tới thế giới linh tượng (ý niệm, monde
des idées). Nhóm Antioche cũng quan tâm không kém đến các từ ngữ, nhưng là để
hiểu rõ hơn ý nghĩa của văn mạch (contexte) và của toàn thể. Họ không chấp nhận
chủ trương duy biểu tượng triệt để (symbolisme systématique). Họ nghiên cứu sự
kiện, bài trình thuật, có khi để rút ra một ý nghĩa về luân lý, nhưng trước hết
là để đọc ra được biến cố lịch sử chứa đựng trong đó.
Trong Kitô học cũng vậy, nhóm Antioche khởi đi từ
lịch sử, từ Ðức Kitô lịch sử, đúng như Ngài xuất hiện trong các sách Tin Mừng,
với nhân tính toàn vẹn của Ngài. Trong khi nhóm Alexandrie nhìn thấy nơi Ðức
Kitô trước hết là Ngôi Lời Vĩnh Cửu, chủ thể độc nhất của Người-Chúa, nhập thể
để thần hóa con người, thì nhóm Antioches đa số chú mục vào "con người của Ðức Kitô", đích
thực là chủ thể và họ nhấn mạnh đến nhân tính toàn vẹn của chủ thể đó đến mức
có nguy cơ làm phương hại đến tính duy nhất của Ngôi Lời Nhập Thể. Tuy nhiên, ở
Antioche khuynh hướng này ít được sự nhất trí hơn so với khuynh hướng nhấn mạnh
đến thực tại trong khoa chú giải (réalisme exégétique).
Hai nhân vật ít được biết đến tiêu biểu cho những
nét đặc trưng đó : Diodore de Tarse và Théodore de Mopsueste, ngoài ra, cần
phải thêm Jean Chrysostome, người vượt ra ngoài hai nhân vật trên về mọi mặt.
KHU VƯỜN BÊN SÔNG ORONTE ; HẠNH PHÚC CỦA DÂN THÀNH ANTIOCHE.
Mọi thứ đều
góp phần làm cho họ vui thỏa : suối nước, chòm cây, vườn cảnh gió mát, lá hoa,
tiếng hót chim trời và việc được vui hưởng mùa xuân trước mọi người khác.
201. những trụ
lang khác nào những dòng sông chảy dài ngút mắt, những con lộ nhỏ từ đó đổ ra
tựa như những dòng thác tuôn từ dòng sông. Những con lộ này, một số hướng về miền
núi, dẫn tới những thứ vui chơi trong phố dưới chân núi, một số tỏa ra hướng
khác, dẫn tới một con đường hai bên là nhà cửa chứ không có trụ : những con lộ
này giống như những kênh đào để qua lại giữa hai dòng sông. Cả khu phố (phía
bắc) cũng tiếp giáp với rất nhiều nơi, với những vườn hoa xinh xắn trải đến tận
bờ Cronte.
202. Trong khi
những trụ lang này, như tôi đã nói đến, trải dài từ Ðông chí Tây, dài đến độ có
thể đủ cho ba thành phố, thì ngay chính giữa trụ lang, phía bên phải có một
tổng thể kiến trúc vòng cung hướng về tứ phía, nằm chung dưới một mái bằng đá
như khởi điểm mở ra những trụ lang khác, những trụ lang này đi về phía Bắc cho
tới tận dòng sông, tới đền thờ các Nữ Thần Sơn Thủy (Nymphes) cao ngất trời,
với đá cẩm thạch lấp lánh, cột trụ đủ màu, phù điêu rực rỡ, và cơ man nào là
suối nước, khiến cho mọi cặp mắt phải ngắm nhìn. Cũng như những trụ lang trước,
có những con lộ từ đó đổ ra.
Libanus, Antiochikos, 200 -
202, Trad. A.J. Festugière,
Antioche paienne et
chrétienne, Paris 1959, p. 24.
NHỮNG KHOÁI LẠC ĂN CHƠI CỦA THÀNH PHỐ
VÀ LỜI MỈA MAI CAY ÐẮNG CỦA JULIEN.
Trong khi
những người Celtes quê mùa dễ dàng chấp nhận các phong tục của ta thì đối với
một thành được thần minh chúc phúc, thịnh vượng, đông đúc dân cư như của các
người thì những phong tục đó hẳn là đáng ghê tởm lắm, một thành mà có lắm đám
nhảy nhót, đàn địch, công dân thì ít mà múa rối thì nhiều, chính quyền thì
chẳng coi vào đâu. Phải mà, chỉ những kẻ hèn nhát mới đỏ mặt, chứ hùng dũng
trai tráng như các người thì chè chén thâu đêm trận cười suốt sáng, lời lẽ,
hành vi chẳng coi luật pháp ra gì thì vẫn cứ đàng hoàng đứng đắn . Hễ có gì làm
các ngươi say mê vui thích là các người vỗ tay la hét để tỏ cho thiên hạ biết,
khắp mọi nơi, và không ít lần ngay tại nơi công cộng, chốn hí trường . Vâng,
các người đẹp cả, to lớn cả, nhẵn nhụi bóng láng cả, trẻ cũng như già đua đòi
hưởng lạc theo kiểu người Phénicie, thích những "áo thơm, tắm nóng, giường
mềm" hơn là tôn trọng luật vua phép nước.
Julien, Misopôgôn (342 AD)
Trad.
A-J. Festugèse, Antioche p. 86
- 87.
II. DIODORE
DE TARSE
MỘT CUỘC ÐỜI
YÊN HÀN KHI CÒN SỐNG, SÓNG GIÓ KHI ÐÃ MẤT.
Một ít điều chúng ta biết về Diodore đủ cho thấy
ngài là mẫu của khuynh hướng Antioche về chú giải và về Kitô học.
Sinh tại Antioche, chắc chắn là thế, ngài đã hoàn
tất việc học tại Athènes, và như Julien nói, "để
sắm cái lưỡi gớm ghê chống lại thần thánh trên trời". Trở lại
quê cũ, ngài thiết lập một "askétérium",
một trung tâm khổ tu mà Théodore de Mopsueste và có lẽ cả Jean
Chrysostome thường lui tới. Khi còn là giáo dân, cùng với Flavien, ngài được
Mélèce cho cộng tác trong việc điều hành cộng đồng Kitô hữu. Ngài đem áp dụng
lối hát đối đáp Thánh Vịnh và phổ biến rộng rãi "Vinh Tụng Ca" (doxologie) "Vinh danh Chúa Cha, Chúa Con, vinh danh Thánh
Thần Thiên Chúa". Trở thành Linh Mục, ngài coi sóc Hội Thánh
khi Giám Mục của ngài bị lưu đày hay ít là trong suốt thời gian chính ngài chưa
bị lưu đày. Khi Valens băng hà (378) ngài được tấn phong làm Giám Mục thành
Tarse. Ngài trở nên khuôn mặt sáng giá tại Công Ðồng Constantinople năm 381, vì
lẽ chính hoàng đế Théodose coi ngài như người bảo đảm giáo lý chính thống. Một
ít năm sau, Jean Chrysostome tiếp đón ngài tại Antioche và công khai Cappadoce
tụng ngài, sánh ngài với Gioan Tẩy Giả. Diodore mất có lẽ vào khoảng năm 390 -
391, như một con người thông thái, đạo đức và trung tín của Giáo Hội. Ngài để
lại một công trình lớn lao, đa dạng với khoảng 80 khảo luận : các nghiên cứu về
khoa học, triết học, thần học và nhất là chú giải. Ngày nay chỉ còn lại cuốn "Chú giải các Thánh Vịnh" đang
in dở, người ta hơi hoài nghi không biết có phải Diodore là tác giả hay không,
và nhiều mảng văn khác nhau mà hầu hết là do đối thủ của ngài thuật lại.
Sinh thời, Diodore chỉ bị Apollinaire de Laodicée
kẻ lạc giáo công kích trong cuốn "Chống
Diodore" (Contre Diodore). Sau khi chết, mọi người vẫn giữ niềm
kính trọng đối với ngài, cho tới ngày, ba mươi năm sau khi mất, Cyrille
dAlexandrie coi ngài là cha đẻ của bè Nestorius. Từ đó, ngài bị tấn công kịch
liệt và mãi về sau, năm 553, Théodore de Mopsueste đồ đệ của ngài bị kết án thì
ngài cũng bị kết án theo.
LỜI KẾT ÁN CỦA CYRILLE D ALEXANDRIE ÐỐI VỚI DIODORE.
Một Diodore
nào đó, sau thời gian dài là kẻ chống báng Thánh Thần (pneumatomaque), cứ như
người ta nói, đã trở lại hiệp thông với Giáo Hội của những người chính thống.
Khi đã dũ bỏ - ông ta nghĩ là như thế - vết nhơ của lạc giáo Macédonie, ông lại
mắc phải một thứ bịnh khác. Thật vậy, ông ta tin và viết rằng người con xuất từ
dòng giống Ðavít và sinh bởi Ðức Thánh Trinh Nữ thì khác và phân biệt với người
con là Ngôi Lời của Thiên Chúa Cha. Có thể nói ông ta là sói đội lốt chiên, ông
ta giả vờ nói chỉ có một Ðức Kitô khi áp dụng danh xưng cho một mình Ngôi Lời
sinh bởi Thiên Chúa, Con độc nhất, và rồi gán danh xưng này, một cách nào đó,
theo bình diện ân sủng, như chính ông ta nói, kẻ xuất từ dòng giống Ðavít cũng
được gọi là con, vì đã được kết hợp với Ðấng là Con đích thực : được kết hiệp
không theo nghĩa như chúng ta tin, nhưng chỉ là theo phẩm vị, quyền năng, ngang
bằng vinh dự. Ông ta có đồ đệ là Nestorius, một kẻ bị chìm ngập trong tối tăm
vì sách vở của ông ta, đã vờ tuyên xưng chỉ có một người con .
Cyrille, Lettre 45, A.
Succensus (vers 434) PG. 77,
229AB, Trad. M. Richard
Mélanges F. Grat, t.I Paris,
1946 p. 112 - 113.
Photus cho biết rằng ban đầu
Diodore đã chống
lại Thần Tính của Chúa Thánh
Thần.
MỘT KITÔ HỌC
NẠN NHÂN CỦA CÁC TẬP VĂN TUYỂN (FLORILÈGES).
Xác định Kitô học của Diodore là điều hết sức tế
nhị. Ðối với các mảng văn chú giải thì không có vấn đề Kitô học. Nhưng ngược
lại, tuy chúng ta còn giữ được khoảng 50 trích đoạn từ hai cuốn "Contre les synousiastes" (hay "Chống lại bè Apollinaire"),
nhưng phần lớn lại qua trung gian của Cyrille trong cuốn "Contre Diodore et Théodore", mà
Cyrille lại cũng chỉ rút ra từ những Văn tuyển (florilèges) do bè Apollinaire
sưu tập, thành ra chúng ta e rằng nghĩa thực của chủ trương nhị nguyên nơi
Diodore đã bị biến dạng đến hai lần.
Cứ như lời của vị Giám Mục Alexandrie trong một lá
thư thì Diodore đã dạy có hai người con riêng biệt nơi Ðức Kitô, một "xuất từ giống Ðavít" và người
con kia là "Ngôi Lời của Thiên Chúa
Cha". Sự kết hiệp diễn ra "chỉ
theo phẩm vị quyền năng, và sự ngang bằng về vinh dự" mà thôi :
"Ông ta giả vờ nói một Ðức Kitô duy
nhất", "một người con duy nhất" nhưng ông ta là thầy
của Nestorius.
Có điều chắc chắn là Diodore thích kiểu nói "kẻ xuất từ dòng giống Ðavít" để
chỉ nhân tính của Ðức Kitô, con người sinh bởi đức Maria, Con Thiên Chúa không
do bản tính nhưng do ân sủng. Ngược lại, Ngôi Lời, được Chúa Cha sinh ra từ đời
đời, đã lập cho mình một đền thờ nhân loại nơi Ðức Maria, nhưng không sinh bởi
Ðức Maria. Chúng ta hiểu rằng, nếu xét theo tinh thần của Apollinaire, thì các
công thức này cho phép giả thiết sự hiện hữu của hai người con nơi "Giêsu Nazareth" . Thế nhưng
Cyrille ngay khi công kích Diodore thì cũng nhìn nhận, như ta đã thấy, Diodore
công khai chủ trương duy nhất tính của Ðức Kitô ; rồi một đoạn văn trong tác
phẩm của của Diodore chúng ta còn giữ lại được, không do Cyrille thuật lại cũng
tuyên bố "Maria là Mẹ Thiên Chúa vì sự
kết hợp . bởi lẽ điều thuộc Ðavít, tức là con người, đã kết hợp theo bản tính
với Ngôi Lời Thiên Chúa". Nếu cuốn "Chú giải các Thánh Vịnh" quả là của Diodore, thì
nó càng xác nhận lập trường này của ngài. Diodore khi giải thích Thánh Vịnh
109, tuy còn đặt "Con đầu lòng theo xác
phàm" đối lại "Con Một
(monogène) theo thần tính", nhưng ngài minh nhiên áp dụng cả
hai kiểu nói này cho "chỉ một Con"
và "chỉ một Chúa", và
ngài thêm : "bản tính này và bản tính
kia trong chỉ một ngôi vị, xác phàm và thần tính". Dường như
những cách gọi song đối này, Con Thiên Chúa và Con Ðavít, Con Một và Con đầu
lòng, tuy bộc lộ một quan niệm nhị nguyên nào đó nhưng không hề ngăn cản
Diodore giữ vững tính duy nhất của Ðức Kitô. Vả lại, quả là điều đáng ngạc
nhiên vì vị Antioche này, xuyên qua tất cả các tác phẩm của mình, đã dùng chữ "xác phàm" (chair) như là tiếng
đồng nghĩa với con người trong các bản văn liên quan trực tiếp đến Nhập Thể.
Ngài đã không chọn lược đồ Ngôi Lời - Con Người (Verbe - Homme) mà người ta vẫn
xem là nét đặc trưng của môi trường Antioche kể từ thời Eustathe, còn về linh
hồn của Ðức Kitô thì chưa rõ ràng lắm.
BẢN TÍNH NÀY VÀ BẢN TÍNH KIA TRONG MỘT NGÔI VỊ DUY NHẤT.
Gạt qua một
bên những lời vớ vẫn của bọn lạc giáo, những lối bông đùa của người Dothái,
phải nói rằng quả thực Thánh Vịnh này nói về Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là
Con Một và là Con đầu lòng. Quả vậy, Con Một (Monogène) và Con đầu lòng
(premier-né) thì cũng là một, tất nhiên không phải là cùng một thể cách, nhưng
theo hai bình diện khác nhau. Con đầu lòng theo xác phàm, Con Một theo thần
tính, Con đầu lòng xét vì Ngài thuộc chúng ta, Con Một xét vì Ngài thuộc Thiên
Chúa. Song cả hai cũng chỉ là một Con và là một Chúa mà thôi. Thánh Vịnh áp
dụng cho Ngài không phải vì Ngài là Con Một, nhưng vì Ngài là Con đầu lòng. Vì
lẽ Ngài được lệnh ngồi bên Chúa Cha, xét vì Ngài là Trưởng Tử và người thừa tự.
Trong tư cách là Con Một, thì Ngài thực sự là đồng vĩnh cửu, đồng vương tòa, vì
tự bản tính Ngài ngang bằng về vinh dự và ngang bằng về vương quyền (ngai tòa)
với Chúa Cha, "Tự lòng Ta, Ta đã sinh ra Con trước lúc rạng đông". Ở
đây, vịnh gia đã hiểu rất rõ bản tính này và bản tính kia trong một ngôi vị duy
nhất. Xác phàm và thần tính khi ông nói "tự lòng Ta" thì đó là áp
dụng cho xác phàm ; còn khi ông nói "trước lúc rạng đông" đó là ông
nói về thần tính. Các từ ngữ I quả có áp dụng cho tất cả tạo thành, như vậy
vịnh gia muốn nói : trước khi mọi sự hiện hữu, Ta đã sinh thành ra Con. Sau đó
ông ca tụng việc Nhập Thể khi nói về nhân tính.
Về Thánh Vịnh 109 (đoạn đầu và
câu 3) mà Diodore
coi là nói về Ðấng Mêsia.
Texte grec dans L. Maries.
Études préliminaires à
lédition de
Diodore de Tarse sur les
psaumes, Paris 1933, p. 148 - 149.
NHÀ CHÚ GIẢI
THEO PHƯƠNG PHÁP "SUY NGHĨA" (THÉÔRIA)
(Théorie do
động từ Theôrein = considérer, spéculer, observer)
Ðiểm đặc trưng của Antioche nơi Diodore được khẳng
định một cách rõ ràng nhất trong lối chú giải của ngài, và lối chú giải này
được trình bày rõ hơn nữa trong những phần còn lại của tác phẩm của ngài. Ngoài
cuốn "Chú giải về các Thánh Vịnh",
mà một ấn bản thời bấy giờ còn giữ lại được, thì chúng ta còn có được rất nhiều
đoạn văn - bàn đến nhiều sách rất khác nhau của Cựu Ước cũng như Tân Ước, và
ngay cả một tựa đề gợi đến một cuốn sách đã thất lạc : "đâu là sự khác biệt giữa suy nghĩa và ẩn
dụ" (Quelle différence entre théorie et allégorie ?) Diodore rõ
ràng nhấn mạnh đến tính chất lịch sử của các Sách Thánh. "So với nghĩa ẩn dụ, chúng tôi coi trọng nghĩa
lịch sử hơn rất nhiều". Ngài nghĩ rằng, phải nghiên cứu các
Sách Thánh theo nghĩa đen của bản văn và từ đó xác lập diễn tiến các sự kiện mà
chúng thuật lại như là những biến cố thực sự đã xảy ra. Tuy nhiên, việc tôn
trọng nghĩa đen, tôn trọng lịch sử không phải là không cho phép nối dài một
cách nào đó vượt qua nghĩa lịch sử. Ðavít, người mà Diodore coi là tác giả sách
Thánh Vịnh, ngoài chính con người của ông, Ðavít vẫn có thể đóng vai của Môsê,
bậc tiền bối, hoặc đóng vai những người đến sau ông như Jérémie hay Ðấng Mêsia.
Một Thánh Vịnh có thể cùng lúc áp dụng cho những biến cố cụ thể, trực tiếp,
cũng như cho "các biến cố thuộc một
bình diện cao hơn". Thánh Vịnh mang "những sấm ngôn của Thiên Chúa có thể thích hợp cho hết mọi thời,
cho đến ngày cùng tận của nhân loại".
Chính cái nhìn vượt trên lịch sử này mà Diodore gọi
là "théoria". Ngài
chẳng phải là người đầu tiên đưa từ ngữ cổ điển này - mà nghĩa của nó là : suy
luận (spéculation) vào sử dụng trong khoa chú giải. Origène, và sau đó phần lớn
các nhà chú giải thế kỷ IV, dùng từ ngữ này để chỉ nghĩa ẩn giấu (sens caché)
của Kinh Thánh, cũng như các thực tại thiêng liêng. Nhưng Diodore muốn loại trừ
những suy diễn tùy hứng mà người ta thỉnh thoảng rơi vào khi giải thích theo
lối "ẩn dụ" (allégorie).
Khai triển theo lối ẩn dụ là khai triển "bên
lề bản văn", và thực tại của nó chỉ nằm trong tâm trí của người
chú giải, trong khi đó "théôria" khảo
sát kỹ lưỡng ý nghĩa hàm súc của bản văn. Diodore nhất mực kết án một số kiểu
tự do chú giải dựa theo Origène. Ngài khuyên hãy dứt khoát trở về với nghĩa
chặt chẽ, trực tiếp cùa từ ngữ. Nhưng, như chúng ta thấy, chủ trương duy thực
(réalisme) của ngài không phải là một thái độ đóng khung, khép kín.
Diodore đã chiếm một vị trí quan trọng, vượt xa
ngoài thời đại của mình, nhưng thật khó có thể nắm được tư tưởng của ngài. Các
đoạn văn ngài để lại, ngoài việc bị tách khỏi văn mạch, thì hầu hết, nếu không
phải đã bị sai lệch thì cũng là do các đối thủ của ngài lựa chọn. Nếu có được
dù chỉ là một tác phẩm còn nguyên vẹn của ngài thì hẳn có thể hoàn lại tiếng
nói cho ngài, riêng cuốn "Chú giải các
Thánh Vịnh" có phải là Diodore không thì vẫn còn một chút nghi
ngờ. Ðây là một chương Giáo Phụ học mà chúng tôi sẽ thử viết lại trong thời
gian tới. Dầu sao, Diodore tiếp tục sống nơi Théodore và sẽ sống lại nơi
Théodoret.
CHỐNG LỐI ẨN DỤ (ALLÉGORIE) ÐỂ BÊNH VỰC LỊCH SỬ.
Lịch sử
không chống lại việc suy ra những ý nghĩa cao hơn, ngược lại, nó là nền tảng và
là chỗ dựa cho những khái niệm cao hơn đó. Nhưng phải coi chừng một điều duy
nhất, là đừng để xảy ra việc đảo lộn đối tượng khi suy nghĩa, vì như thế sẽ
không còn là suy nghĩa nữa mà là lối ẩn dụ. Quả thế, Thánh Tông Ðồ khi đưa vào
lối suy nghĩa và khi gọi sự suy nghĩa đó là phép Ẩn Dụ (allégoirie) thì ngài đã
không hề đảo lộn lịch sử. Không phải ngài không biết các từ ngữ nhưng là vì
ngài muốn dạy chúng ta rằng chính từ ngữ ẩn dụ, nếu được xác định bởi văn mạch,
thì chúng ta phải hiểu nó dựa theo những quy tắc của phép suy nghĩa mà không
làm phương hại gì đến bản chất của lịch sử. Thế nhưng các nhà canh tân về Kinh
Thánh, những kẻ nghĩ mình quá khôn ngoan, hoặc là vì họ bất lực trước khoa chú
giải lịch sử (exégère historique) hoặc là vì sau khi đã cố ý phản lại khoa chú
giải này, đã đưa vào phép Ẩn Dụ, nhưng không theo nghĩa của Thánh Tông Ðồ mà là
theo ý nghĩa vớ vẩn của họ, và như thế họ bắt độc giả thay vì hiểu điều này lại
hiểu ra những điều (hoàn toàn) khác lạ. Chẳng hạn thay vì "vực thẳm"
thì họ hiểu là "ma quỉ", thay vì "con rắn" thì họ hiểu là
"quỉ" và cứ như thế. (Tôi xin ngừng lại) để khỏi bị buộc phải phun ra
những lời dại khờ khi bài bác những điều khờ dại. Vì, mặc dù hoàn toàn bác bỏ
những kiểu giải thích đó, chúng tôi vẫn không từ chối đi tới việc suy nghĩa với
tất cả sự tôn trọng cũng như đưa mạch văn lên một bình diện cao hơn. (Chúng tôi
không từ chối) chẳng hạn, đồng hóa Abel và Cain với Hội Ðồng Dothái và Giáo
Hội, và cố gắng minh chứng rằng một bên là Hội đường Dothái bị loại bỏ như hy
lễ của Cain và bên kia là các lễ vật của Giáo Hội được chấp nhận, như lễ vật
của Abel đã được chấp nhận, hoặc việc nhận ra Chúa nơi con chiên vô tì tích và
hợp pháp. Vì chưng, những kiểu giải thích này không phá bỏ lịch sử, cũng không
đão lộn sự suy nghĩa, phương pháp trung dung mà chúng tôi dùng ở đây, vừa lịch
sử vừa suy nghĩa, sẽ giúp chúng ta thoát khỏi ảnh hưởng của tư tưởng Hylạp.
Commentaire sur les Psaumes,
prologue COSG 6
Tumbout-Leuvent, 1980, p. 7-8,
trad. L. Manès.
Extraits du "Commentaire
de Diodore de Tarse sur les Psaumes"
Rech. Sc. Rel, X, 1919, p 88 -
89.
"Suy nghĩa" dịch chữ
théônia - Tư tưởng Hylạp bị coi là theo
khuynh hướng ẩn dụ ; Thánh
Tông đồ ở đây là Thánh Phaolô.
LỜI KHIỂN TRÁCH CỦA BẠN ÐỒNG NGHIỆP.
Nếu những
giọt nước mắt, và những tiếng rên siết có thể diễn thành chữ viết thì có lẽ bức
thư mà tôi gởi cho bạn sẽ dầy đặc, ngập tràn. Tôi khóc, không phải vì thấy bạn
lo toan các công việc của một người cha, nhưng là vì nghĩ tới việc bạn đã xóa
tên của bạn trong danh sách những người anh em, việc bạn đã chà đạp lên kết ước
đã ký với Ðức Kitô. Nghĩ đến điều đó là tôi rùng mình tôi đau đớn và run rẩy,
mà cũng đúng thôi. Bởi lẽ, có ai lại kết án một người thường dân tội đào ngũ
bao giờ, nhưng nếu anh ta là lính và bị bắt quả tang tội đào nhiệm thì anh ta
đã lâm vào tình thế hết sức nguy rồi. Ðiều tệ hại, bạn Théodore thân mến, không
phải là ngã xuống khi chiến đấu nhưng là việc cứ tiếp tục nằm dài dưới đất, và
điều đáng buồn không phải là chuyện trúng thương trong chiến trận, nhưng là
việc, khi đã bị thương lại thất vọng mà không chăm sóc gì đến vết thương.
Jean Chrysostome, "Au
moine Théodore"
Sc no. 117, p. 46 -
49, Trad. J. Dumortier.
Lá thư này gắn theo một khảo
luận về cùng một đề tài.
III. THÉODORE
DE MOPSUETE
MỘT NẠN NHÂN
KHÁC.
Théodore cũng là một người Antioche , xét về sinh
quán cũng như về học thuyết. sinh vào khoảng 350, là học trò của Diodore. Chắc
hẳn đây là Théodore mà sau này Jean Chrysostome, với tư cách là bạn đồng môn
thuộc Askétérion, khiển trách khá nặng lời vì đã rời bỏ đời sống đan tu mà ra
đời. Ngài thụ phong Linh Mục khoảng năm 383, làm Giám Mục ở Mopsuetste ở Cicile
từ năm 392 đến năm 428, cũng là năm qua đời và là năm Nestorius lên ngôi tại
Constantinople. Cũng như Diodore, sinh thời ngài rất được nể trọng. Ngài trợ
lực Basile chống lại bè Eunome và tiếp tục cuộc chiến đấu đó với khảo luận : "Phò Basile chống Eunome" (Pour
Basile contre Eunome). Ngài cũng công kích bè Macédonie, một trong số các tác
phẩm của ngài có thuật lại một cuộc tranh luận xảy ra năm 392. Ngài tố giác
những sai lầm của bè Apollinaire. Tuy nhiên, trong một thời gian và với một vài
vị Ðông phương khác, ngài về phe Pélagie xung quanh vấn đề ý chí tự do (libre
arbitre) và nguyên tội. Ngài đã vui vẻ tiếp nhận Julien dEclane, người mà thánh
Augustin tố giác và đã bị Tây phương kết án. Sau khi mất, cùng với Diodore,
ngài bị coi như là người đã mở đường cho Nestorius, sau đó bị kết án, ngay cả
nêu đích danh, tại công Ðồng Constantinople năm 553. Tác phẩm của ngài cũng bị
kết án theo, tuy nhiên, Giáo Hội Nestorienne có cảm tình với tác phẩm của ngài,
nhờ đó mà ngày nay chúng ta được truyền lại rất nhiều tác phẩm của ngài bằng
tiếng Syriaque.
Nếu các tác phẩm tu đức của ngài đã bị thất lạc thì
vẫn còn lại khá nhiều chứng tích, từng phần hoặc ngay cả đầy đủ, về các tác
phẩm tín lý và chú giải của ngài. Năm 1905, người ta đã khám phá được một cảo
bản Syriaque về khảo luận chính yếu của ngài "Về
Nhập Thể" (De lIncarnation) nhưng bản này đã thất lạc trong
những năm 1914 - 1918, tuy còn giữ lại được rất nhiều mảnh, nhưng tiếc thay,
chúng lại lọt vào những bàn tay không mấy lương thiện. Người ta còn giữ được
cuốn "Tranh luận với phe
Macédonie" (Dispute avec les Macédoniens) bằng tiếng Syriaque.
Mười sáu bài giảng giáo lý (Homélies catéchétiques) cũng bằng tiếng Syriaque đã
được khám phá vào năm 1932. Các bài giảng này đi theo dàn bài chung của thời đó
: mười bài đầu tiên giảng giải về các khoản trong Kinh Tin Kính, sáu bài kế
tiếp trình bày Kinh Lạy Cha và các Bí Tích Khai Tâm (Phép Rửa, Thánh Thể).
Trong số công trình chú giải rất lớn của ngài, ngoài rất nhiều đoạn văn mà từ
đó đôi khi người ta hầu như dựng lại được bản văn, thì chúng ta còn giữ lại
được cuốn "Chú giải các tiên tri
nhỏ" bằng tiếng Hylạp, "Chú
giải thánh Gioan" bằng tiếng Syriaque và "Chú giải các thư nhỏ của thánh Phaolô".
"NHÀ
GIẢI THÍCH" LINITERPRÈTE.
Lối chú giải Théodore tỏ ra còn nghiêm khắc hơn cả
Diodore nữa. Bản văn Thánh Kinh trước tiên phải qua giai đoạn phê bình văn bản
(critique textuelle) ; ngài giải thích bản văn đó theo bản Hipri, một ngôn ngữ
mà ngài không được thông thạo, theo bản Syriaque và nhiều bản dịch Hylạp khác ;
ngài lưu ý đến những nét đặc thù của các thì (temps), các cách hành văn, về sự
liên kết giữa các mệnh đề và sửa chữa bản chính (texte de base) một cách thích
đáng, nhưng cũng có sự mạo hiểm trong đó.
Bản văn sau khi đã được xác lập và được hiểu theo
sát nghĩa của nó, ngài tiếp tục nghiên cứu các hoàn cảnh trong đó bản văn được
soạn thảo và rút ra một kết luận tổng quát : chính cái toàn thể của một câu
chuyện hay một cuốn sách áp đặt ý nghĩa của nó trên các chi tiết. Chẳng hạn,
đối với các Thánh Vịnh, ông cho rằng toàn bộ các Thánh Vịnh là của Ðavít và,
ngoại trừ bốn Thánh Vịnh (2, 8, 44, 109) trực tiếp nhắm đến Ðức Kitô và Giáo
Hội, tất cả các Thánh Vịnh khác đều hiểu về các biến cố của cuộc đời Ðavít hoặc
của cả lịch sử dân Dothái : tác giả, được linh hứng tiên tri, có thể đóng nhiều
vai trò khác nhau trong các Thánh Vịnh. Mỗi Thánh Vịnh, được định vị trên bình
diện lịch sử, và được xác định về đối tượng của nó, phải được coi là một toàn
thể, nhất thiết phải là do một người nói duy nhất. Dù Ðức Kitô hay một tác giả
Tân Ước có áp dụng câu này hay câu kia của Thánh Vịnh cho một đối tượng khác
thì cũng chẳng hề gì : đó là lối xử dụng "thích
ứng" (Accomodatrice) kể ra cũng chính đáng và hữu ích, nhưng
vẫn không làm thay đổi nghĩa toàn thể (sens global) ; Thánh Vịnh không vì thế
mà trở thành lời tiên tri về Ðấng Mêsia. Khuynh hướng này, tức là khuynh hướng
giải thích các bản văn Cựu Ước (vetero-testamentaires) bên trong Cựu Ước ta còn
thấy xuất hiện khi giải thích sách Diệu Ca. Théodore xem đó như một khúc tình
ca của Salomon viết cho công chúa Aicập mà ông vừa mới cưới, mặc dầu đã có sẵn
một truyền thống xem đó là Ðức Kitô và Giáo Hội. Ngay cả sách của các tiên tri
cũng chủ yếu liên quan đến Cựu Ước, có sự phát triển riêng của nó trên bình
diện lịch sử và phải được giải thích trong chính nó trước khi là dấu chỉ.
Tuy nhiên, Théodore cũng chấp nhận có những trường
hợp có nghhĩa tiên trưng (typologie) bảo đảm sự nối kết với Tân Ước, trường hợp
Yona chẳng hạn. Ðôi khi vì tính chất ngoa dụ (hyperbolique) của bản văn, vượt
quá tầm quan trọng của biến cố nhắm đến trong lịch sử của Dothái một cách hiển
nhiên, nên nó là lời tiên báo mặc nhiên, vượt lên trên về mặt sự kiện thuộc một
chiều kích khác : chẳng hạn những lời của tiên tri Yôel tiên báo việc đổ Thần
Khí trên Israel được khôi phục (Yô 3, 1 - 3), những lời ấy sẽ tìm thấy ý nghĩa
tròn đầy của chúng, mà Yôel không hay biết, trong biến cố tuôn đổ Thần Khí ngày
lễ Ngũ Tuần, với việc Giáo Hội xuất đầu lộ diện, và Phêrô công bố điều tiên tri
Yôel đã nói (Cv 2, 16 - 21). Tóm lại, Théodore không phủ nhận Cựu Ước chuẩn bị
cho Tân Ước và cảm thấy trước những điều xảy ra trong Tân Ước. Ông không bác bỏ
những lời tiên báo rõ ràng hay các "tiên
trưng" (Types), nhưng ông xem xét chúng theo những tiêu chuẩn
rất gắt gao. Tuy nhiên, không phải lúc nào ông cũng nắm vững được các tiêu
chuẩn đó. Ðôi khi những lầm lẫn của ông cũng tương tự như những lầm lẫn của các
đối thủ, những người mà ông tố giác trong các bài chú giải của mình, và ông đã
viết một cuốn, trong số nhiều cuốn khác, dường như vậy, dành cho họ với nhan đề
đầy ý nghĩa : "Về ẩn dụ và về lịch
sử". Người mà truyền thống đặt cho biệt danh là "nhà giải
thích" (Linterprète) đã muốn là một nhà sử học và một người duy thực
(réaliste) ; lối chú giải của ông mang tính đặc trưng của Antioche rất rõ, tuy
chứa đựng ít cảm ứng thần bí (élan mystiqe) nhưng trong những trực giác của
mình, mặc dầu có những giới hạn và những sai lầm không thể tránh, lối chú giải
này lại rất gần với tư tưởng hiện đại.
THÉODORE BÁC BỎ LỐI GIẢI THÍCH THÁNH VỊNH 21 THEO NGHĨA NÓI VỀ ÐẤNG
MÊSIA, ÐÂY LÀ THÁNH VỊNH ÐÃ ÐƯỢC ÐỨC KITÔ SỬ DỤNG.
Thánh Vương
Ðavít đã cất lên Thánh Vịnh này như một lời cầu nguyện giữa bao nỗi khốn quẫn
mà Absalon đã gây ra cho ông, Thiên Chúa chấp nhận để ông rơi vào đó, nhất là
vì tội ngoại tình của ông.
Lời chú giải
về câu 2a : "Lạy Chúa Trời tôi, lạy Chúa Trời tôi, nhân sao Ngài lại bỏ
tôi" đã bị thất lạc. (Théodore sẽ đề cập lại trong phần sau).
Câu 2b :
"Cứ đứng xa chẳng tiếp cứu tôi, xa với lời tôi kêu gào !". Vì câu nói
ở trên : Nhân sao Ngài lại (bỏ) tôi ? Ông thêm vào lý do mình bị bỏ rơi để tỏ
ra không phải là mình than trách Thiên Chúa. Ông trách là trách chính mình.
Những kẻ muốn (đặt) Thánh Vịnh này vào môi miệng của Chúa, mà chủ yếu lại trích
dẫn câu này, thì cũng chứng tỏ mình không biết suy nghĩ bao nhiêu. Thực vậy,
làm sao có thể hiểu được việc Chúa lại đi nói về mình những lời này : "Cứ
đứng xa chẳng tiếp cứu tôi", và câu còn lại ? Tất nhiên, khi bị khổ nạn,
bị treo trên thập giá, Ngài có nói : "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa tôi, xin
hãy nhìn đến tôi". Nhưng Ngài không hề nói rằng những lời này nằm trong
Thánh Vịnh đó. Vả lại, Ngài đã không sử dụng chứng từ đó như là điều trước đó
đã được tiên báo và bây giờ thực sự được hoàn tất. Nhưng, vì Ngài đã chịu khổ
nạn, chịu đánh đòn, lăng mạ, chịu đóng đinh vào khổ giá, thì việc Ngài dùng
những lời nói đó cũng là phải lẽ vì bất cứ người đạo hạnh nào khi phải chịu
những điều tương tự thì thường cũng thốt ra những lời như thế. Rõ ràng là, qua
những lời đó, Ðấng Cứu Thế nhắm đến chính cuộc khổ nạn của mình, để tránh khỏi
việc có những kẻ nghĩ rằng tất cả công việc đó cũng như huyền nhiệm về lòng
hiếu thảo của Ngài chỉ là bề ngoài. Ngài muốn qua đó cho thấy rằng Ngài không
bao giờ chống đối lại Thánh Ý của Cha Ngài, trong khi người Dothái đã đóng đinh
Ngài viện cớ là Ngài đã phá hủy lề luật. Chính vì lẽ này mà Ngài đã xử dụng
chứng từ đó, không phải vì đã có một lời tiên báo về Ngài qua sấm ngôn tiên tri
hay vì Thánh Vịnh đó đã được sáng tác để nói về Ngài.
Texte (latin) dans R. Devreesse.
Le Commentaire de
Théodore de Mopsueste sur les
psaumes
(I - LXXX). Cité du Vatican
1939, p. 120 - 121.
Ðoạn chú
giải này cho thấy rõ về lý thuyết của Théodore. Những dòng đầu tiên xác định lý
chứng của Thánh Vịnh : một lời cầu nguyện của Ðavít trong nỗi khốn cùng. Tất cả
phần tiếp theo đều gắn vào đó. "Chúng đâm thủng tay tôi ." có nghĩa :
chúng đào bới tất cả việc làm của tôi. Không có lời nào lại có thể là lời tiên
báo về Ðấng Cứu Thế, mặc dầu Ðức Kitô trên thập giá có thốt ra một câu trong
Thánh Vịnh và các tác giả sách Phúc Âm còn áp dụng ba câu khác vào cuộc khổ
nạn.
MỘT THẦN HỌC
GIA BỊ TRANH CÃI.
Vấn đề thần học thì ít rõ ràng hơn. Học thuyết về
Ba Ngôi của Théodore không có gì phải nghi ngờ : "một bản tính Thiên Chúa duy nhất được nhận biết nơi Ba Ngôi Vị
(Hypostase) của Chúa cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Thánh
Thần thực sự là "Ngôi thứ Ba" (troisième
hypostase). Nhưng Kitô học của ngài vẫn tiếp tục là điều mà các nhà sử học bất
đồng ý kiến với nhau, mặc dầu đại đa số không cho rằng Kitô học của ngài đã
cung cấp chất liệu cho Nestorius. Khó khăn bắt nguồn từ ba lý do chính. Phần
lớn tác phẩm của ngài mà chúng ta biết được chỉ là qua những đoạn văn rời, mà
những mảng văn này có thể đã bị sửa chữa bởi cả người ủng hộ lẫn những người
chống lại ngài. Những mảng văn này mà một số rất ít các trước tác của ngài còn
được lưu giữ thì phần lớn lại là những bản dịch. Chính việc dịch thuật này càng
làm cho chúng ta khó xác định được ý nghĩa của các thuật ngữ Kitô học thời bấy
giờ, nhất là ý nghĩa của các từ "nature"
(bản tính), "hypostase"
(vị, cá vị) và "personne"
(ngôi vị). Các "Bài giảng
giáo lý" (Homélies catéchétiques) là một tài liệu ngoại lệ, đặc
biệt nhưng cũng không thoát khỏi hai điều bất lợi vừa nói, vả lại ta có thể
nghĩ rằng Théodore đã không thổ lộ cho các tân tòng suy nghĩ riêng tư nhất hoặc
táo bạo nhất của mình. Dầu vậy tài liệu này cho chúng ta cơ may tìm lại được tư
tưởng của ngài hơn cả. Những bài giảng đó sẽ là nguồn tài liệu chính cho phần
trình bày này. Nhằm chống lại những người mà ngài gọi là "arromanites" và chống lại bè
Apollinaire, Théodore bảo vệ "Thần Tính
của Con Một" Con Duy Nhất của Thiên Chúa "đồng bản tính với Ðức Chúa Cha"
và bảo vệ sự toàn vẹn của nhân tính nơi Ðức Kitô : thân xác và linh hồn với cả
trí tuệ. Ngài là : "Ðấng đảm nhận và là
Người được đảm nhận", đây là kiểu nói mà ngài thường dùng. Khi
bản văn rõ ràng, không thể hiểu khác được, thì ngài không ngần ngại dùng từ "xác phàm" (chair) để chỉ con
người : "Chúng tôi nói rằng Ngôi Lời
Thiên Chúa đã thành xác phàm, không do sự thay đổi nhưng do sự đảm nhận xác
phàm" (par lassomption de la chair). Thậm chí ngài còn nói : "Ngài đã trở thành xác phàm, ngõ hầu anh hiểu
được rằng Ngài đã đảm nhận một con người toàn vẹn". Trên thực
tế, từ "người", "người được
đảm nhận" (homme assumé) là từ được ngài thường xuyên sử dụng
hơn cả : Yêsu, "Con của Ðavít" không
phải là Thiên Chúa, cũng không phải chỉ là con người, nhưng Ngài tự bản tính
thực sự là trong cả hai : "Vừa là Thiên
Chúa, vừa là người". Luôn luôn trong tư cách một nhà sử học, và
xuyên qua Tin Mừng, ngài nhấn mạnh các hoạt động cũng như những yếu hèn của con
người Ðức Kitô, ngài để Ðức Kitô nói năng cách riêng biệt, nhưng ngài xác định
rõ là không có "hai con" : Chúa
chúng ta, khi nói trong tư cách là Thiên Chúa hay trong tư cách là con người.
Con Thiên Chúa hay Con Ðavít, "đã đưa
đại danh từ Ta về Ngôi vị chung", và dường như ở đây, là một
ngôi vị kết hợp (prosôpon dunion), một điều rất hiếm thấy ở chỗ khác. Cùng với "sự phân biệt các bản tính" ngài
thường tôn xưng "sự duy nhất của Ngôi
Vị" bất khả phân. Sự duy nhất (unité) hay hiệp nhất (union) -
một từ ngữ trở đi trở lại khá thường xuyên - được thực hiện không do sự pha
trộn các bản tính, nhưng do Ngôi Lời lưu-trú-nơi (inhabitation) con người, theo
hình ảnh của thánh Gioan mà Théodore đã cẩn thận xác định rõ thêm ("như nơi một người con") hoặc do
sự kết hợp (conjonction), gắn vào (adaptation). Nhưng ngài luôn luôn thêm rằng
con người đã được đảm nhận ngay từ đầu : con người đó có tất cả để có thể là
một ngôi vị nhân loại riêng biệt nhưng trong thực tế thì đã không bao giờ có
một ngôi vị riêng ; ngay khi được hình thành thì con người đó đã tùy thuộc vào
một ngôi vị khác, ngôi vị này hầu như luôn luôn được Théodore nói rõ là Ngôi
Lời, và ngài đã qui một cách rất thích đáng cho ngôi vị này tất cả các đặc tính
của hai bản tính, trong khi con người (Yêsu) thêm các tước hiệu thần linh vào
các thuộc tính của mình. Nhưng, tóm lại, thế nào là một ngôi vị (personne),
nhất là khi người ta nói về Ðức Kitô, một trường hợp độc nhất vô nhị và huyền
siêu ?
Kitô học, nhìn theo viễn tượng này, là một Kitô học
gắn sâu vào lịch sử nhân loại. Xuyên qua Ðức Kitô, Ðấng đã trải qua kinh nghiệm
yếu hèn nhưng đã đạt tới vinh quang, toàn thể nhân loại vượt từ tình trạng đổi
thay bất định sang tình trạng bất biến và bất tử. Các tác phẩm của Théodore đặt
ra rất nhiều vấn đề khác : tạo dựng, nguyên tội, tự do . Ðọc Théodore, người ta
không thể không nói đến tầm quan trọng mà ngài gán cho các "hình bí tích" (figures
sacramentelles) trong giáo lý của ngài, đó là những hành vi hết sức tỏ tường
trước mắt chúng ta, nhưng cũng là những "tiên
trưng" (Types) "là chỉ
dẫn về những điều vô hình và khôn tả qua các dấu chỉ và biểu tượng". Năm
bài giảng ngài dành để nói đến các bí tích không phải là phần phụ lục của "Các bài giảng giáo lý" : chúng
chiếm một vị trí không kém gì toàn bộ phần giảng nghĩa Kinh Tin Kính. Cũng nhờ
thế mà nhà chú giải đồng thời là thần học gia (lexégète théologien) còn là một
nhân chứng qúi giá về nền phụng vụ Syrie trong những năm 400.
"MỘT NGÔI VỊ DUY NHẤT, DO SỰ KẾT HỢP".
(Các Thánh
Phụ của chúng ta) bằng những lời ngắn gọn đã viết và soạn ra bản tuyên tín. Vì
thế mà các ngài nói : "Ðấng sinh bởi đức Trinh Nữ Maria và đã chịu đóng
đinh thời Ponce Pilate". Các ngài nói đến khởi đầu và kết thúc của nhiệm
cục (đã được thực hiện) vì chúng ta, vì khởi đầu của mọi ân sủng đó là việc
Ngài sinh bởi Ðức Maria, và kết thúc là việc đóng đinh thập giá - bởi lẽ các
ngài gọi cuộc khổ nạn và tất cả những gì được thực hiện trong cuộc khổ nạn là
thập giá.
3. Vì vậy, trong
sự ngắn gọn của bản tuyên tín, khi chỉ nhắc tới điểm khởi đầu và điểm kết thúc,
thì đó là các Thánh Phụ muốn truyền lại cho chúng ta tất cả những gì đã được
thực hiện trong quãng thời gian đó để chỉ dạy cho những ai muốn học biết giáo
lý. Có điều chắc chắn là các ngài không nghĩ rằng thần tính của (Con) độc nhất
đã được sinh ra bởi một người nữ, làm như thể từ đó thần tính mới bắt đầu hiện
hữu, vì thần tính - mà các ngài nói là "đã sinh bởi Ðức Chúa Cha từ trước
muôn đời và từ đời đời đã sinh ra từ Người và hiện hữu với Người thần tính đó
không khởi sự hiện hữu bởi Ðức Maria. Nhưng các ngài dựa theo các Sách Thánh,
vì Sách Thánh nói về hai bản tính khác nhau, còn khi dạy một ngôi vị duy nhất
(prosôpon) do sự kết hợp trọn vẹn, thì đó là vì e người ta lại tưởng rằng các
Ngài phân chia sự kết hợp hoàn hảo diễn ra giữa điều được đảm nhận và điều đảm
nhận. Bởi chưng nếu sự kết hợp này bị tiêu hủy thì điều được đảm nhận sẽ không
còn gì khác hơn là một con người thuần túy như chúng ta. Chính vì thế mà các
Sách Thánh tuyên bố hai điều đó như của cùng một Người Con duy nhất, ngõ hầu
ngay trong lời tuyên xưng đức tin, người ta được nhận biết Vinh Quang của (Con)
Ðộc Nhất cũng như vinh dự của con người mà Ngài mặc lấy.
Hom. catéchétiques, VI, 2 - 3,
Trad. R. Tonneau.
Cité de Vatican, 1949, p. 133
- 135.
HIỆP NHẤT NƠI NGÔI VỊ TRONG ÐỨC KITÔ.
"Lưu
trú (habiter) như trong một người con" nghĩa là gì ? Nghĩa là khi cư ngụ
nơi con người, thì một đàng Ngài kết hiệp với con người được đảm nhận
(lassumé), đàng khác, Ngài cho con người tham dự tất cả phẩm vị mà Ðấng cư ngụ
thông chịu trong tư cách là Con tự bản tính, đến mức một đàng Ngài trở thành
một Ngôi Vị duy nhất (prosôpon) theo sự hiệp nhất với con người (được đảm nhận)
và đàng khác, Ngài cho con người (được đảm nhận) thông hiệp vào tất cả quyền
năng của Ngài. Vì vậy mà có sự thể là Ngài thực hiện qua con người đó, đến mức
khi Ngài thực hiện sự phán xử hay phán xét cánh chung, Ngài sẽ thực hiện qua
con người đó và qua sự quang lâm của Ngài, nhưng sự khác biệt trong những gì
thuộc về đặc tính xét theo bản tính thì hiển nhiên vẫn có vai trò của nó.