PHẦN II
TÂY PHƯƠNG Ở KHÚC QUANH THẾ KỶ V
CHƯƠNG I
THÁNH AMBROISE
VỊ HOÀNG TỬ CỦA GIÁO HỘI
I. MỘT GIÁM MỤC HOẠT ÐỘNG VĨ ÐẠI.
Sau khi Lactance chết, có lẽ sát trước Công Ðồng Nicée,
Tây phương không còn những khuôn mặt lớn, thánh Hilaire chỉ được biết đến vào
khoảng năm 356 và chỉ kéo dài hơn chục năm , trong khi đó, ở Ðông phương, thánh
Athanase chiếm lĩnh diễn đàn trong gần 50 năm, chung quanh ngài và tiếp nối
ngài là cả một nhóm thần học gia lớn. Nhưng rồi thánh Ambroise, thánh Jérôme và
thánh Augustin tiếp nối nhau xuất hiện. Tây phương giành lại chỗ đứng.
AMBROISE, DANH GIA VỌNG
TỘC.
Thánh Ambroise thuộc dòng dõi quyền quí. Cha ngài, một
Kitô hữu xuất thân từ một trong những gia đình nổi tiếng nhất của Nghị viện
Rôma, lúc bấy giờ làm Tổng trấn xứ Gaule tại Trêves ; ông mất sớm. Ðứa con trai
được người mẹ đạo hạnh dẫn về Rôma cùng với em trai là Satyrus và em gái là
Marcelline, sau này sẽ khấn sống đồng trinh. Năm 370, vào lối 30 tuổi, Ambroise
trở thành Tổng đốc (gouverneur) tỉnh Émilie-Ligure ở Milan. Giám Mục tại đây là
Auxence, là một con người theo phái homéens [đồng dạng, Chúa Cha giống Chúa
Con], Hilaire cố gắng thuyết phục ông trở về với giáo lý chính thống nhưng vô
hiệu. Cái chết của vị Giám Mục theo phe Arius này đã gây nhiều xáo trộn khiến vị
tổng đốc phải đến dàn xếp. Lúc đó, một em bé la lên : "Ambroise Giám Mục". Hoàng đế
Valentinien I xuôi theo tình thế, chấp nhận cho Ambroise lên kế vị, mặc dầu
ngài chưa biết gì đến các cuộc tranh luận. Vị Tổng đốc liền được rửa tội và
tuần lễ sau, có lẽ là ngày 7.12 năm 374, ngài được tấn phong do một Giám Mục
theo Nicée, như lời yêu cầu của ngài. Ngài cho rước di hài của Denys, vị tiền
nhiệm của Auxence, chết nơi lưu đày trở về. Ngược lại ngài vẫn để nguyên hàng
giáo sĩ đã từng gắn bó với Auxence.
Ambroise không phải là người làm việc nửa vời. Làm Giám
Mục, ngài vẫn chu đáo tận tâm không kém gì lúc làm tổng đốc. Ngài tự buộc mình
học hỏi đào sâu về Kitô giáo tại trường của Simplicien : học Kinh Thánh, tất cả
các tác giả Latinh và Hylạp, thêm vào đó là Philon và Plotin. Ngài phân phát
gia tài cho người nghèo, hăng hái đứng ra bênh vực họ chống lại kẻ giàu có.
Những tên Achab mới bóc lột Naboth. Ngài quan tâm nâng đỡ các trinh nữ, khai
tâm cho các dự tòng, nuôi dưỡng dân của ngài. Phần lớn công trình về chú giải,
tín lý, luân lý, tu đức của ngài phát xuất từ hoạt động mục vụ đó.
CUỘC CHIẾN ÐẤU CHỐNG BÈ
ARIUS.
Ambroise phải đối phó với một quyền lực chính trị không
phải lúc nào cũng dễ dàng để cho ngài thi hành trách vụ. Hoàng đế Valentinien
I, trước kia hậu thuẩn cho Auxence, nay không còn xen vào bao nhiêu, nhưng bà
vợ thứ hai của ông là Justine lại đứng về phe Arius. Năm 375, Gratien, hãy còn
trẻ, lên kế vị và cùng với Valentinien II, còn là một đứa bé, chia nhau cai trị
Tây phương, đây cũng là thời gian mà Théodose sắp thế chỗ Valens, một người
theo phe Arius, bên Ðông phương (364 - 378). Ban đầu, do ảnh hưởng của mẹ,
Gratien tỏ ra khoan dung rộng rãi đối với những người không-Công giáo. Ambroise
phản ứng lại : ngài đặt một Giám Mục chính thống ở Sirmium, và long trọng nhắc
lại đức tin Nicée, và ngài đã mau chống chiếm được sự quí mến của Gratien. Ngày
3. 8. 378, hoàng đế ra lệnh cấm tất cả mọi lạc giáo hoạt động, trong khi đó bên
Ðông phương, hoàng đế Théodose cũng dần dần áp đặt đức tin chân thật.
Từ đây, vị Giám Mục chơi lá bài chủ nghĩa quốc gia, ngài
liệt bè Arius vào hạng những kẻ xâm lăng : quân Goth lại chẳng thuộc bè Arius
đó sao ? Ngài lẫn lộn lòng trung thành với Chúa và với đế quốc. Khi Gratien yêu
cầu ngài viết bài toát yếu giáo lý "Về
đức tin", ngài đề gửi Gratien "Thánh
Hoàng đế" và trong một lá thư năm 380, lại gọi ông là "Hoàng đế Kitô hữu chính danh nhất"
(Le plus Chrétien des empereurs). Mặc dầu Valens tử trận trong khi đánh quân
Goth, ngài lại đi tố cáo bè Arius - và qua đó tố cáo Justine - là cửa ngõ qua
đó quân thù lẻn vào tổ quốc : "Như
trước kia cỗ xe là chỗ chúng náu thân, thì nay Giáo Hội lại là cỗ xe của chúng.
Và người đàn bà đó đi đến đâu thì đều mang binh đội của y thị tới đó". Bè
Arius hay quân Goth cũng đều là bọn bài - Roma. Ngài vừa than tiếc cho việc đế
quốc bị phân chia đồng thời cũng phàn nàn ngay cả về sự vươn lên của
Constantinople, "Rôma mới"
mà khoản 3 của Công Ðồng năm 381 đã dàn xếp ngay sau thành của Ðức Giáo Hoàng.
Tuy nhiên, phe Arius và người ngoại giáo vẫn luôn còn đó.
Tại Công Ðồng Aquilée năm 381, bằng sự khôn khéo hơn là với lòng nhân đạo.
Ambroise nhờ thay thế quyền làm cho hai Giám Mục cuối cùng đối nghịch với Nicée
phải rời bỏ tòa của họ. Lạc giáo bị ngăn chận ở Illyrie và Ý. Tuy nhiên Justine
không bó tay thúc thủ. Bà gài người của mình vào hoàng cung tại Milan. Năm 383,
Gratien bị Maxime ám sát. Valantinien II, mới 12 tuổi, trở thành vị hoàng đế
duy nhất ở Tây phương, trước mặt Maxime, kẻ tiếm quyền. Dưới áp lực của
Justine, từ năm 385, ông đòi người ta hoàn lại một thánh đường cho những người
Arius, nhưng không xong. Ngày 23 tháng Giêng năm 386, ông cho phe Arius và phía
Công Giáo hưởng quyền lợi như nhau. Các nhà thờ trên toàn đế quốc phải để cho
người Arius lui tới, nếu không sẽ bị tử hình. Tại Milan, ông đòi nhượng lại
ngôi nhà thờ Porcienne, và hơn thế nữa, cả ngôi "Vương Cung Thánh Ðường Mới" cho phe Arius.
Mercurinus, một linh mục thân tín của Justine đã tự xưng danh là Auxence với ý
đồ tiếm đoạt ngôi Giám Mục. Triều đình gợi ý một cuộc phân xử trong đó cả hai
phe tham dự dưới sự chủ tọa của hoàng đế. Ambroise đã khước từ đề nghị đó với ý
thức phẩm cách của mình trong một bức thư gởi Valentinien tháng 3 năm 386 :
Giáo dân xét xử Giám Mục từ bao giờ ? Ðụng độ gia tăng trong Tuần Thánh. Ngày
Chúa Nhật Lễ Lá, Ambroise cùng với dân chúng, chiếm giữ ngôi thánh đường
Porcienne [cửa] đã bị quân lính bao vây. Trước những bắt bớ và trừng phạt, vị
Giám Mục đã đáp lại bằng những thánh thi đầu tiên và lối hát luân phiên các
ThánhVịnh (chant alterné). Vị mục tử tốt lành, trong một bài giảng bi tráng, đã
tố giác nặng lời tên Scythe (Mercurinus gốc người Scythe) kẻ tự xưng là
Auxence. Biết mình không thể phản kháng bằng vũ lực, ngài chỉ giữ lại những vũ
khí hòa bình. Ngài xin các tín hữu cho mình được quyền ra đi tử đạo. Mọi đe dọa
đối với ngài cũng chỉ như trò đùa con trẻ. Một cuộc gặp gỡ lạ lùng xảy ra : một
bà Monica nào đó đã tham dự sốt sắng vào các đêm canh thức và con trai bà là
Augustine đã cùng chịu "nỗi kinh hoàng
của thành đô". Cuối cùng, ngày thứ Hai Tuần Thánh đã có được
những biện pháp dàn xếp. Cũng trong thời gian này, Ambroise đã khám phá ra di
hài của hai thánh Gervais và Protais trong những hoàn cảnh hết sức lạ lùng. Vị
Giám Mục và đức tin Công Giáo đã chiến thắng.
Ambroise đã dự vào một cuộc tranh cãi khác giữa các Kitô
hữu, tuy gián tiếp hơn. Sự kiện xảy ra là, Priscilien, Giám Mục Avila, Tây Ban
Nha nổi danh vì chủ trương khổ chế cực đoan, mang màu sắc ngộ đạo của ông và
được rất nhiều người hâm mộ. Bị kết án tại Saragosse, ông trốn sáng xứ Gaule. Một
lần nữa ông bị kết án tại Bordeaux năm 384, mặc dầu đã có thời gian được
Gratien che chở, ông nại lên hoàng đế Maxime nhưng vẫn bị hành hình cùng với
sáu môn đệ. Bản án này bị Martin de Tours và Giáo Hoàng Sirice, nhưng nhất là
thánh Ambroise phản đối ; ngài tuyên bố tại Trèves, năm 386, là từ nay ngài từ
chối mọi quan hệ với các Giám Mục "đã
yêu cầu giết những người lạc giáo".
GOG, CHÍNH LÀ GOTH :
LẠC GIÁO, CHÍNH LÀ BỌN MAN DI.
Tôi không nên giữ đến ngài lâu hơn nữa,
thưa hoàng thượng, vì ngài đang lo chuyện chiến binh và đang chuẩn bị những
vòng nguyệt quế chiến thắng bọn man di. Hãy tiến lên, ngài hoàn toàn được che
chở bởi "miệng đức tin", và mang lấy ngọn giáo của Thần Khí. Hãy tiến
đến chiến thắng đã được hứa ban từ ngàn xưa và đã được các sấm ngôn của Chúa
tiên báo vì Ézéchiel, ngay trong thời của mình, đã tiên báo về cảnh bị tàn phá
của chúng ta và về các cuộc dấy binh của quân Goth. Ngài hẳn biết rõ lời này :
"Hỡi Con Người, vì điều đó, hãy nói tiên tri, và hãy nói với Gog : (...) Ngươi
sẽ tiến lên chống lại Israel Dân Ta ..." (Ez 38, 14 - 16). Gog chính là
Goth mà chúng ta đã thấy rút lui, kẻ mà trên hắn chúng ta đã được hứa ban chiến
thắng khi Thiên Chúa phán : "(...) Ngày đó, Ta sẽ ban cho Gog" nghĩa
là cho quân Goth một nơi danh tiếng trong Israel làm phần mộ (Ez 39, 10 - 12).
Tâu hoàng đế thánh thiện, điều đó chẳng có gì phải ngờ vực ; chúng ta là những
người đã phải chịu trừng phạt vì một lạc giáo ngoại lai, thì chúng ta cũng sẽ
nhận được sự đáp cứu của đức tin Công Giáo, một đức tin đang sống động nơi
ngài. Vì chưng nguyên do hiển nhiên khiến Thiên Chúa thịnh nộ thì đã được báo
trước cho chúng ta ; ở đâu lòng tin vào Thiên Chúa bị tan vỡ, ở đó lòng trung
thành với đế quốc Rôma cũng tan tành.
Sur la foi, à Gratien II, 16. 136 - 139
PL 16, 587B - 588B CSEL 18.8.104 1, 106, 27.
GIÁO DÂN XÉT XỬ GIÁM
MỤC TỪ BAO GIỜ.
Thánh Ambroise vừa trưng dẫn một sắc chỉ
của hoàng đế Valentinien I mà ngài tóm tắt : "Linh Mục là người xét xử
Linh Mục".
4. Tâu hoàng đế rất mực khoan dung, có
bao giờ ngài nghe nói : trong vấn đề đức tin, một Giám Mục lại bị giáo dân xét
xử ? Phải chăng chúng tôi đã bị hư hỏng vì lời xiểm nịnh đến độ quên đi quyền
hạn của chức Linh Mục và chính tôi lại muốn uỷ thác cho người khác điều mà
chính Chúa đã ban cho tôi ? Nếu vị Giám Mục phải đón nhận những bài học của
giáo dân thì hậu quả sẽ ra sao ? Người giáo dân sẽ lèo lái cuộc tranh luận và
vị Giám Mục chỉ còn việc lắng nghe : Giám Mục sẽ là học trò của giáo dân. Nhưng
chắc chắn rằng, nếu chúng ta tra cứu toàn bộ Sách Thánh hay những thời đã qua,
thì ai dám chối cãi điều này là, trong vấn đề đức tin, thông thường chính các
Giám Mục mới là người xét xử các hoàng đế có đạo chứ không phải hoàng đế xét xử
các Giám Mục.
5. Nhờ ơn Chúa, ngài sẽ đạt tới sự chín
chắn của tuổi già, ngài sẽ hiểu ra được việc một Giám Mục mà lại đi hiến các
quyền hạn của mình cho giáo dân thì còn ra gì. Thân phụ của ngài khi đã cao
niên, và với ơn Chúa, đã nói rằng "Xét xử việc giữa các Giám Mục, điều đó
chẳng thuộc quyền ta". Thế mà, thưa đức vua, bây giờ ngài lại nói :
"Chính ta phải xét xử". Thân phụ ngài, một người đã chịu Phép Rửa
trong Ðức Kitô, tự thấy mình không có khả năng mang lấy gánh nặng của một quyết
định như thế, còn đức vua, một người còn phải lãnh nhận Phép Rửa, thế mà ngài
lại giành lấy cho mình quyền xét xử về đức tin trong khi chưa biết đến bí Tích
của đức tin hay sao ?
13. Ambroise đâu có cao giá đến nỗi vì
mình mà lại đi hạ giá chức tư tế. Mạng sống của một con người phỏng có là gì so
với phẩm giá của tất cả các Giám Mục, là những vị đã khuyên tôi soạn bức thư
này. Các vị đó không muốn trong số những kẻ Auxence chọn lựa, lại có thể có một
kẻ ngoại đạo hay một tên Dothái, mà nếu như chúng tôi giao cho chúng quyền xét
xử Ðức Kitô thì hóa ra chúng tôi để chúng chiến thắng Ðức Kitô hay sao.
(Ambroise Ep. 21, PL 16, 1003B - 1005C = Ep 75 CSEL
82/10, 75 - 76
và 78 - 79. Trad. J.R.Palanque, dans M. Meslin et
J.R.Palanque,
le Christianisme antique, Paris 1967, p. 242 -
243).
MỘT BÀI GIẢNG BI HÙNG.
2. Hỡi anh em, sao anh em lại băn khoăn
xao xuyến ? Tự ý tôi, tôi sẽ không bao giờ rời bỏ anh em nhưng vì ép buộc, tôi
không thể cưỡng lại được. Tôi có thể chịu đau khổ, khóc ư, tôi có thể. Tôi có
thể kêu than chống lại quân đội, chống lại lính Goth. Nước mắt là vũ khí của
tôi, đó chính là sự chống cự của một người Linh Mục. Tôi phải hoặc có thể chống
cự như thế, không bằng cách nào khác. Nhưng chạy trốn và bỏ rơi Giáo Hội của
tôi thì không phải là điều tôi quen làm : Ðừng có ai nghĩ rằng nỗi sợ hãi một
sự trừng phạt nặng nề hơn đã khiến tôi hành động. Anh em đã quá rõ thói quen
của tôi, khi đứng trước các hoàng đế, tôi kính trọng chứ không nhượng bộ, sẵn
sàng đương đầu với hình khổ và chẳng sợ hãi gì những nhục hình họ dọn sẵn cho
tôi (...)
4. Quân lính tỏa ra, tiếng binh khí bao
vây nhà thờ không làm lòng tin của tôi rúng động nhưng lại khiến tâm trí tôi
day dứt : Khi giữ tôi lại, anh em lại chẳng chuốc lấy nguy hiểm cho tính mạng
mình sao ? Phần tôi, từ bây giờ tôi đã không còn biết đến sợ hãi, nhưng tôi lại
bắt đầu sợ nhiều hơn cho anh em. Tôi xin anh em, hãy để người Linh Mục của anh
em ra đi chiến đấu (...)
6. Hỡi anh em, tôi biết những thương
tích này, những thương tích mà chúng ta lãnh nhận vì Ðức Kitô, đấy không phải
là những vết thương : chúng không làm mất đi sự sống, nhưng là làm cho sự sống
được trường tồn.
23. Auxence bị đánh đuổi. Mercurius bị
trục xuất. Chỉ một quái vật với hai cái tên ...
24. Con người ấy, một kẻ đã đẫm máu đổ,
thấm máu loang sao còn dám nói với tôi về chuyện điều đình thương lượng ? (...)
33. Thử hỏi câu trả lời của chúng ta còn
thiếu khiêm hạ ở chỗ nào ? Nếu (hoàng đế) đòi thuế, chúng ta không từ chối. Tài
sản của Giáo Hội sẽ được dùng để trả thuế. Nếu hoàng đế đòi tàn sản, ông ấy có
quyền đòi ; chẳng ai trong chúng ta chống đối lại. Quyên góp nơi dân chúng có
thể đủ cho người nghèo (...) Tôi có nhiều ông chủ nhà băng : các ông chủ nhà
băng của tôi là những người nghèo của Chúa Kitô (...)
34. Người ta cũng thuật lại rằng tôi
đánh lừa dân chúng bằng việc hát các khúc Thánh Thi của tôi. Ðó là nỗi khổ mà
tôi không hề từ chối. Bài ca đó thật kỳ diệu và hiệu lực vô song. Thật vậy, có
gì hữu hiệu hơn lời tuyên xưng Ba Ngôi mà miệng lưỡi toàn dân xưng tụng mỗi
ngày ? Mọi người đua nhau chuyên cần tuyên xưng lòng tin : họ biết tôn vinh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần bằng những câu thơ. Và thế là họ, những
người chỉ có thể chỉ mới là môn đệ, đã trở nên những bậc thầy (...)
35. (...) "Chúng tôi đã trả cho
César điều thuộc về César và cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa".
Thuế là của César. Không ai chối điều đó. Nhà thờ là của Chúa. Nó không thể bị
đem bán cho César dưới bất cứ cách nào, vì đền thờ Thiên Chúa không thể lại
thuộc thẩm quyền César (...)
(Bài giảng chống Auxence, PL 16, 1008 - 1018 (Ep
21) = Ep 75a.
CSEL 82/10, 83 - 106. Thánh Ambroise cũng thuật lại
những biến cố
của tuần lễ đó trong bức thư gởi em gái ngài là
Marcelline Ep. 20 ;
PL 16, 994 - 1002 = Ep. 76, CSEL 82/10, 108 - 125).
ÐỐI DIỆN VỚI NGOẠI GIÁO.
Không chỉ những Kitô hữu phi chính thống mới gây ra vấn
đề. Dưới áp lực của các Giáo Hội, nhà nước dần dà xa lánh tôn giáo dân ngoại.
Gratien đã cắt bỏ những khoản trợ cấp dành cho việc tế lễ và những đặc quyền
của các tư tế Rôma. Ông đã từ khước tước hiệu Thượng Tế Tối Cao (Pontifex
Maximus). Năm 382, với lòng nhiệt thành của một người Polyeucte, ông cho cất
khỏi nghị viện Rôma bức tượng Thần Chiến Thắng, các nghị viên lập tức phản
kháng : đoàn đại biểu do Symmaque, một nhân vật đáng trọng và tiếng tăm dẫn đầu
đã không được tiếp ở Milan. Sau khi Gratien qua đời, vào năm 384 Symmaque cho
rằng tại nghị viện số nghị viên ngoại giáo vẫn chiếm đa số, nên ông đã thảo một
bức thỉnh nguyện thư đặc biệt nhân danh lòng khoan dung và tự do, yêu cầu đưa
bức tượng trở về. Thấy chính quyền sắp nhượng bộ, thánh Ambroise đã viết thư
trực tiếp cho hoàng đế Valentinien II : ngài không hiểu tại sao nhà vua lại ủng
hộ việc phượng tự của ngoại giáo, là một "Hoàng
đế Kitô hữu rất mực chính danh" thì nhà vua phải bảo vệ đức tin
nếu không muốn bị tuyệt thông. Dù xét thấy Kitô hữu đông hơn, vị Giám Mục không
đòi hỏi có biểu hiệu Ðức Kitô (emblème), cũng không xin trợ cấp ... mà chỉ tìm
cách làm cho ngoại giáo trên thực tế trở thành bất hợp pháp. Ngài đã thắng cuộc
và một vài năm sau Prudence đã phổ thơ của tranh luận này trong hai tập "Chống Symmaque" (Contre
Symmanque).
HAI QUYỀN LỰC.
Trong tất cả các sự việc trên, Ambroise luôn ở trong tư
thế đối diện với hoàng đế, lúc thì chống lại, lúc thì phục vụ nhà vua. Dù hoàn
toàn dấn thân phục vụ Giáo Hội, ngài không mất đi những khả năng của ơn gọi đầu
tiên, cũng như ý thức quốc gia. Ngài coi chức Giám Mục của mình như "công cụ", một sứ mạng nhằm phục
vụ đế quốc : Lời cầu nguyện và việc bảo vệ đức tin sẽ kéo lòng từ tâm của Chúa
xuống trên hoàng đế và trên dân tộc. Ngai Giám Mục làm sống động ý thức chính
trị của ngài. Với Gratien, Milan trở thành kinh đô và ông đã coi Giám Mục
Ambroise như một cố vấn về các vấn đề tôn giáo. Tới lượt Valentinien II cũng
đóng đô tại đó và mặc dầu các mối tương quan với giáo quyền sớm trở nên sóng
gió, hoàng đế vẫn cho vời vị Giám Mục đến, nhờ ngài xoa dịu sự phẫn nộ của quần
chúng trước việc nhà vua ban những ân huệ có lợi cho phe Arius, và hai lần nhờ
ngài thương thuyết với Maxime, kẻ tiếm quyền.
Và rồi, vào năm 388, Théodose đến Milan sau khi chiến
thắng Maxime, ông đã dần dần vãn hồi sự thống nhất của đế quốc và ước mơ sẽ làm
cho đạo lý chính thống ngự trị trên toàn bờ cõi. Phải chăng người ta sắp chứng
kiến Giáo Hội và nhà nước bắt tay nhau làm việc ? Ambroise năm 386, trước mặt
Valentinien II đã từng mạnh mẽ phân định quyền hạn đôi bên nhân cuộc tranh chấp
với phái Ariô mà triều đình muốn đứng ra làm trọng tài : "Trong vấn đề đức tin, tôi nhấn mạnh trong vấn
đề đức tin, thông thường chính các Giám Mục xét xử các hoàng đế có đạo, chứ
không phải các hoàng đế xét xử các Giám Mục". Cuối thư, ngài lặp
lại nguyên tắc : "Của César trả cho
César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa" và nói với "Hoàng đế, đứa con của Giáo Hội : khi gọi như
thế không phải gây thiệt hại mà làm ơn cho hoàng đế. Thực vậy, hoàng đế ở trong
Giáo Hội, chứ không ở trên Giáo Hội. Một hoàng đế tốt sẽ tìm cách giúp đỡ chứ
không làm xáo trộn Giáo Hội".
TÔI YÊU MẾN CON NGƯỜI NÀY.
Théodose có thể là người trợ tá đó. Trên thực tế, ông đã
đưa Giáo Hội Ðông phương trở về với giáo lý chính thống. Nhưng có điều là phải
nằm dưới quyền ông và tiến trình César-Giáo Hoàng đã khai mào. Ngược lại,
Ambroise đã có một ý tưởng rất cao về Giáo Hội, vì ngài là người theo Nicée
chặt chẽ và là chứng nhân về thần tính trọn hảo của Ðức Kitô, một khía cạnh mà
phái Arius thiếu nhạy bén. Ðàng khác, ngài thừa ý thức về phẩm giá của một
người Rôma, làm sao lại có thể quỵ luỵ nhà nước được, cho dù là nhà nước nắm
trong tay một người Kitô hữu. Bên ngoài những quan hệ bình thường, cơ hội đã
sớm xảy đến cho nhà vua thấy điều đó. Vào khoảng cuối năm 388, xảy ra việc Giám
Mục miền Callinicon bên bờ sống Euphrate cho phá hủy một hội đường của người
Dothái, Théodose đã ra lệnh cho vị này phải tái thiết hội đường đó bằng kinh
phí của Giáo Hội. Ðáp lại Ambroise từ chối cử hành thánh lễ trước sự hiện diện
của hoàng đế. Một năm sau, tại Thessalonica, một quan chức thành phố bị hạ sát,
Théodose đã trả đũa bằng một cuộc tàn sát đẫm máu, sau đó ông rút lại lệnh
nhưng đã quá muộn. Ambroise tố cáo tội ác công khai đó của vị hoàng đế Kitô
giáo, nhưng chỉ qua một bức thư với lời lẽ hết sức kiên quyết và rất tha thiết.
Kẻ phạm tội đã chấp nhận tám tháng đền tội và xưng thú tội mình trước mặt dân
chúng để được trở về với Giáo Hội vào dịp lễ Noel năm 390. Những mối quan hệ
với Théodose ngày càng đặt những người ngoại giáo và cả lạc giáo ra ngoài vòng
pháp luật. Hoàng đế băng hà năm 395. Vị Giám Mục đã có lời tán dương long trọng
và đầy tình thương mến : "Tôi yêu mến
con người này". Ngài ca tụng hoàng đế đặc biệt về các biện pháp
bất khoan dung. Sau đó, dưới triều của Honorius còn non trẻ, có tướng Stilicon
làm người giám hộ, thánh Ambroise dường như xa triều đình để lo cho dân của
ngài cũng như lo cắt đặt các Giám Mục. Ngài ngã bệnh khi đang dự một cuộc bầu
cử và mất năm 397.
Lược qua tiểu sử như thế có thể gây cảm tưởng rằng
Ambroise chủ yếu là con người chính trị. Quá khứ của ngài, sự gần gũi thường
ngày và uy tín lớn lao cũa ngài quả có khiến các hoàng đế phải kiêng nể. Nhưng
nếu cho rằng vai trò của ngài chỉ như thế thì thật sai lầm. Chính ngài từng nói
lên niềm mong ước được tự giới hạn vào trong "các
bổn phận thuộc về trách vụ của mình". Trên thực tế, các công vụ
của ngài không hề cản trở ngài gần gũi với giáo dân, ngài vẫn lo lắng dạy dỗ,
bảo vệ họ khỏi những sai lạc, không những bên trong mà còn vượt ra ngoài xa
ranh giới Giáo Phận mình. Các công việc ngài thực hiện cũng như các trước tác
của ngài đều minh chứng điều đó.
"TÔI KHÔNG DÁM
DÂNG HY LỄ (...) TÔI YÊU NGÀI, TÔI QUÍ MẾN NGÀI".
Sau khi nhắc lại "tình bạn êm dịu
ngày xưa" và khi đã nói nhiều về lòng đạo đức và sự hăng say quảng đại của
hoàng đế Théodose, thánh Ambroise đi vào vấn đề :
6. Trong thành Thesslonica đã xảy ra một
sự kiện có lẽ xưa nay chưa từng có, một sự kiện mà tôi đã không thể ngăn cản
xảy ra, hơn nữa đó cũng là điều mà biết bao lần tôi đã van xin ngài, nói trước
cho ngài biết tấtcả sự tàn bạo của nó, và chính ngài, khi thu hồi lệnh lúc đã
muộn, ngài cũng nhận ra mức trầm trọng của nó. Một sự kiện như thế tôi không
thể giảm nhẹ được (...) Không có chuyện tha tội cho hành động của ngài trong
cộng đoàn Ambroise.
7. Tâu hoàng đế, ngài lại hổ thẹn làm
điều mà Ðavít, vị Vua Tiên Tri và là tổ tiên theo xác thịt của dòng dõi Ðức
Kitô đã làm hay sao ? (...)
12. Tôi muốn thuyết phục ngài, muốn cầu
khẩn, khuyên lơn, báo trước. Thật là đau khổ cho tôi, khi mà ngài, người đã
từng là mẫu gương về lòng đạo đức chưa từng nghe nói, người đã đạt tới đỉnh cao
của lòng độ lượng, người đã không để những kẻ phạm tội phải chịu thử thách, lại
không hối tiếc về cái chết của ngần ấy người vô tội ...
13. Tôi không dám dâng lễ nếu có ngài
tham dự. Ðó là điều không được phép khi chúng ta làm đổ máu dù chỉ một người vô
tội, huống hồ là một số đông như thế bị đổ máu chẳng lẽ lại được phép sao ? Tôi
không dám nghĩ như thế.
14. Cuối cùng, tự tay tôi viết điều mà
sẽ chỉ mình ngài được đọc (...)
17. (...) Tôi yêu ngài, tôi quí mến
ngài, tôi hằng cầu nguyện cho ngài (...) Nguyện chúc ngài, cùng với các vương
tử thánh thiện của ngài, được vui hưởng bình an trường cửu, với tràn đầy hạnh
phúc và thành công, thưa hoàng đế oai nghiêm.
(Ep. 51, PL 16, 1159 - 1164B = Ep. 11, Extra coll.,
CSEL 82/10, 212 - 218.
Bức thư cảm động này hợp với sự bình dị trong trình
thuật của Paulin, Vie d'Ambroise, 24,
Những hoàn toàn khác với sự dàn dựng bi thảm của
Théodoret, Hist. Eccl. V, 17 - 18).
TÁC PHẨM CỦA THÁNH
AMBROISE.
I. CHÚ GIẢI.
Về Cựu Ước :
Chú giải về 12 Thánh
Vịnh của Ðavít :
Về Tân Ước.
II. LUÂN LÝ VÀ TU ÐỨC.
III. TÍN LÝ.
IV. GIẢNG THUYẾT.
V. THƯ TỪ.
VI. THƠ.
II. SỰ NGHIỆP TRƯỚC TÁC.
TỔNG QUAN : THẦN HỌC -
THÁNH THI - THƯ TÍN.
Trong khi thánh Augustine để lại hàng trăm bài giảng, thì
thật đáng ngạc nhiên khi ta thấy trong danh mục các bút tích của thánh Ambroise
chỉ có một bài giảng duy nhất, hơn nữa, đó lại gần như là một hành động : bài
giảng chống lại Auxence về việc nhượng lại các Vương Cung thánh đường. ngoài
ra, có thể kể thêm bốn bài điếu văn. Ðó là tất cả, xét theo bề ngoài. Tuy nhiên
trên thực tế, công trình trước tác của ngài hầu như hoàn toàn xuất phát hoặc
trực tiếp hoặc gián tiếp từ tác vụ Lời Chúa của ngài. Sáu bài giảng lễ, thường
rất được để ý, ẩn dưới cái tên "Về các
Bí Tích" được chuyển qua khá rõ trong khảo luận "Về các Mầu Nhiệm". Cũng thế,
các bài chú giải Kinh Thánh, ít là một phần, luôn luôn là kết quả của các bài
giảng thuyết. Các khảo luận, thường là ngắn, cũng chỉ là một hoặc nhiều bài
giáo huấn được soạn lại hoặc giữ nguyên. Ngay cả những tác phẩm lớn về tín lý,
được soạn do lời yêu cầu, người ta cũng thấy trong đó có những bài giảng được
ghép vào với ít nhiều vụng về. Thư từ của ngài cũng thế, có nhiều lá thư chỉ là
thuật lại các bài giảng của ngài. Sự kiện các bài giảng có mặt khắp nơi như
thế, ngoài việc chứng tỏ hoạt động mục vụ rộng lớn của vị Giám Mục, nó còn có
thể giải thích mức độ khiêm tốn của tư tưởng của ngài. Tất nhiên Ambroise không
có thiên tài như Augustine, nhưng có lẽ ngài cũng không hề có tham vọng thong
thả soạn thảo dù chỉ một tác phẩm thần học thực sự mang tính chất lý thuyết.
Tác phẩm tín lý của ngài chủ yếu qui về ba điểm chính :
Ðức tin, Chúa Thánh Thần và Mầu Nhiệm Nhập thể. Thần học của ngài theo sát Kinh
Thánh và đức tin Nicée. Ngài viết cho Valentinien về sự "ghê tởm" của ngài đối với
Thượng hội đồng Rimini "Tôi theo dịnh
thức của Công Ðồng Nicée, dù là gươm đao hay sự chết cũng không thể tách lìa
tôi khỏi định thức đó". Ngài khẳng định mạnh mẽ Ba Ngôi Vị là
một về bản thể (substance), ý chí (volonté) và hoạt động (opération), và đồng
thời nhấn mạnh về sự ngang bằng hoàn toàn giữa Chúa Cha và Chúa Con. Nhưng
thánh Ambroise hết sức tránh thứ "chất
độc" của "khoa lý
luận". Lập trường bài-Arius trong các tác phẩm của ngài phần
nào giải thích cho phản ứng này. Tuy nhiên không phải chỉ vì chống Arius, và
mặc dầu ngài vay mượn rất nhiều, mà thường chỉ là trích lại nguyên văn hoặc đổi
mới nội dung, nhưng ngài chỉ xem triết học Cổ Nhân như là một thứ học thuyết đã
quá thời, xa lạ và đối nghịch. Người Kitô hữu kín múc ở một nguồn suối khác và
theo một con đường khác. "Sự đơn sơ của
đức tin" đâu cần gì đến những thứ "ngụy biện" của các "triết gia".
Niềm tin Kitô giáo của Ambroise trong các bài thánh thi
lại càng dung dị hơn. Ngài không phải là người sáng tạo ra thể loại này ở Tây
phương. Thánh Hilaire đã từng cố gắng phổ thần học của mình vào các bài ca
phụng vụ và hiện chúng ta còn giữ được ba bài. Nhưng chính vị Giám Mục thành
Milan mới là người làm cho hình thức này trở thành bất hủ, đặc biệt là trong
cái đêm nổi tiếng mà ngài trải qua nơi ngôi "Nhà
thờ Cửa" (l'Église porcienne) bị bao vây. Thánh Augustine kể ra
bốn trong số các bài thánh thi này, và là những bài mà các giáo sĩ Latinh vẫn
còn lưu ký cho tới ngày nay : Aeterne rerum conditor, Deus creator omnium, I
Ambroise surgit hora tertia et Veni redemptor gentium. Các nhà nghiên cứu thông
thạo thì nhìn nhận từ 4 đến 14 bài thánh thi là của ngài, nhưng truyền thống
thì nhìn nhận con số lớn hơn nhiều. Các bài thơ này được soạn theo khổ bốn câu
và giữ đúng âm luật cổ điển. Một số bài gắn liền với các "giờ" thần vụ, một số khác soạn
cho các cử hành phụng vụ theo mùa, và có những bài dành cho các ngày lễ thánh
Tử Ðạo. Ðây là những bài thánh thi hết sức được ưa chuộng đến nỗi nói chung
người ta xem thánh Ambroise như người sáng tạo ra khoa Thánh Thi ở Tây phương.
Có lẽ ngài cũng là người du nhập vào Milan lối hát Thánh Vịnh luân phiên đối
đáp đã được khởi xướng tại Antioche. Cuối cùng, người được xem như là người bảo
vệ nền phụng vụ mang chính tên của ngài ; Nghi lễ Ambroise, một nền phụng vụ
phổ biến rộng rãi vượt ra ngoài biên giới Milan.
Thư của thánh Ambroise là một tài liệu lịch sử có giá trị
hàng đầu. Trước hết, nó cho chúng ta biết về chính cuộc đời ngài và bổ túc cho
tiểu sử mà Paulin de Milan đã biên soạn vào năm 422 theo yêu cầu của thánh
Augustin. Tập thư của ngài, bao gồm các thư gửi cho những vị đồng sự, gửi em
gái Marcelline, cả cho Ðức Thánh Cha và các hoàng đế nối tiếp nhau, thuật lại
các biến cố của Giáo Hội và đế quốc, các lạc giáo, những điều kiện của việc bầu
chọn Giám Mục ... Ngài cũng thường dùng thư để phê phán các tập tục của Giáo
Hội vùng Cisalpine [bên này dãy Alpes]. Qua các bức thư của ngài, chúng ta nhận
ra được tất cả đời sống tôn giáo trong tỉnh và nhất là thấy được uy tín của một
Giám Mục thời đó trước quyền đạo cũng như quyền đời.
Ngoài ra, các bức thư của ngài còn có một nội dung luân
llý hoặc tu đức, vì thế chúng rất giống với những khảo luận luân lý chính danh.
Các bài chú giải của ngài cũng thường mang nội dung như thế. Vả lại có những là
thư, những bài chú giải mở ra với đời sống thần bí. Chú giải, luân lý, linh đạo
đó là ba lãnh vực còn phải được minh định trong tác phẩm của ngài.
CHÚ GIẢI.
Công trình chú giải của Ambroise tập trung vào Cựu Ước.
Augustin khi còn là một thính giả trẻ tuổi, đã công nhận là mình thường tìm
thấy ở đó giải đáp cho những vấn đề khúc mắc. Về Tân Ước, người ta chỉ được
biết có một tác phẩm chú giải, và lại là tác phẩm duy nhất. Trong tác phẩm này,
bản văn Luca được nghiên cứu một cách có hệ thống, tương tự như nghiên cứu về
trình thuật sáng tạo, về 12 Thánh Vịnh và 22 đoạn của Thánh Vịnh 118. Thường
thường, bản văn mà Ambroise đưa ra chỉ là cái cớ, có lúc ngài chủ ý góp nhặt
những đoạn trích Kinh Thánh có chú giải thành một thứ văn tuyển xoay quanh một
chủ đề : sự chết, thế gian mau qua, hạnh phúc ... có lúc ngài lại gắn liền bản
văn ban đầu với một bản văn khác và dừng lại ở đó lâu hơn. Cuộc hạnh ngộ giữa
Isaac và Rebecca cuối cùng lại dẫn tới sách Diệu Ca. Rất thường khi nhân vật
chính của bản văn trở thành hiện thân của một nhân đức, bài chú giải trở thành
bài bàn về đức nhẫn nại, đức khiết tịnh hay việc ăn chay ... Việc mở rộng ý
nghĩa như thế tất nhiên đòi hỏi giải thích theo lối ẩn dụ. Thực vậy, Ambroise
thường vượt qua các sự kiện lịch sử, mặc dù không phủ nhận các sự kiện đó. Nơi
bốn cái giếng mà các đầy tớ của Isaac khơi lại (Kn 26, 15 - 24), ngài khám phá
ra ở đó, không phải là những chân lý trần gian, nhưng là những gì thuộc về linh
giới (spirituel), "chiều sâu của một
khoa học sâu thẳm", một khôn ngoan ba chiều kích dựa theo ba
phần của triết học cổ điển, nhưng vượt lên trên lý trí thuần túy : luân lý, vật
lý (hay siêu hình) và thần bí ; đây là lối phân chia mà ta gặp thấy tới mười
lăm lần trong tác phẩm của ngài. Chỗ khác, ngài nhận ra nơi các nhân vật, biến
cố của Cựu Ước những thực tại của cuộc đời Ðức Kitô. Nói về sóng đại hồng thủy
là những tiên trưng (types) của "chân
lý" : Ðức Giêsu, Máu của Ngài và dòng nước phép Rửa. Nghĩa ẩn
dụ và nghĩa tiên trưng quyện vào nhau trên con đường từng bước tìm kiếm Thiên
Chúa. Ðấng có những hố thẳm và đỉnh cao của ngài, trong khi chờ đợi được hưởng
kiến. Người ta thường nhấn mạnh đến những vay mượn trong công trình chú giải
của thánh Ambroise, Philon, Origène, Hippolyte, Eusèbe de Césarée, hilaire de
Poitires và cả Plotin. Thánh Jérome coi ngài là kẻ đạo văn. Nhưng dù thế nào đi
nữa, công trình chú giải của ngài không hề là một công trình mang tính chất
khoa học chuyên môn. Mà là một "Lectro
Divina", một lối đọc suy niệm dưới cái nhìn của Chúa : "Và này đây Thiên Chúa đi dạo trong vườn Ðịa
Ðàng khi tôi đọc Sách Thánh".
Nếu tác phẩm chú giải dễ dàng chuyển sang luân lý thì
ngược lại, nơi tác phẩm luân lý, đôi lúc người ta gặp thấy một lối chú giải hết
sức chặt chẽ, thay vì một lý thuyết về luân lý hay linh đạo. Chẳng hạn để
khuyến khích các trinh nữ sống đức tin, thánh Ambroise chú giải theo sát bản
văn của thánh Gioan về cuộc gặp gỡ giữa Maria Magdala và Ðức Giêsu Phục Sinh.
Trang chú giải thiêng liêng đáng chú ý này với những chú thích tinh vi, tế nhị,
gây cho ta ấn tượng về một hiện diện hết sức sống động của Thiên Chúa và dường
như Ngài không dựa vào bất cứ bậc thầy nào,.
Công trình chú giải của thánh Ambroise danh tiếng đến nỗi
một số tác phẩm hiện đại được đặt dưới sự bảo trợ của ngài, đặc biệt là các
sách chú giải thư Phaolô và một sưu tập 127 vấn đề được đặt dưới tên gọi "Ambroisiaster".
AUGUSTIN VÀ CÁC THÁNH
THI CỦA AMBROISE (Augustin vừa mới đến Milan).
Gần đây, Giáo Hội tại Milan đã tiếp nhận
một cách thực hành đem lại niềm an ủi và xây dựng tâm hồn, trong cách thực hành
này, mọi người hòa chung tiếng hát, hòa chung tâm hồn vào một bài ca với tất cả
niềm say sưa, sốt sắng. Một năm trước đây, hay hơn nữa, Justine, mẹ của vị
hoàng đế còn trẻ tuổi là Vanlentinien, bị phe Arius dụ dỗ và vì lạc giáo đó, đã
ra tay bách hại Giám Mục Ambroise của ngài. Ðám đông tín hữu đạo đức đã qua đêm
trong nhà thờ, sắn sàng cùng chết với Giám Mục của họ, tôi tớ của Chúa, còn mẹ
của con, nữ tỳ của Chúa cũng đã tham dự những đêm canh thức đó liên lỷ cầu nguyện
nhất là vì cảm kích tước lòng nhiệt thành của vị Giám Mục. Phần chúng con, dù
chưa cảm nhận được sức nóng của Thánh Thần Chúa, chúng con cũng cảm thấy nỗi
xúc động và sự kinh hoàng của Thành đô.
Lúc bấy giờ, để ngăn dân chúng khỏi mất
tinh thần vì quá lo âu xao xuyến, người ta quyết định cho họ hát lên các thánh
thi, thánh vịnh như đã được thực hiện bên Ðông phương. Sự canh tân này đã được
bảo tồn từ đó đến nay và đã được một số lớn các cộng đoàn tín hữu của Chúa ở
các nơi khác trên thế giới bắt chước thực hành.
Augustin, Confessions IX, 7, 15 C.U.F. 1926,
p. 220 - 221. Trad. P. de Labriolle.
LUÂN LÝ, SIÊU HÌNH (VẬT
LÝ) VÀ THẦN BÍ.
Cũng chính trong sách Diệu Ca, Salomon
diễn tả rõ ràng sự khôn ngoan ba chiều kích này, mặc dù trong sách Cách Ngôn,
ngài đã nói đến việc ai muốn nghe khôn ngoan của ngài thì phải chép lại ba lần
cho chính mình (cf. Cn 22, 20).
Trong sách Diệu Ca, hôn thê nói với hôn
phu : "Anh đẹp dường bao, người yêu của em ! Ðẹp trai biết mấy !"
Xanh um biết mấy giường của chúng mình. Xà nhà chúng mình là những hương nam,
trần là trắc diệp (1, 16 - 17). Chúng ta có thể hiểu đoạn văn này về luân lý
như sau : Chúa Kitô nằm nghỉ với Giáo Hội ở đâu nếu không phải là nơi các việc
làm của Dân Ngài ? Bởi chưng ở đâu có sự dâm dật, kiêu căng, bất công thì Ðức
Giêsu nói : "Con Người không có nơi tựa đầu" (Mt 8, 20).
Về siêu hình (vật lý), thì chúng ta học
được điều gì ? Nàng nói : "Dưới bóng cây, tôi những ước mong ngồi núp và
trái cây ngọt lịm nơi miệng tôi" (Dc 2, 3). Vì chưng kẻ đã siêu thoát những
điều phàm tục và đã chết đối với những sự thế gian - thế gian đã bị đóng đinh
cho kẻ ấy và kẻ ấy cho thế gian (Gal 6, 14) - người ấy khinh chê và xa lánh mọi
sự dưới ánh mặt trời.
Về thần bí, nàng nói : "Chàng hãy
đưa em vào hầm rượu, và hãy tỉnh thức tình yêu trong em" (Dc 2, 4). Vì
cũng như cây nho quấn lấy giàn nho, Chúa Giêsu như cây nho vĩnh cửu cũng ôm lấy
Dân của Người bằng cánh tay yêu thương.
(Sur Isaac et l'âme IV, 27 - 29 PL. 14, 512C - 513A
=
CSEL 32/1, pp. 659, 21 - 660, 16, Trad. G. Nauroy.
NGƯỜI ÐÀN BÀ TRỞ THÀNH
MARIA.
17. Chúa lấy lại lời các thiên thần,
Ngài nói :"Bà kia, tại sao bà khóc ? Bà tìm ai ?" (Yn 20, 15). Kẻ
không tin là người đàn bà. Vì chưng kẻ tin thì chỗi dậy để trở nên hoàn hảo,
đạt tới tầm vóc xứng với sự viên mãn của Ðức Kitô (Ep 4, 13). Ngài nói :
"Bà kia" lời khiển trách đó không nhằm vào phái tính nhưng nhằm đến
thái độ do dự. Người phụ nữ đang nghi ngờ đó quả đã là đàn bà, vì nếu còn là
trinh nữ thì người đó hẳn đã tin. "Tại sao bà khóc". Phải, chính bản
thân bà mới là điều đáng than khóc, chính bà mới là người chịu trách nhiệm về
những giọt nước mắt con mình, vì bà đã cứng lòng tin đối với Ðức Kitô. Bà khóc
vì không nhìn thấy Ðức Kitô : Hãy tin rồi bà sẽ nhìn thấy Ngài. Ðức Kitô hiện
diện ở đó, Ngài không bao giờ vắng bóng đối với những ai tìm kiếm Ngài.
"Tại sao bà khóc". Nếu như bà sống xứng đáng với Thiên Chúa, với dức
tin nồng cháy, thì có gì mà phải khóc ! Ðừng nghĩ đến những điều họ nói, bà sẽ
không phải khóc. Ðừng nghĩ đến những điều đã qua, bà sẽ không thể có lý do để
khóc. Nơi mà những người khác vui mừng hân hoan thì có gì để bà phải khóc đâu.
18. "Bà tìm ai", bà không thấy
Ðức Kitô đang ở đó sao ? Bà lại không thấy rằng Ðức Kitô là sức mạnh của Thiên
Chúa, Ðức Kitô là khôn ngoan của Thiên Chúa. Ðức Kitô là sự nguyên tuyền, Ðức
Kitô sinh bởi Ðức Trinh Nữ, Ðức Kitô xuất từ Chúa Cha, ở bên Chúa Cha và mãi
mãi ở trong Cha, được sinh ra chứ không phải được tạo thành, không bất xứng
những luôn được yêu thương, là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật hay sao ?
19. Bà nói : Họ đã đem Chúa tôi khỏi mộ
và tôi không biết họ để Ngài ở đâu (Yn 20, 13). Này bà, bà lầm rồi, bà nghĩ
người khác đã đem Ðức Kitô đi, mà không nghĩ rằng Ngài đã Phục Sinh bằng chính
sức mạnh của Ngài. Nhưng nào có ai lấy mất sức mạnh của Thiên Chúa, nào ai có
lấy mất khôn ngoan của Thiên Chúa, nào ai có lấy mất sự thánh khiết của Người.
Người ta không đem Ðức Kitô khỏi ngôi nhà của người công chính, cũng không đem
Ngài ra khỏi nơi ẩn thân của người trinh nữ, khỏi niềm sâu kín của một trái tim
đang yêu. Nếu ngẫu nhiên người ta muốn đem Ngài đi thì họ cũng không thể lấy
mất Ngài.
20. Bấy giờ Chúa nói với bà :
"Maria" (Yn 20, 16). Hãy nhìn Ta ! Khi chưa tin thì đó là một người
đàn bà, nhưng khi bắt đầu quay lại, bà được gọi là Maria, nghĩa là bà nhận lấy
tên người sinh ra Ðức Kitô. Thật vậy, bà là tâm hồn hạ sinh Ðức Kitô cách
thiêng liêng. Ngài nói : Hãy nhìn Ta. Ai nhìn Ðức Kitô thì tự sửa mình còn kẻ
không nhìn thấy Ðức Kitô thì ở trong lầm lạc.
21. Vậy, khi quay lại, bà đã nhìn và đã
nói : "Rabbi, nghĩa là lạy Thầy" (Yn 20, 16). Ai nhìn thì quay lại ;
ai quay lại thì thấy trọn vẹn hơn ; ai nhìn thấy thì tiến tới. Và như vậy, bà
gọi là Thầy, Ðấng bà tưởng đã chết : "Bà gọi tên Ðấng bà đã nghĩ là mất
rồi".
Sur la virginité IV, 17, 21 PL 16, 2700 - 2710.
LUÂN LÝ.
Nếu các tác phẩm được xếp vào loại chú giải của thánh
Ambroise chiếm phần lớn công trình của ngài, thì vị Giám Mục thành Milan chủ
yếu vẫn là một nhà luân lý. Trước hết ngài là tác giả của một khảo luận tổng
quát về luân lý thực hành nổi tiếng : "Bổn
phận các giáo sĩ", tác phẩm này mô phỏng theo tác phẩm "Về các bổn phận" của Cicéron.
Theo G. Madec "Ngài đã lấy lại hoặc đã
cải biên tựa đề, bố cục của ba cuốn sách, những cách khai triển, các đề tài,
khái niệm, và đôi khi những đề tài, khái niệm này được lấy y nguyên như trong
bản văn của Cicéron" và Ambroise đã chịu một ảnh hưởng "có thể (...) lớn lao hơn là ngài tưởng", tuy
nhiên Madec đồng thời cũng nhấn mạnh đến ý hướng độc lập của Ambroise và coi
những vay mượn của ngài thuộc về bình diện văn chương hơn là bình diện triết
học. Qua ba phần, sự trung thực (phần I), lợi ích (phần II), sự xung đột của
chúng (phần III), nhất là trong phần I, tác giả đề cập đặc biệt đến các nhân
đức quan trọng mà ngài gọi là các bản đức (vertus cardinalis) : đức khôn ngoan,
đức công bình kèm theo việc thiện và đức ôn hòa. Tuy nhiên Thánh Kinh đã thổi
một luồng sinh khí mới vào tác phẩm và tất cả đời sống luân lý đều được quy
hướng về sự sống vĩnh cửu. Bố cục của tác phẩm không được chặt chẽ, từ ngữ sử
dụng mơ hồ, nghi nghĩa, chưa thoát khỏi ảnh hưởng của Cicéron, tác giả vừa khai
thác, vừa bác bỏ tư tưởng cổ thời, tác phẩm này không phải là một tổng hợp giữa
Kitô giáo và thuyết Khắc Kỷ đang thịnh hành, cũng không phải là "khảo luận đầu tiên về luân lý Kitô giáo", mà
chỉ là một chuỗi những định nghĩa, những lời khuyên, và thường là những lời
khuyên có tính chất truyền thống, trước hết dành cho các giáo sĩ và đồng thời
cũng dành cho mọi tín hữu.
Ngoài ra, Ambroise càng thể hiện rõ con người mình qua rất
nhiều bài nghiên cứu, huấn dụ đặc biệt. Một phần thư từ của ngài nằm trong
trường hợp này. Trong các lá thư đó, ngài bàn với Simplicien về "tự do đích thực", bàn với bá
tước Studion về lòng nhân hậu Kitô giáo trong việc thực thi công bình, với Phó
Tế Irénée về sự thiện tối cao ... Cũng thế, trong rất nhiều bài chú giải, người
ta thấy ngài bàn đến đức nhẫn nại qua Jacob, đức khiết tịnh qua Juse, việc chay
tịnh qua Élie, lòng thống hối và sự tha thứ nơi những nhân vật vĩ đại qua Ðavít
...
Nếu muốn tìm chủ điểm mà Ambroise nhắm tới, thì có thể
nói, ngài nhấn mạnh đến lòng từ bi thương xót, xét về điều lành, và sự lạm dụng
của cải giàu sang, xét về điều xấu. Ngay trong những tập sách nhỏ và những bài
chú giải vừa kể, ngài cũng đã đề cập tới một số hình thức thể hiện lòng thương
xót. Trong khảo luận "Về Bí Tích Cáo
Giải" (Về sự tha tội), tác giả nhấn mạnh đến lòng xót thương
của Ðức Kitô đối nghịch lại với thái độ không khoan nhượng của bè Novatô. Ngài
cầu xin cho chính mình được "ơn biết
xót thương" mà ngài gọi là "nhân
đức tối hậu". Ngài mời gọi "gánh
lấy một cách nào đó sự hèn yếu của con người trên chính đôi vai mình thay vì
vứt bỏ nó". Ở đây, ngài ám chỉ đến "Con chiên mệt mỏi", một đề tài mà ở phần cuối bài
"Trình bày về Thánh Vịnh 118"
ngài đã bàn đến một cách thật tuyệt vời : "Xin
hãy đến, lạy Chúa Giêsu, xin đến tìm kiếm tôi tớ Ngài, tìm kiếm con chiên đã
mệt mõi của Ngài (...) Xin hãy đến mang ơn cứu độ cho trái đất và niềm vui cho
trời cao". Nơi khác, ngài nói : "Cánh tay Ðức Kitô là cánh tay Thập Giá".
Naboth là hiện thân của con người gánh chịu sự đối xử tàn
nhẫn và ích kỷ. Ông là cơ hội cho ngòi bút ngài viết lên những trang khốc liệt
chống lại sự tham tàn của những kẻ chiếm hữu của cải : "Có phải những dinh thự nguy nga của các người
khiến các người vênh mặt kiêu hãnh ? (...) Các người bao vách dát tường nhưng
lại lột trần con người (...) Viên đá quí lấp lánh trên ngón tay ngươi có thể
cứu sống cả một đoàn dân". Ambroise cũng tìm thấy nơi câu
chuyện Tobia cơ hội tố giác thói cho vay nặng lãi, tính hà tiện, biển lận, qua
những lời châm biếm của mình, ngài đề ra bài học luân lý về việc sử dụng của
cải trần thế, trong đó người ta dễ dàng nhận ra ảnh hưởng của các giáo phụ
Cappadoce. Nhưng có lẽ điểm mà ngài nhấn mạnh hơn các vị trong toàn bộ tác phẩm
của mình đó là : sự cộng hữu của cải lúc ban đầu (communauté des richesses).
Chủ đề này có thể phát xuất từ các bậc thầy Hylạp của ngài, xuất hiện trong "Chú giải về Sáu ngày Tạo Dựng" (Commentaire
sur l'Hexaéméron) và "Về Naboth", nhưng
những kiểu nói mạnh mẽ nhất lại nằm trong "Trình
bày về Thánh Vịnh 118" và trong "Bổn phận các giáo sĩ", một khảo luận có hệ thống,
gợi hứng từ Cicéron và đôi khi mượn lại nguyên văn.
"HÃY ÐẾN TÌM KIẾM
CHIÊN CỦA NGÀI"
28. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến tìm kiếm
tôi tớ Ngài, tìm con chiên đã mệt mỏi. Lạy Mục Tử, hãy đến tìm kiếm con như
Giuse tìm chiên của mình. Con chiên của Ngài đã lạc đường, trong lúc đó Ngài
lưu ngụ và sống trên các núi non. Xin hãy để lại đó chín mươi chín con chiên
khác và đến kiếm tìm con chiên duy nhất đi lạc bầy ... Xin đừng đến với roi
vọt, nhưng với tình yêu thương và lòng khoan thứ.
29. Xin đừng ngại để lại trên núi chín
mươi chín con chiên của Ngài, chúng chẳng lo gì lũ sói tham mồi đột nhập (...)
Xin hãy đến tìm con, vì con cũng đang tìm kiếm Ngài. Xin tìm con, gặp con, bắt
lấy con và mang con đi. Kẻ Ngài tìm, Ngài có thể gặp thấy. Xin dủ tình đón nhận
kẻ Ngài đã tìm thấy và mang nó trên vai. Gánh nặng đó là đức nghĩa và việc mang
con đi là do lòng Ngài chính trực, nào có gì là buồn chán vô vị đối với Ngài
(...) Những kẻ Ngài để lại phía sau chẳng vì đó mà buồn ; đúng hơn, họ sẽ tạ ơn
Ngài vì sự trở về của người tội lỗi. Xin hãy đến mang ơn cứu độ cho trái đất và
niềm vui cho trời cao.
30. Xin hãy đến tìm kiếm con chiên của
Ngài, không phải qua trung gian của người đầy tớ hay kẻ làm thuê, nhưng là đích
thân Ngài. Xin hãy nhận lấy con trong xác thịt vốn đã sa ngã nơi Ađam ; xin hãy
nhận lấy con, kẻ không thuộc dòng dõi Sara, nhưng thuộc dòng dõi Maria, Ðức
Trinh Nữ bất hoại, không hề nhiễm vương vết nhơ tội lỗi, nhờ ân sủng. Xin hãy
mang con trên Thánh Giá Ngài, là ơn cứu độc ho kẻ lầm lạc, chốn nghỉ ngơi cho
người mệt mỏi và là nguyên lý sự sống duy nhất cho người đã chết.
Exposé du Phục Sinh 118, semon 22, Trad. D. GORCE.
TRÁI ÐẤT DÀNH CHO MỌI
NGƯỜI.
Thiên nhiên sinh sôi mọi sự cho mọi
người chung hưởng. Quả vậy, Thiên Chúa đã sắp đặt để mọi sự được sinh sản sao
cho tất cả mọi người cùng được hưởng dùng và vì thế có thể coi trái đất như tài
sản chung của mọi người. Như vậy, thiên nhiên đã sinh ra quyền lợi chung còn
việc sử dụng (usurpatio) làm nên quyền lợi riêng. Mà, về điểm này các triết gia
có nói "các nhà khắc kỷ nghĩ rằng, tất cả sản vật của trái đất đều được
tạo nên vì nhu cầu của con người, còn con người được sinh ra là vì con người,
ngõ hầu chính họ có thể phục vụ lẫn nhau" (Cicéron, Des devoirs, I, 7,
22).
Ambroise, Sur le devoirs des clers 1, 28, 132,
C.U.F., 1984, p. 158, Trad. M. Testard.
Thiên Chúa, Chúa chúng ta đã muốn trái
đất này là sở hữu chung của mọi người và hoa trái của nó là dành cho họ tất cả.
Thế nhưng, lòng tham đã phân chia ra các quyền sở hữu, hay đúng hơn, dành cho
mọi sinh vật, đó là đòi hỏi chính đáng nếu như ngươi biết chia sẻ ít ra là một
điều gì đó cho những người nghèo và đối với những người mà ngươi có bổn phận
chia sẻ quyền lợi của ngươi, ngươi không từ chối cho họ của ăn.
Exposé du Ps 118, VIII 22, PL 15, 1303C - 1304A
= CSEL 62/5, p. 163, 23 - 164, 3.
Thiên nhiên không hề khiếm khuyết ; nó
ban cho của ăn chứ không đưa ra các thói hư tật xấu. Thiên nhiên trao quà tặng
chung cho tất cả, để ngươi không đòi một số điều nào đó như của riêng mình.
Mọi sự được ban cho mọi người làm của
chung.
Sur l'Hexaéméron V 1, 2 et VI 8, 52 PL 14, 206C et
263B = CSEL 32/1, p. 141, 16 - 18 et 244, 2 - 3.
Trái đất được tạo lập là chung cho mọi
người, giàu cũng như nghèo : tại sao các ngươi, hỡi những kẻ giàu có, các ngươi
lại chiếm quyền sở hữu riêng cho các ngươi ? Thiên nhiên không biết đến kẻ
giàu, người mẹ thiên nhiên sinh chúng ta ra tất cả đều là kẻ nghèo.
(Sur Naboth I, 2, PL 14, 731C trong A.G. Hamman,
Riches
et pauvres ..., p. 220, bản dịch Fr.
Quéré-Jaulmes).
Thế giới được dựng nên cho tất cả mọi
người, thế mà các ngươi, một thiểu số các kẻ giàu có, các ngươi lại cố giành
lấy cho riêng các ngươi.
(Sur Naboth III, 11, PL 14, 734B, ibid., p. 224).
Chẳng phải ngươi phân phát của cải ngươi
cho người nghèo đâu, ngươi chỉ trả lại cho họ của cải của họ thôi. Vì chỉ có
ngươi chiếm đoạt điều được ban cho mọi người, cùng hưởng dùng. Trái đất thuộc
về mọi người, chứ không phải thuộc về kẻ giàu.
(Sur Naboth XII, 53, PL 14, 747, ibid., p. 252 -
Bnả văn này
được thông điệp "Sự phát triển các dân
tộc" số 23 trích dẫn).
CHÚA KITÔ LÀ TẤT CẢ CHO
CHÚNG TA.
Chúng ta có tất cả trong Chúa Kitô. Mọi
tâm hồn hãy đến với Ngài, dù đó là tâm hồn yếu đau vì tội lỗi xác thịt, dù bị
đâm thâu vì đinh sắt của dục vọng trần tục, dù còn bất toàn, miễn là tâm hồn đó
đang tiến tới trong suy niệm bền bỉ, hay dù là tâm hồn đã hoàn thiện với bao
nhiêu nhân đức : Bất cứ mọi tâm hồn nào cũng đều nằm trong quyền năng của Ðức Kitô,
và Ðức Kitô là tất cả cho chúng ta. Nếu bạn muốn được chữa lành thương tích thì
Ngài là thầy thuốc, nếu bạn bị cơn sốt nấu nung thì Ngài là dòng suối, nếu bạn
phải gánh chịu bất công thì Ngài là công lý, nếu bạn cầu cứu giúp thì Ngài là
sức mạnh, nếu bạn sợ hãi sự chết thì Ngài là sự sống, nếu bạn khao khát trời
cao thì Ngài là con đường, nếu bạn chạy trốn bóng tối thì Ngài là ánh sáng, nếu
bạn tìm kiếm của ăn thì Ngài là lương thực. "Hãy nếm thử và hãy nhìn coi,
Chúa thiện hảo dường bao ; hạnh phúc người hy vọng ở nơi Ngài" (Tv 34, 9).
(Sur la Virginité, XVI, 99, PL 16, 2910. Bản dịch
của L. Bouyer, La
spiritualité du Nouveau Testament et des pères,
Paris 1960, pp. 545 - 546).
NGƯỜI TRINH NỮ PHONG
NHIÊU NƠI GIÁO HỘI.
Giáo Hội vẫn nguyên tuyền trong sự kết
hợp, phong nhiêu trong sinh hạ, là trinh nữ trong sự khiết trinh, là người mẹ
nơi con cái mình. Giáo Hội hạ sinh chúng ta mà vẫn trinh nguyên, vì đã thụ thai
không do nam nhân, nhưng bởi Thánh Thần. Giáo Hội trinh khiết hạ sinh chúng ta
không phải trong đau đớn của chi thể mình nhưng là trong niềm vui của các thiên
thần. Giáo Hội trinh khiết nuôi dưỡng chúng ta không bằng sữa xác thịt nhưng
bằng sữa (giáo huấn), thứ sữa đã dưỡng nuôi tuổi thơ bé bỏng của Dân (Thiên
Chúa) mà thánh Tông Ðồ đã nói đến (1C 3, 2). Có người vợ nào đông đúc đàn con
hơn Mẹ Hội Thánh, người mẹ trinh khiết nơi các Bí Tích, là mẹ nơi dân con của
mình, và Thánh Kinh cũng đã chứng thực sự phong nhiêu khi nói : "Ðông đảo
thay con của người cô quạnh, gấp mấy đàn con của người đã kết hôn" (Is 54,
1). Người nữ không có chồng (trần gian) nhưng có vị hôn phu (Thiên Quốc) đó,
thuộc về chúng ta, và đó chính là Giáo Hội cho mọi dân tộc và là linh hồn cho
mỗi người, nàng kết hợp với vị Hôn Phu vĩnh cửu, thật phong nhiêu trên bình
diện tâm linh, mà vẫn trinh khiết vẹn tuyền, vô phương trách cứ.
Sur les vierges 1, 6, 31, PL 16, 197CD.
Trad. L. Bouyer, ibid., p. 544 - 545.
LINH ÐẠO.
Có rất ít bản văn trong đó Ambroise đi vào thứ triết lý
lạnh lùng. Dù sử dụng thể văn nào, tâm hồn say mến Ngôi Lời của ngài cũng hiện
rõ trên từng trang sách. Con người hoạt động của ngài là một con người tâm
linh, tự thấy mình có bổn phận phải chia sẻ niềm say mê nhiệt thành : Ðức Kitô
phải "sống trong tôi và nói lên trong
tôi" - đó là lời của Ambroise khi chú giải thánh Luca. Bảy bức
thư của ngài gửi Horontianus thực sự là một giáo trình về linh đạo. Ngài yêu
cầu các môn đệ hãy biết sống hiện diện liên lỉ trước nhan Chúa : "Kẻ tìm kiếm ơn cứu độ của Thiên Chúa thì suy
gẫm ngày đêm", "Hãy suy gẫm luôn luôn, hãy luôn tụng niệm những điều
thuộc về Chúa (...) Hãy thầm nhủ với mình (...) Hãy tụng niệm lúc đi đường
(...) Hãy tụng niệm trong giấc ngủ của ngươi". Ngài đặt Ðức
Kitô, Ðấng "là tất cả cho chúng
ta" vào tâm điểm của đời sống. Sự trọn lành được thể hiện nơi
các trinh nữ, và ngài đã viết tới bốn khảo luận dành cho bậc sống này. Ngài nêu
ra cho họ một khuôn mẫu là Ðức Trinh Nữ Maria "hình
ảnh của đức trinh khiết và lý tưởng của nhân đức". Ngài cho họ
tham dự vào sự phong nhiêu phổ quát của Giáo Hội, Hiền Thê Ðức Kitô, "trinh nữ trong các Bí Tích và là mẹ nơi dân con
của mình". Nhưng, cũng như các trinh nữ, mọi Kitô hữu đều được
mời gọi sống kinh nghiệm thần bí trong Ðức Kitô. Tác phẩm "Về Isaac và linh hồn" là bước
đường tự thanh luyện khỏi mọi khoái lạc xác thịt của linh hồn con người để kết
hợp với Rebecca, tức là sự khôn ngoan. Ngược lại, Rebecca cũng là hiện thân của
linh hồn hay Giáo Hội. Nàng là hình ảnh của Cựu Ước nhìn thấy Isaac, tức là Ðức
Kitô, đến với mình. Trong tác phẩm "Trình
bày Thánh Vịnh 118", ngài mô tả rất thi vị các biến cố xảy ra
trong cuộc sống Ngôi Lời như những bước nhảy của vị Hôn phu đến với Giáo Hội.
Như linh dương trong sách Diệu Ca, "Người
nhảy qua núi băng qua đồi" và đồi núi ở đây là Isaia, Giêrêmia,
Phêrô, Giacôbê và Gioan. Nhưng, ngài thêm "nếu
ngươi không là một đồi ... thì ít ra ngươi hãy là một thung lũng để Ðức Kitô
bước lên trên ngươi". Sau khi "nói
về Ðức Kitô và Giáo Hội" ngài chuyển qua "linh hồn và Ngôi Lời", ngài nói
đến niềm chăm chú đợi trông, trong đó "Ngôi
Lời không còn vắng bóng, nhưng trở nên hiện diện trong tâm hồn chúng ta". Như
ta thấy, thánh Ambroise luôn luôn nối kết sự kết hiệp của Giáo Hội với Ðức
Kitô. Sự kết hiệp này được thực hiện trong sự kết hiệp kia. Ngài nhấn mạnh đến
việc cầu nguyện trong Giáo Hội, mời gọi lãnh nhận mỗi ngày "lương thực hằng ngày", tức là
Mình Thánh Chúa Kitô : "Hãy lãnh nhận
mỗi ngày điều sinh ích cho ngươi mỗi ngày ... ai không xứng đáng lãnh nhận Mình
Thánh Chúa mỗi ngày thì cũng không xứng đáng lãnh nhận lúc cuối năm". Cần
phải làm cho biến cố Phục Sinh trở thành biến cố hiện tại của mỗi ngày sống,
chính nhờ đó mà Giáo Hội được tiếp tục xây dựng, Giáo Hội và Evà thần bí xuất
từ Ađam Mới, và một ngày kia sẽ "được
đưa lên trời".
Suốt cuộc đời, Ambroise vẫn là một quan chức Rôma. Là
người yêu nước nhiệt thành, ngài trình bày cho đế quốc, vốn đang từ bỏ các thần
minh truyền thống, một Kitô giáo hết sức truyền thống như là quốc giáo, đối
diện với những kẻ xâm lăng lạc đạo. Là bậc vị vọng, quen thân với các hoàng đế,
nhưng không hề là một Giám Mục xum xoe xu nịnh, ngài dám đương đầu với họ khi
cần, với tất cả ý thức về phẩm cách của mình, và đã hơn một lần buộc họ phải
chấp nhận quan điểm của Ngài, tất nhiên là trong tư thế của một nhà thần học và
trong sự tôn trọng nhân vị của họ. Ðôi lúc ngài lấy làm vui mừng hoặc sử dụng
quyền của họ tuy có phần thiếu khoan dung, nhằm tạo thuận lợi cho giáo lý chính
thống, thế những ngài đã đoán ra và tố giác mối nguy hiễm về sự lẫn lộn giữa
các quyền bính. Tuy rất cương quyết tước những sai lầm, bất công hoặc sự đe
dọa, ngài lại tỏ ra mẫn cảm với các hoàng đế nhỏ tuổi, Gratien hay Valentinien
II, hoặc ngay cả đối với Théodose vĩ đại : "Tôi
yêu mến con người này". Thư từ trao đổi của ngài với em gái là
Marcelline rất thắm tình anh em, và ngài cũng đã có lời ca tụng chứa chan trìu
mến đối với Satynus, em trai của ngài, người đã từ chối việc hành chính để lo
điều hành Tòa Giám Mục của ngài ; và đối với người nghèo, Ambroise, nhà quí
tộc, đã chẳng thực hiện một cuộc cách mạng xã hội để trở thành người yêu thương
kẻ nghèo và đứng về phía người thấp cổ bé miệng đó sao ? Với một lòng khiêm hạ
thật cảm động, ngài luôn xưng mình là một tội nhân giữa các tội nhân. Thánh
Augustin đã chứng thực về lòng hảo tâm của ngài, "người của Thiên Chúa", đã đón tiếp thánh nhân với
"đức ái của một vị Giám Mục", thánh
Augustin viết : "Tôi thật yêu mến
ngài". Ai lại không yêu mến một con người như thế ?
Augustin, khi còn là dự tòng, cũng đã bị lôi cuốn trước
tài hùng biện của nhà giảng thuyết và bởi lối chú giải Cựu Ước theo nghĩa thiêng
của ngài. Sự tinh tế của tâm hồn, của đức tin và nét sắc sảo của ngòi bút đã
khiến ngài viết nên những trang diễm tuyệt, xứng đáng được đưa vào những tập
văn tuyển ưu hạng. Người ta hẳn có thể nhấn mạnh rằng những gì hay nhất trong
học thuyết của ngài, và đôi khi ngay cả trong cách diễn tả là do ngài vay mượn
nơi các vị tiền bối, nơi những người đồng thời với ngài, mà quả thực, ngài có
vay mượn của họ rất nhiều, thế nhưng, nếu ngài là một độc giả ngoan ngoãn của
các đồng sự, những người đã giúp ngài diễn đạt niềm tin của Giáo Hội, thì ngài
vẫn luôn chứng tỏ một sự độc lập mang tính phê bình đối với các tác giả gợi
hứng cho ngài. Plotin và nhất là Philon và Cicéron không phải là nguồn gợi hứng
cho bằng là những đối mẫu mà dường như ngài cần đến để trình bày và khai triển
tư tưởng riêng của mình. Dù thế nào đi nữa, qua sự khai mở của ngài đối với các
tác giả Hylạp, ngài đã có công giúp Tây phương hiểu được Ðông phương, một cách
hấp dẫn hơn nhiều với các nhà dịch thuật.
Trong trang sách rất hay, kết thúc bài chú giải về công
trình Tạo Dựng (Sáu ngày), Ambroise giải thích lý do Thiên Chúa nghỉ ngơi : "Ngài đã sáng tạo con người trong sự hoàn hảo
của nó". Chắc chắn Thiên Chúa đã nghỉ ngơi khi Ambroise mở mắt.
NHỮNG BÍ ẨN CỦA KINH
NGHIỆM THẦN BÍ.
Nơi những lời này, linh hồn kín múc lấy
niềm ngất ngây say về các mầu nhiệm Thiên Quốc, và như thể được ru êm bởi rượu
nồng và như được đưa vào một trạng thái xuất thần, chất ngất, nàng (linh hồn)
nói : "Tôi đang ngủ mà lòng vẫn thức (Diệu Ca 5, 2). Bấy giờ, trong lúc nàng
đã thiếp mắt nghỉ ngơi, ánh sáng của Ngôi Lời hiện diện làm nàng sực tỉnh, Ngôi
Lời làm nàng thức giấc (...). đã tới lần thứ bốn, Ngài lay tỉnh nàng khỏi giấc
điệp trong khi lòng nàng vẫn thức, vẫn hằng nghe thấy tiếng người gõ cửa.
Nhưng, vì phải mất một chút thời gian để chỗi dậy không thể nào bắt kịp bước
chân nhanh của Ngôi Lời, khi nàng mở cửa thì Ngôi Lời đã đi qua. Và kìa, nàng
bước ra theo lời Ngài, để tìm kiếm Ngài mà lòng đầy thương tích. Những thương
tích của tình yêu. Cuoối cùng, vất vả lắm nàng mới tìm thấy Ngôi Lời, giữ chặt
lấy Ngài, để từ nay nàng không còn để mất Ngài nữa.
Sur Isaac et l'âme VI, 50 PL 14, 519C - 520A
= CSEL 32/1, 673, 21 - 675, 1.
BƯỚC NHẢY CỦA VỊ HÔN
PHU ÐẾN VỚI GIÁO HỘI VÀ ÐẾN VỚI LINH HỒN.
6. "Kìa, chàng đến như loài linh
dương" ... lời của sách Diệu Ca. Ngài nhảy qua núi, băng qua đồi để đến
cùng hiền thê ... Ngài nhảy trên Ađam ; Ngài băng qua trên Hội Thánh, Ngài nhảy
trên các dân nước, Ngài băng qua trên các thẩm phán. Hãy nhìn xem các bước nhảy
của Ngài : Ngài nhảy từ trời cao đến trong cung lòng Ðức Trinh Nữ, từ cung lòng
Trinh Nữ đến trong hang đá, từ hang đá đến sông Jourdain, từ Jourdain đến cây
Thập Giá, từ Thập Giá đến ngôi mộ, từ ngôi mộ đến trời cao ... Giờ đây Ngài vẫn
còn nhảy, giờ đây Ngài vẫn còn chạy từ trái tim Cha đến trên các thánh, từ Ðông
sang Tây, từ phương Bắc tới phương Nam.
7. (...) Thiên Chúa là Chúa của núi đồi,
không phải của lũng sâu, Ngài nhảy tới đâu ? "Trên các núi non". Nếu
ngươi là ngọn núi, Ngài sẽ nhảy trên ngươi. Ngài nhảy trên Isaia, trên Jérémia,
phêrô, Gioan, Giacôbê. "Tư bề có núi bao quanh Ngài" (Tv 124, 2). Nếu
ngươi không thể là ngọn núi, không có đủ bề rộng, thì ít nhất ngươi hãy là một
thung lũng để Ðức Kitô bước lên trên ngươi, và nếu Ngài đến để băng qua thì
ngươi cũng được ẩn dưới bóng của Ngài khi Ngài đi qua.
8. Chúng ta đã nói về Ðức Kitô và về
Giáo Hội. Giờ đây chúng ta nói đến linh hồn và Ngôi Lời. Nếu linh hồn ao ước,
khát khao, nếu linh hồn cầu nguyện và cầu nguyện cần mẫn, không ngơi, thì bất
thần, linh hồn như nghe thấy tiếng của Ðấng mà mình không nhìn thấy ...
9. Lại không phải rằng, khi chúng ta gặp
một điểm nào đó trong Thánh Kinh mà không thể tìm ra lời giải thích, khi chúng
ta hoài nghi, thì đột nhiên, chúng ta như nhìn thấy Ngài bước lên trên những
giáo huấn cao siêu nhất, như thể bước trên những ngọn núi, rồi chúng ta lại
thấy Ngài như đang bước trên những ngọn đồi, chiếu soi tâm trí chúng ta, hầu
như mang vào tận trong miền sâu thẳm của ý thức chúng ta những điều mà chúng ta
cảm thấy khó có thể đạt tới. Từ đó, Ngôi lời từ chỗ vắng bóng đã trở nên hiện
diện nơi tâm hồn chúng ta.
Exposé du Ps 118, Sermon 6, PL 15,
1269C - 1270C, Trad. D. Gorce.
TỪ EVÀ XÁC THỊT ÐẾN EVÀ
MỚI.
86. (...) Mẹ của chúng sinh, đó là Giáo
Hội mà Thiên Chúa đã xây dựng, với viên đá đỉnh góc chính là Ðức Kitô Giêsu,
trong Ngài tất cả tòa nhà mộng khớp ăn nhau, vươn thành ngôi Thánh Ðiện (Ep 2,
20).
87. Xin Chúa hãy đến, xin Ngài xây dựng
người phụ nữ : người phụ nữ kia như trợ tá cho Ađam, người phụ nữ này cho Ðức
Kitô ; không phải Ðức Kitô đòi một người phụ tá, nhưng là vì chính chúng ta
mong muốn và chúng ta đang tìm cách đạt tới ân sủng của Ðức Kitô nhờ Giáo Hội.
Hiện nay bà đang còn hình thành, hiện nay bà đang còn được nắn đúc, hiện nay bà
còn đang được tạo dựng.
(...) Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin hãy
đến, xin kiến tạo người phụ nữ ấy, kiến tạo thành đô. Xin Người Tôi Trung của
Ngài cũng hãy đến, vì con tin vào lời Ngài : "Chính nó sẽ xây lại Thành
của Ta" (Is 45, 13).
88. Này là Người Nữ, Mẹ của chúng nhân,
này là Ðền Thiêng, này là Thành Ðô vĩnh hằng, bởi Bà sẽ không thể chết : chính
Bà là Thành Thánh Giêrusalem mà bây giờ chúng ta nhìn thấy nơi trần thế những
rồi đây sẽ được cất lên cao, trên cả Elia.
Exposé de l'Évanggile selon Luc II, 86 - 88, SC
no. 45bis, p. 113 - 114, Trad. G.
Tissot.
LÒNG KHIÊM HẠ CỦA MỘT
GIÁM MỤC.
67. Ôi Giêsu, xin Chúa cho con được rửa
đôi chân Chúa, đôi chân đã vấy bẩn khi Chúa bước đi trong con ! Xin Chúa hãy
đưa những vết nhơ trên đôi chân Chúa để con rửa sạch những vết nhơ mà con đã
vấy lên bước chân Ngài do lối sống của con. Nhưng, con biết tìm đâu ra nước
hằng sống để có thể rửa chân Chúa ? Nếu không có nước thì con đã có dòng lệ.
Ước gì khi lấy nước mắt mà rửa chân Chúa, chính con cũng được nên tinh trong !
Làm thế nào để Chúa nói về con : "Tội lỗi của nó rất nhiều nhưng đã được
tha thứ vì nó đã yêu mến nhiều". Con nhìn nhận rằng tội của con lớn lao
hơn thế nhưng con đã được tha thứ gấp bội, con, một kẻ đã giựt thoát khỏi tiếng
ồn ào cãi cọ nơi nghị trường, khỏi những trách nhiệm đáng sợ của việc hành
chính, để rồi được gọi vào chức Linh Mục. Chính vì thế, con sợ mình bị coi như
kẻ vô ơn bạc nghĩa nếu con yêu mến ít trong khi con đã được tha thứ nhiều hơn
(...).
71. Lạy Chúa Giêsu xin đoái thương đến
với ngôi mộ là con đây. Xin hãy thương rửa con bằng chính nước mắt của Ngài, vì
trong đôi mắt khô cạn của con, con không tìm đủ nước mắt để có thể rửa đi lầm
lỗi. Nếu Chúa khóc cho con, con sẽ được cứu. Nếu con xứng đáng với nước mắt của
Ngài, con sẽ tẩy trừ được mùi uế nhơ do mọi tội lỗi con. Nếu con xứng đáng được
Ngài khóc cho con dẫu là một chút, Ngài sẽ gọi con ra khỏi ngôi mộ thân xác này
và Ngài sẽ nói : "Hãy bước ra !" (...)
73. Lạy Chúa, xin hãy trông coi món quà
của Ngài, hãy canh chừng tặng phẩm Ngài đã ban cho con dù con phản kháng ! Con
biết con không xứng đáng được gọi đến chức Giám Mục vì con đã trao thân cho thế
gian này. Con được như hôm nay chính là nhờ ân sủng Chúa. Chắc chắn rằng, trong
tất cả các Giám Mục, con là kẻ bé mọn nhất và ít công trạng nhất. Nhưng bởi vì
cả con nữa, con cũng đã làm một điều gì đó cho Giáo Hội thánh thiện của Chúa,
nên con xin Chúa hãy săn sóc hoa quả của công việc đó. Kẻo mà Chúa đã gọi lên
chức Linh Mục khi đã hư mất thì giờ đây xin Chúa đừng để hư mất đi khi đã là
Linh Mục.
Và trên hết mọi sự, xin hãy cho chúng
con biết chia sẻ tận đáy lòng nỗi ưu sầu của những người phạm tội. Ðó là nhân
đức tối cao vì có lời viết : "Ngươi sẽ không vui mừng trên con cái Juđa
vào ngày chúng bị tàn phá và ngươi sẽ không diễn thuyết dài dòng trong ngày
chúng bị khốn quẫn". Mỗi khi nghe đến tội lỗi của ai đó bị sa ngã, trước
gì trước hết con biết chạnh thương, thay vì lên mặt kiêu căng, tuôn lời thóa
mạ, chớ gì con biết than khóc, than khóc cho người khác mà cũng là than khóc
cho chính mình và thốt lên : "Thamar công chính hơn tôi".
Sur laPénitence II 8, 67 - 73 SC no.
179,
p. 177 - 181, Trad. R. Gryson.
SỰ NGHỈ NGƠI CỦA THIÊN
CHÚA NƠI CON NGƯỜI.
Ðến đây, phần trình bày của chúng tôi
kết thúc, vì ngày thứ Sáu đã hoàn tất và toàn thể thế giới đã hoàn thành, tôi
muốn nói đến con người trong sự hoàn hảo của nó. Nơi con người có nguyên lý của
mọi vật sống động và một cách nào đó, có toàn thể vũ trụ và tất cả vẻ đẹp của
tạo vật trong thế giới. Chúng ta hãy lặng thinh vì Thiên Chúa đã nghỉ ngơi khỏi
mọi công việc của thế giới này.
Ngài đã nghỉ ngơi trong nơi ẩn náu của
trái tim con người. Ngài nghỉ ngơi nơi tinh thần và tư tưởng con người. Quả
vậy, Ngài đã tác tạo một con người có khả năng suy tư, một kẻ bắt chước Ngài,
ganh đua với các nhân đức của Ngài, và thèm khát các Thiên Ân. Thiên Chúa nghỉ
ngơi nơi con người, Ngài nói : "Ta sẽ nghỉ ngơi nơi ai, nếu chẳng phải nơi
người nghèo khó hiếu hòa và kính sợ lời Ta" (Is 66, 1 - 2).
Tôi tạ ơn Chúa, Chúa chúng ta, vì công
trình Ngài hoàn mỹ đến nỗi được Ngài chọn làm chốn nghỉ ngơi. Ngài đã dựng nên
bầu trời và tôi không đọc thấy Ngài nghỉ ngơi ở đó.
Ngài đã dựng nên trời trăng tinh tú, và
cả ở đó tôi cũng không đọc thấy Ngài chọn làm chốn nghỉ ngơi, vì Ngài đã dựng
nên ai đó để Ngài có thể tha thứ tội lỗi. Hoặc, có thể là khi đó, mầu nhiệm khổ
nạn tương lai của Chúa đã được thực hiện trước, hoặc đó là một mặc khải cho
biết Ðức Kitô sẽ nằm nghỉ nơi con người, vì từ muôn đời Ngài đã chuẩn bị nghỉ
ngơi trong một thân xác hầu cứu chuộc con người, theo như lời Ngài đã nói :
"Tôi nằm xuống và thiếp ngủ, tôi tỉnh dậy vì Yavê chống đỡ tôi" (Tv
3, 6). Thật vậy, Ðấng tạo dựng con người, Ngài đã nghỉ ngơi.
(L'Hexaémenon, VI, 10, 75 - 76, PL 14, 272B - 273A
= CSEL 32/1 p. 260, 22 - 261, 18) (Kết thúc bài
giảng
không có vinh tụng ca).
SÁCH ÐỌC THÊM.
G. MADEC, Saint Ambroise et la philosophie, Paris 1974.
(Y.M.DUV AL, éd), Ambroise de Milan, XVIè centenaire de son élection
épiscopale, Paris 1974 (dix études).
Aux Sources chrétiennes : Des sacrements des mustères.
Explication du Symbole (no. 25 bis). Sur Saint Luc (no.
45 et 52). La pénitence (no. 179). Apologie de David (no.
239).
Sur les devoir clercs, C.U.F., 1984.
Naboth le Pauvre, dans A. G. Hamman, Riches et Pauvres
..., pp. 217 - 268.
Exposé sur le Ps. 118 (importants extraits), coll. Les
écrits des Saints.