CHƯƠNG
2
THẾ
GIỚI HYLẠP VÀO SAU THẾ KỶ VI
CHALCÉDOINE
VÀ DENYS L ARÉOPAGITE
I. NHỮNG NGƯỜI KẾ THỪA
CYRILLE VÀ NHỮNG NGƯỜI ỦNG HỘ CÔNG ÐỒNG CHALCÉDOINE : SÉVÈRE LÉONCE VÀ CÁC
HOÀNG ÐẾ.
CUỐI THẾ KỶ V : CHIẾU
CHỈ HỢP NHẤT (L’
édit d’ union).
Mặc dù những công thức của Cyrille được chú trọng
đến trong Công Ðồng, nhưng Chalcédoine vẫn có vẻ như một chiến thắng của
Antioche và Constantinople. Thêm vào đó, đế đô (Constantinople) đã được Công
Ðồng công nhận ưu quyền và minh nhiên hơn nữa, năm 381, Constantinople được
nhìn nhận là thủ phủ của Kitô giáo sau Rôma, - mặc dù có lời phản đối của Ðức
Giáo Hoàng Léon - có ưu quyền vượt trên các Tổng Giáo Phận (métropoles) Pont,
Tiểu Á, Thrace, đó là chưa kể Giáo Khu (diocèse) Aicập và Ðông phương. Những
sắp xếp chính thức như vậy (nằm trong điều khoản Công Ðồng), Tây phương tuy vẫn
chấp nhận, nhưng cũng đã khơi dậy một sự cạnh tranh giữa Roma và
Constantinople, và tạo thuận lợi cho những khuynh hướng dân tộc chỗi dậy. Bị
lôi cuốn trước uy thế lớn lao của Cyrille, Aicập, Syrie và Palestine đã chọn
theo lập trường "một bản tính duy nhất
của Ðức Kitô" theo nghĩa chặt, tự cô lập về mặt chính trị, cho
đến khi trở thành những nạn nhân đầu tiên của Hồi Giáo. Trong tình thế phân ly
như vậy, Alexandrie, với việc chọn ngôn ngữ Copte, đã chấm kết nền văn chuơng
Hylạp mà một thời đã là một trung tâm.
Sau khi Théodoret qua đời, cuộc chiến, mà giờ đây
Alexandrie và Antioche chỉ còn là những biểu tượng, đã vượt ra khỏi các biên
giới về không gian để trở thành cuộc đối chọi giữa một bên là những người thừa
kế Cyrille theo khuynh hướng bảo thủ, muốn áp đặt ngay cả những "án vạ tuyệt thông", [12 án vạ
của Cyrille] vốn không hề được Công Ðồng chấp nhận, và bên kia là những người
bênh vực những định tín của Công Ðồng Chalcédoine. Hai phe đã nhanh chóng có
được những nhân vật tiêu biểu, đó là Sévère phía Antioche, còn bên kia là
Léonce de Byzance.
Tuy nhiên, trước khi các nhà thần học lên đóng vai
chính thì các hoàng đế đã giữ vai trò chủ chốt trong các cuộc tranh luận suốt
thế kỷ VI. Hoàng đế Zénon (474 - 491) ban đầu là người khoe mình theo Cyrille,
nhưng rồi, với sự hỗ trợ của Thưọng Phụ Antioche là Pierre le Foulon [theo nhất
tính thuyết] đã thông đồng với Thượng Phụ Constantinople là Acace, tuy hai
người đã có nhiều đụng chạm trước đó, để ra một chiếu chỉ hợp nhất, được gọi là
"Hénotikon" (duy nhất),
bắt tất cả các Giám Mục phải theo, trong khi chiếu chỉ này đã coi thường các
định tín của Công Ðồng Chalcédoine : giữ lại Tín Biểu Nicée vốn đã được Công
Ðồng Constantinople xác nhận, nhưng lại không nói gì đến một hay hai bản tính
nơi Ðức Kitô, mà chỉ nói đến tính duy nhất của Ngài, và chấp nhận "mười hai khoản mà Cyrille đáng kính đã công
bố" , rồi kết luận rằng : "một
trong Ba Ngôi đã chịu khổ nạn". Với nội dung như thế, cả "Thư Léon gửi Flavien", cả phía
theo Chalcédoine lẫn phía nhất tính thuyết đều không lấy làm thỏa mãn. Ðức Giáo
Hoàng Félix III đã ra vạ tuyệt thông Acace, ngược lại Acace cũng gạch tên Ðức
Giáo Hoàng. Hoàng đế thì buộc các Giám Mục phải ký nhận. Ðó là cuộc phân ly
chính thức giữa Roma và Constantinople, và sẽ kéo dài từ năm 484 đến 519.
SÉVÈRE D ANTIOCHE VÀ
NHẤT TÍNH THUYẾT.
Sévère và các hoàng
đế.
Những người theo Cyrille đã gặp được tư tưởng gia
của họ vào đầu thế kỷ thứ VI là Sévère. Sévère sinh khoảng năm 465, rửa tội năm
488, trở thành đan sĩ trong một môi trường thao thuyết nhất tính. Khoảng năm
508, Sévère đến Constantinople và đã quảng bá tư tưởng của mình dưới sự che chở
của hoàng đế Anastase (491 - 518). Năm 512, ông trở thành Thượng Phụ Antioche.
Sévère bênh vực "Henotikon", được
giải thích theo chiều hướng của Cyrille, chống lại "Thư của Léon", chống lại Chalcédoine và các nhân
vật nổi danh của Antioche. Ðược Pierre d Apamée trợ giúp với biện pháp mạnh,
ông đặt người của mình khắp nơi : Aicập, Syrie và Constantinople. Nhưng rồi
Anastase băng hà. Justin lên kế vị (518 - 527) là người theo phái Chalcédoine,
nên hoàng đế đã lập tức khôi phục lại giáo lý chính thống, giao hảo lại với
Roma, định cách chức Sévère, nhưng Sévère đã trốn sang Aicập, nương náu nơi Thượng
Phụ Timothée IV. Cuộc thế xoay vần, trong lúc các đan sĩ miền Scythie vận động
cho công thức "một trong Ba Ngôi đã bị
đóng đinh" thì Sévère tiếp tục tuyên truyền tư tưởng của mình
nơi lưu đầy, nhất là bằng các tác phẩm.
Năm 527, hoàng đế Justinien lên nắm quyền. Ông có
hy vọng tái lập sự thống nhất của đế quốc Roma về mặt chính trị và tôn giáo. Ðể
đạt được mục đích, ông lao vào hoạt động đến mức không thể tưởng, thêm vào đó,
ông thực sự là người có kiến thức. Ông đã để lại một loạt các bức thư mang nội dung
thần học, trong đó một số đúng nghĩa là những tiểu luận. Ông muốn phục hồi giáo
lý chính thống và đã tự tay can thiệp vào nhiều vấn đề [một trong những việc ông làm đó là cố ép Roma phạt
vạ tuyệt thông ba nhà thần học quá cố là Théodore de Mopsueste, Théodoret de
Cyr và Ibas d Édesse]. Nhưng vợ của Justinien là hoàng hậu Théodorat
lại là người nghiêng theo nhất tính thuyết, vì thế Justinien đã cố gắng dàn hòa
và cho mời Sévère về Constantinople. Tuy nhiên cuộc gặp gỡ đã thất bại bất ngờ.
Thượng Phụ Sévère bị hội nghị các Giám Mục Constantinople kết án tuyệt thông
năm 536. Hoàng đế ra lệnh thiêu hủy tất cả các tác phẩm của Sévère. Vị Thượng
Phụ thất thế đã qua đời tại Aicập ngày 08. 02. 538.
Tác Phẩm Của Sévère.
Sévère là một thần học gia có kiến thức rất rộng về
đạo cũng như về đời, là người bênh vực tư tưởng của Cyrille một cách hăng say
và khéo léo, chống lại cả chủ trương nhất tính triệt để lẫn giáo lý của Công
Ðồng Chalcédoine ông đã viết một tác phẩm quan trọng nhằm chống lại cả hai,
phần lớn tác phẩm này không bị thiêu hủy nhờ các bản dịch tiếng Syrie. Ðể chống
lại những người theo Chalcédoine, Sévère viết cuốn "Gửi Néphalius d Alexandrie", cuốn "Philalèthès" (bạn của chân lý),
ông viết nhằm chống lại một người bênh vực Chalcédoine đã trích một số bản văn
có vẻ như chủ trương hai bản tính của Cyrille, Sévère khẳng định lại ý nghĩa
nhất tính của các bản văn đó. Nhưng nhất là ông đã tung ra ba cuốn sách mang
tựa đề "Chống nhà ngữ pháp nghịch
đạo" (519) (Contre l impie grammairien), tức chống lại Jean de
Césarée, người bênh vực Công Ðồng Chalcédoine, khảo luận này dựa vào một tài
liệu giáo phụ học rất phong phú, và cũng nhờ đó mà nhiều trích dẫn đã không rơi
vào quên lãng. Ðể chống lại những người chủ trương nhất tính cực đoan, Sévère
soạn bốn bức thư "Contre le grammairien
Serge" (chống nhà ngữ pháp Serge) và một loạt những tác phẩm
chống Julien d Halicarnasse, đối thủ trực tiếp của ông, Julien cũng là người
chạy trốn tới Alexandrie, vì muốn bảo vệ thần tính của Ðức Kitô, ông chủ trương
thân xác Ðức Kitô được thần hóa ngay từ đầuvà bất khả thụ nạn. Sévère còn để
lại 125 bài giảng, trong đó lối chú giải theo nghĩa ẩn dụ đã gợi hứng cho những
giải thích rất tuyệt vời, cùng với 300 bức thư mà ngày xưa người ta đã sưu tập
lại được trên tổng số 4000 bức, và còn các Thánh Thi nữa.
SÉVÈRE,
NHÀ CHÚ GIAI KINH THÁNH VÀ VỊ THẦY THIÊNG LIÊNG.
. Môt người từ
Jérusalem xuống Jéricho. Ðức Kitô đã sử dụng một tên chỉ loại rất thích đáng.
Ngài không nói : "Có một kẻ xuống" nhưng nói : "một người
xuống", bởi lẽ đoạn văn này liên quan tới toàn thể nhân loại. Nhân loại,
do sai phạm của Ađam, đã rời bỏ nơi thanh nhàn trên cao, nơi ở êm đềm, tuyệt
diệu, không biết đến đau khổ của Vườn Ðịa Ðàng - được đặt tên cách đích xác là
Jérusalem : có nghĩa là sự bình an của Thiên Chúa - và đi xuống Jéricho, vùng
đất trũng sâu, khí nóng ngột ngạt. Jéricho, đó là cuộc sống cuồng nhiệt, xô bồ
của thế giới này, một cuộc sống rời xa Thiên Chúa, lôi kéo con người xuống
thấp, và khiến con người phải ngạt thở, kiệt lực bởi ngọn lửa của những khoái
lạc xấu xa nhất. Một khi nhân loại rời bỏ con đường dẫn tới sự sống, trong lúc
bị lôi kéo từ trên cao xuống thấp, xuôi theo triền dốc, thì bấy giờ đàn quỷ
hung dữ nhào đến tấn công, hung hăng như một băng cướp. Chúng lột hết y phục
của sự hoàn hảo, không để lại cho nhân loại một chút gì là sức mạnh của tâm
hồn, là sự tinh tuyền, công chính, khôn ngoan, cũng như chẳng còn gì là đặc
điểm của hình ảnh Thiên Chúa. Bằng những đòn giáng liên tục, những cú đánh tội
lỗi đủ loại, chúng hạ gục con người, và cuối cùng mặc con người nằm đó, dở
sống, dở chết .
(.) Lề Luật do Môisen
ban đã đi ngang qua : Lề luật nhìn thấy nhân loại nằm sõng soài và đang hấp
hối, vị Tư Tế và thầy Lêvi trong dụ ngôn quả là biểu tượng cho Lề Luật, vì
chính Lề Luật đã khai sáng ra chức Tư Tế, Lêvi. Nhưng nếu Lề Luật đã nhìn thấy
nhân loại thì Lề Luật lại tỏ ra bất lực, nó đã không đưa con người đến chỗ bình
phục hoàn toàn, nó đã không vực dậy một nhân loại đang nằm dài dưới đất.
Cuối cùng, một người
Samarie đi ngang qua. Ðức Kitô chủ ý gán cho mình danh hiệu là người Samarie.
Bởi lẽ, nói với một vị tiến sĩ luật, một kẻ thuyết rất hay về Lề Luật, trong
khi Ngài là người mà dân Dothái đã nhục mạ : "Ông này là người Samarie, là
người bị quỷ ám" Ngài cố ý dùng lời lẽ để tỏ cho ông thấy không phải vị Tư
Tế, cũng không phải thầy Lêvi, tắt một lời, không phải bất cứ người nào được
xem như sống theo Luật của Môsê, nhưng là chính Ngài, Ngài đến để hoàn tất ý
định của Lề Luật, và dùng hành động để làm cho người ta thấy "ai là đồng
loại và thế nào là yêu đồng loại như chính mình".
Người lữ hành
Samarie, tức là Ðức Kitô - vì Ngài đã lữ hành thực sự - thấy nạn nhân nằm đó,
Ngài không bỏ đi qua, vì mục đích khiến ngài phải lữ hành chính là "để
viếng thăm chúng ta" ; chính vì chúng ta mà Ngài đã xuống thế gian, và
chính nơi chúng ta, Ngài đã cư ngụ. Ngài không chỉ xuất hiện nhưng còn thực sự
đối thoại với con người . Ngài đã đổ rượu trên các vết thương, thứ rượu của Lời
; và vì các` vết thương quá nặng không chịu nổi rượu nồng, nên Ngài đã trộn dầu
thêm vào, nhưng chính cách cư xử dịu dàng và lòng "nhân ái"
(philantropie) đến như vậy mà Ngài phải chịu hứng lấy những lời trách móc của
bọn biệt phái.
Tiếp đó, Ngài đưa con
người đến tận quán trọ - đó cũng là tên mà Ngài đặt cho Giáo Hội, Giáo Hội trở
thành nơi trú ngụ và tiếp đón tất cả mọi người (.)
Với người chủ quán -
tượng trưng cho các Tông Ðồ, các Mục Tử, và các tiến sĩ kế tục các ngài - Ðức
Kitô trao cho ông hai quan tiền khi Ngài ra đi - khi Ngài lên trời - để ông
chăm sóc nạn nhân thật chu đáo. Hai quan tiền này, chúng ta hiểu là hai Giao
Ước : Cựu Ước và Tân Ước, Giao Ước của lề luật và các tiên tri ; và Giao Ước đã
được ban cho chúng ta qua các Phúc Âm và các Ðịnh Chế Tông Ðồ. Cả hai đều phát
xuất từ cùng một Thiên Chúa và mang một hình ảnh duy nhất về một Thiên Chúa duy
nhất trên cao, tương tự như các quan tiền mang hình ảnh nhà vua, và các Giao
Ước đã in vào tâm hồn chúng ta cùng một ấn tích hoàng vương nhờ các Thánh Ngôn,
bởi lẽ chỉ một và cùng một Thần Khí đã công bố những lời ấy.
Theo Fr. Rev. Or. Chr. XXVII, 1929, p.
17 - 19.
Thuyết Nhất Tính Của
Sévère.
Kitô học của Sévère cũng chính là Kitô học mà
Cyrille đã công bố, nhưng như ta biết, kể từ năm 433, Cyrille đã chấp nhận
không áp đặt hệ thống thuật ngữ của mình. Sévère đồng hóa bản tính (nature,
physis, ông hiểu theo nghĩa một cá thể) với cá vị (hypostase) hay ngôi vị
(prosôpon). Nơi Ðức Kitô, ông xét tới thực tại cụ thể, chủ thể hiện hữu (sujet
existant) và không thấy chủ thể nào khác hơn là Ngôi Lời (Verbe), nhân tính vốn
không có hiện hữu riêng trước Nhập Thể, thì sau Nhập Thể lại càng không có hiện
hữu riêng, hiểu theo nghĩa đó, thì bản tính nhân loại không có [nói khác đi, Sévère không phủ nhận nhân tính, có
nhân tính nhưng nhân tính không hiện hữu riêng. - Chú thích của ND]. Ngôi
Lời-làm-người là một thực tại phức hợp, thần-nhân (théandrique : theos + aner,
Thiên Chúa + con người) hợp bởi "hai
bản tính" hay ngôi vị (hypostases) nếu nói một cách thuần lý,
nhưng Ngôi Lời vẫn là chủ thể qui thuộc duy nhất (sujet d attribution), chủ thể
hành động chịu trách nhiệm duy nhất, nguyên lý duy nhất của hoạt động
(energeia, opération) và của ý chí [nói khác đi, mọi thuộc tính, hành động,
hoạt động, ý chí nơi Ðức Kitô, kể cả nhân tính, đều qui gán cho chủ thể duy
nhất là Ngôi Lời]. Sévère lấy lại câu nói của Sévérien de Gabala "bản tính không mệt mỏi đã mệt mỏi" (fatiguée
est la nature qui ne Sévère fatigue pas). Nhằm bảo vệ chắc chắn tính duy nhất
của Ðức Kitô, ông đã soạn những công thức mang tính cách công kích như sau : "Một trong Ba Ngôi đã chịu khổ nạn",
"Thánh, Thánh, Chí Thánh, Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng tôi",
những công thức này từ đó đã trở thành tiếng hô tập hợp của phái nhất tính.
Sévère, nhà biện hộ lừng danh cho Cyrille, là một
nhà tư tưởng tế vi, có học thuyết chính thống như thầy của mình, ít là trong ý
hướng. Học thuyết của ông gần giống với Philoxène de Mabboug (Hierapolis) vị
Tổng Giám Mục, đương thời với ông, mất năm 526, Philoxène cũng nhìn biến cố
Nhập Thể như một sự trở thành của Ngôi Lời (un devenir du Verbe) mà tự bản tính
vẫn là bất biến, hơn là một sự đảm nhận (assomption) các yếu tố cấu thành. [Nói khác đi, chính Ngôi Vị (nature, hypostese) của
Ngôi Lời đã Nhập Thể, nhưng không phải để trở thành một Ngôi Vị khác nhưng là
để hiện hữu một cách khác. - CAYRÉ, Patrologie . t. II, p. 67.- chú thích của
ND]. Sévère, kẻ đến sau Công Ðồng Chalcédoine, nhưng đã sai lầm khi
duy trì hệ thống thuật ngữ mà Giáo Hội đã chính thức bác bỏ.
CHỈ
MỘT NGÔI VỊ (PERSONNE), MỘT CÁ VỊ (HYPOSTASE), MỘT BẢN TÍNH (NATURE).
Tôi sẽ bàn về Con
Người (Fils de l homme) trên bình diện thần học, biết rằng đó cũng chính là Con
Thiên Chúa (Fils de Dieu), không bị phân chia bởi hai bản tính sau khi phối hợp
cách khôn tả. Thật vậy, mặc dầu Ngài đã Nhập Thể bởi Ðức Trinh Nữ Maria, mang
lấy thân xác đồng bản thể với chúng ta và một linh hồn có lý trí, thế nhưng
Ngài vẫn không lìa bỏ những gì khiến Ngài là một Vị Thiên Chúa. Bởi chưng, vẫn
chỉ là một Ðấng Emmanuel, không giảm suy, không biến đổi được nhìn thấy từ hai,
nghĩa là từ thần tính và từ nhân tính, một ngôi vị duy nhất, một cá vị duy
nhất, một bản tính nhập thể duy nhất của Ngôi Lời Thiên Chúa. Nếu ai phân chia
Ngài thành hai bản tính, hoặc coi việc trở thành người (inhumanation), việc
Nhập Thể đích thực làm người như chúng ta là chuyện tưởng tượng, hoặc hủy hoại
mầu nhiệm liên quan đến Ngài bằng bất cứ cách nào khác, kẻ đó không nói điều gì
từ trên cả nhưng đã xét mọi thực tại theo cái nhìn của xác thịt và máu huyết.
(Bài giảng 124, PO 29/1, trang 217 -
218. Bản dịch : M. Briére)
Quả thực, nếu Ðấng đã
nhập thể và đã chịu đóng đinh như thế vì chúng ta là Ðấng bất tử, thì Ngài là
một Ngôi Vị, một Cá Vị, một bản tính Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa. Trái
lại, nếu sau khi phối hợp mà Ngài còn được nhận biết có hai bản tính như Công
Ðồng đã tuyên bố, một Công Ðồng giả trá, một Công Ðồng của những kẻ họp nhau ở
Chalcédoine thì một đàng sự kết hợp bị phá hủy vì bị phân chia thành hai, đàng
khác mầu nhiệm cũng bị phân chia : tính bất tử thì gán riêng cho thần tính, còn
cái chết thì chỉ gán cho nhân tính.
(Bài giảng 26. Về Mầu Nhiệm Truyền Tin.
PO 38/2
trang 275. Bản dịch : M. Brière và Fr.
Graffin).
SỰ TỒN TẠI CỦA CÔNG
ÐỒNG CHALCÉDOINE : LÉONCE DE BYZANCE
Chalcédoine không vì thế mà bị tiêu tan. Những
người bênh vực thường đi theo hai hướng, hoặc trung thành triệt để, hoặc cố
gắng dung hợp với các công thức của Cyrille.
Những người trung thành triệt để thì bác bỏ công
thức Ðức Kitô chỉ có một bản tính và các "án
vạ tuyệt thông" cùng với tất cả những khai triển của nó mà
những người theo Cyrille triệt để hay ngay cả mềm dẻo đã đưa ra.
Tuy nhiên, họ gặp phải vấn đề nan giải đó là làm
sao gán cho Ðức Kitô một nhân tính cá biệt mà lại không phải là một ngôi vị của
Ngôi Lời. Ðại diện cho nhóm này là Léon de Byzance. Ông là một nhân vật mà
người ta không được biết rõ lắm, hơn nữa ông lại có những hoạt động tương tự
với những người cùng tên, đặc biệt là Léon de Jérusalem. Trở thành đan sĩ, ông
sống tại Palestine vào khoảng năm 519, và cũng có những thời gian dài lưu ngụ
tại Constantinople. Léonce vừa theo Origène, vừa theo lập trường hai bản tính
của Chalcédoine. Ông qua đời ít lâu sau chiếu chỉ của Justinien năm 543 kết án
Origène, một chiếu chỉ đã khiến ông lên tiếng phản đối.
Tác phẩm của Léonce chủ yếu là về Kitô học : Ông
soạn các tác phẩm "Chống phái Nestorius
và Eutychès", chống Sévère và Julien dHalicarnasse và có lẽ cả
cuốn "Chống lại những gian trá của phái
Apolloinaire" (Contre les fraudes des Apollinaristes). Ông cũng
công kích Théodore de Mopsueste. Ông luôn dùng các trích dẫn Giáo Phụ để củng
cố cho các khảo luận của mình, như thói quen thời bấy giờ. Thần học của ông gây
rất nhiều tranh luận, nhưng có một điểm người ta đồng ý với nhau là, ông xa với
Cyrille và gần với các Giáo Phụ Cappadoce hơn. Là người theo Chalcédoine triệt
để, và cởi mở với triết học, Léonce nhấn mạnh đến tính trường tồn cũng như sự
phận biệt hai bản tính nơi Ðức Kitô. Ông thích nói đến tính duy nhất theo yếu
tính (essence, ousia) hơn là theo ngôi vị [hypostase,
ngôi vị theo nghĩa hiện hữu riêng biệt = cá vị], mặc dù ông nhìn
nhận rằng ngôi vị của Ngôi Lời là điểm hiệp nhất. Nhân tính của Ðức Kitô được "đặt trong ngôi vị" (enhypostasiée),
ngôi vị đó là ngôi vị duy nhất của Ngôi Lời và sự tiền hữu của nhân tính chỉ là
xét trên lý thuyết mà thôi. Léonce hiển nhiên tin rằng nhân tính không bao giờ
có hiện hữu riêng biệt, nhưng ông không đi đến chỗ dựa vào đó để khẳng định
rằng nhân tính là "a-hypostatos" (vô-ngôi
vị) như rất nhiều người theo Chalcédoine chủ trương [vì theo Léonce, bản tính mà không có ngôi vị - nature sans hypostase
thì chỉ là một điều trừu tượng, nhân tính Ðức Kitô không phải là ngôi vị (sans
hypostase) nhưng là hiện hữu trong ngôi vị của Ngôi Lời (enhypostasiée).- Chú
thích của ND]
Về triết học, ông đã làm cho các ý niệm bản tính
(nature), ngôi vị (hypostase) trở nên tính tế hơn, ngôi vị là điều hiện hữu nơi
chính mình (en soi) và là một hiện hữu riêng biệt (à part soi). Ðây chính là
thời kỳ mà Aristote cùng với luận lý của ông lấy lại chỗ đứng của mình bên cạnh
triết thuyết Tân-Platon.
THÁNH,
THÁNH, CHÍ THÁNH, NGÀI ÐÃ CHỊU ÐÓNG ÐINH.
Vì, khi Chúa Con làm
người mà không biến đổi cũng không lẫn lộn, đích thực và ngoài mọi tưởng tượng,
Ngài vẫn là Thiên Chúa, không suy giảm chút nào ; vì Ngài đã mang lấy từ Ðức
Maria rất Thánh Mẹ Thiên Chúa trọn đời đồng trinh một thân xác, có linh hồn hữu
trí, vì Ngài đã kết hợp với thân xác ấy theo ngôi vị ; vì Ngài đồng bản tính
với Chúa Cha theo thần thính và chính Ngài cũng đồng bản tính với chúng ta theo
nhân tính ; và vì Ngài vẫn là một từ hai bản tính : Thiên Chúa và nhân loại. Chính
vì những lý do này (.) mà chúng ta dâng lên Ngài lời ca ngợi rằng : "Lạy
Thiên Chúa, Ngài là Thánh".
Tại Antioche và dĩ
nhiên do ảnh hưởng của Pierre la Foulon, khoảng năm 480, người ta đã thêm
"ba lần Thánh" vào câu "Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng
tôi". Ðây chính là việc qui tất cả các lời tung hô về riêng cho mình Ngôi
Lời hay là gán cuộc Khổ Nạn cho Thiên Chúa (Théopaschisme : Thuyết Thiên Chúa
thụ nạn). Người Công Giáo cuối cùng đã chấp nhận công thức này, nhưng vào thế
kỷ VIII, Jean Damascène sẽ lên tiếng bác bỏ.
Bài giảng 125. PO. 29. 1, trang 241 -
243. Bản dịch : M. Brière.
NHỮNG NGƯỜI THEO
KHUYNH HƯỚNG TÂN - CHALCÉDOINE VÀ JUSTINIEN.
Tuy nhiên, một khuynh hướng theo Chalcédoine có tầm
ảnh hưởng lớn hơn nhiều. Khuynh hướng này tìm cách dung hòa các định tín của
Chalcédoine với các công thức của Cyrille, đôi khi cả với những công thức "Quá đáng" nhất, một khuynh
hướng thấm nhiễm tư tưởng trường phái Alexandrie, và thực sự làm hại tới truyền
thống Antioche. Ðó là khuynh hướng của Jean nhà ngữ pháp (Jean le Grammairien),
người đã bài bác Sévère, nhưng cả Léonce de Jérusalem cũng theo khuynh hướng
này, ông chủ trương các bản tính hiệp nhất "theo
ngôi vị" "hiệp nhất thể lý" (union physique), và chịu
trách nhiệm về câu nói nổi tiếng : "Một
trong Ba Ngôi đã chịu khổ nạn trong thân xác". Hoàng đế
Justinien đã dần dần, từ năm 528 - 553, áp đặt khuynh hướng Tân-Chalcédoine và
chủ yếu dựa vào truyền thống.
Vấn Ðề "Ba
Chương" : (Les Trois Chapitres).
Trong một thế giới mà Cyrille hiển nhiên là một nhân
vật vĩ đại thì Diodore, Théodore, Théodoret, Ibas luôn bị coi là những kẻ đáng
nghi ngờ, thỉnh thoảng các ông lại bị các Công Ðồng địa phương kết án và điều
này không phải không gây ra những phản ứng. Bên cạnh đó, nhưng người theo
Origène, bị kết án năm 543, cố thuyết phục hoàng đế Justinien rằng nếu các tác
phẩm của những nhà thần học Antioches chủ chốt bị kết án là lạc đạo thì sự ổn
định về giáo lý mới được vãn hồi. Cụ thể là các tác phẩm của Théodore, các tác
phẩm chống Cyrille của Théodoret và Thư của Ibas gửi Maris. Ba vị Giám Mục này
đã chết trong sự hiệp thông với Giáo Hội, và ngay cả, được Công Ðồng
Chalcédoine minh nhiên phục chức như trong trường hợp của Théodoret và Ibas.
Hoàng đế Justinien lấy quyền riêng của mình ra một chiếu chỉ lên án tác phẩm
của ba nhà thần học nói trên, còn được gọi là "Ba
Chương" (Trois chapitres), và dùng áp lực bắt Ðức Giáo Hoàng
Vigile phải theo quyết định của mình, Ðức Vigile đã phải nhượng bộ, nhưng sau
đó, trước sự phẫn nộ của Tây phương, ngài rút lại lời kết án. Năm 548, Facundus
d Hermiane soạn một khảo luận dài : "Pour
la défense des Trois Chapitre" (Ðể bênh vực Ba Chương = các tác
phẩm bị kết án của ba nhà thần học Antioche), nhằm biện minh cho các tác phẩm
đó trước các hoàng đế - thần học gia (Justinien), nhưng phần ông thì lại giữ
lấy khẩu hiệu : "Một trong Ba Ngôi đã
chịu đau khổ". Phó Tế Pélage, vị Giáo Hoàng tương lai, cũng cho
xuất bản một tác phẩm có cùng tựa đề vào năm 553.
Công Ðồng
Constantinople II (553).
Hoàng đế đã triệu tập Công Ðồng Constantinople năm
553 một cách độc đoán [tuy cũng được sự
chuẩn nhận của Ðúc Giáo Hoàng Vigile]. Công Ðồng đã kết án "Ba Chương" và cả Origène. Phần
tín lý được bàn thảo trong Công Ðồng chỉ dừng lại ở giáo lý của bốn Ðại Công
Ðồng, nhưng, các công thức của Chalcédoine và của Cyrille được đặt bên cạnh
nhau trong 10 án vạ tuyệt thông, trong khi các công thức của Cyrille đã không
hề được Ðức Giáo Hoàng Vigile chuẩn nhận. Chỉ có một điều duy nhất được Roma
nhìn nhận đó là việc kết án "Ba
Chương". Dầu sao, đây cũng là một chiến thắng cho những người
theo Cyrille chống lại Chalcédoine. Tuy nhiên, những người chủ trương nhất tính
thuyết triệt để vẫn không hài lòng và đã đứng lên thành lập Giáo Hội "Jacobit" theo tên của vị Giám
Mục Jacques Baradée (542 - 578). Những Giáo Hội khác cùng tinh thần đó đã tách
khỏi Roma và Constantinople, trở thành các Giáo Hội tự trị ở Syrie, Nubie,
Aicập, Arménie và Abyssinie.
SỰ
KHÔNG TIỀN HỮU CỦA NHÂN TÍNH ÐỨC KITÔ KHÔNG CHỨNG MINH ÐIỀU GÌ CẢ.
Có một số người nói
rằng chính vì nhân tính của Chúa đã không được tạo thành trước, đã không tiền
hữu, đã không được đảm nhận hoàn toàn, nhưng đã dược lập thành trong Ngôi Lời,
nên từ nhân tính và Ngôi Lời đó mà một Ngôi Vị đã được cấu thành. Ðiều này có
phần đúng nhưng cũng có phần sai. Chúng tôi cũng nhìn nhận rằng (nhân tính Ðức
Kitô) đã không tiền hữu và đã không được tạo dựng trước. Nhưng nếu nói rằng vì
vậy mà một ngôi vị được cấu thành từ hai yếu tố ấy như thể chẳng có cách nào
khác, và làm như Thiên Chúa và một con người trọn vẹn không thể phối hợp với
nhau như thế thì điều đó chúng tôi không chấp nhận. Ðối với Thiên Chúa, sự phối
hợp có gì thay đổi trong trường hợp này hay trưòng hợp kia ? Quả thật, không
phải thời gian kết hợp, cũng không phải nơi chốn kết hợp, không phải sự bất
toàn của thân xác, mà chính là cách thức kết hợp (le mode dunion) đã làm nên
Ðức Kitô duy nhất. Do đó, chúng tôi bác bỏ việc tạo dựng trước. Không phải vì
đó là điều bất khả, nhưng là vì để nhân tính của Chúa có một thời gian đơn độc
và không có thần tính là điều không thích hợp.
Chống những lập luận của Sévère, PG 86,
1944 CD.
Bản dịch : M. Richard, trong Rev. et
Byz. V, 1947, tr. 60.
TRIẾT
HỌC PHỤC VỤ THẦN HỌC.
Bản tính (nature) bao
hàm ý tưởng hiện hữu ; ngôi vị (hypostase) bao hàm thêm ý tưởng hiện hữu riêng
biệt ; bản tính chỉ giống loại, ngôi vị cho thấy cá thể ; bản tính mang đặc
tính phổ quát, ngôi vị lại phân tách cái cá thể ra khỏi cái chung. Tóm lại, gọi
là cùng một bản tính duy nhất những sự vật đồng bản thể, tức cùng có chung ý
niệm hiện hữu. Nhưng khái niệm ngôi vị được thể hiện vừa trong những thực tại
đồng nhất về bản tính, nhưng khác nhau theo số lượng, vừa thể hiện trong những
thực tại làm thành các bản tính khác nhau, nhưng các bản tính này có chung một
hữu thể, và chúng hiện hữu trong nhau (in exiter lun dans lautre). Khi nói
chúng có chung một hữu thể, tôi không có ý nói đến những cái bổ túc cho nhau
xét về mặt yếu tính, như trường hợp của các bản thể và các thuộc tính căn yếu
mà người ta gọi là những đặc tính (propriétés), tôi muốn nói đến bản tính và yếu
tính của mỗi thành phần cấu thành (composants), và bản tính ở đây không được
xét riêng biệt nhưng trong tưong quan với bản tính kết hợp với nó và cùng là
bản tính như nó (con-naturlle).
Chống phái Nestorius và Eutychès, PG
86, 1280AB, bản dịch J. Tixeroet -
Lịch sử các Tín Ðiều t.III, 1928, tr.
154, đã duyệt lại và bổ túc.
LƯU Ý : Nhân
tính của Ðức Kitô không hiện hữu "riêng biệt" cũng không thể tách
biệt khỏi thần tính, nhưng "hiện hữu-trong" Ngôi Lời ; vì thế nhân
tính không phải là một ngôi vị (hypostase) [hypostase theo nghĩa là một cá vị
hiện hữu riêng biệt (à part soi) và hiện hữu nơi chính mình (en soi)].
TẠI
SAO NHỮNG CÔNG VIỆC CỦA GIÁO HỘI LẠI BÀN NƠI HOÀNG CUNG ?
Mỗi người thợ có
xưởng của mình, và như ta thấy, mỗi người phải biết mình giảng dạy điều gì.
nhưng chúng ta chưa bao giờ nghe nói có tiếng đe kêu hay tiếng lửa hồng tí tách
trong một xưởng dệt. Chúng ta chưa hề thấy có anh thợ vá giầy nào lại dám tranh
cãi với một kiến trúc sư về tương quan giữa dài, rộng thế nào cho chuẩn xác để
từ đó suy ra chiều cao thích hợp. Chỉ có những ai đã học với các bậc thầy
chuyên môn về chính nghề của mình thì mới làm được như vậy một cách chuẩn xác.
Ấy thế mà, chỉ có khoa học về những điều thần linh là không được tôn trọng, làm
như không có trường lớp, không có những bậc thầy về khoa học đó. Người nào cũng
tưởng mình dư sức để bàn cãi một cách rất ư thông thái về những điều mà họ chưa
hề học lấy một chữ. Người ta không bàn luận việc triều chính ở nhà thờ, thế thì
tại sao hoàng đế [Zénon] lại muốn bàn cãi những công việc của Giáo Hội nơi
hoàng cung .
Nhưng điều đó hoàng
đế cũng chưa lấy làm đủ, không, ông ta còn công nhiên xúc phạm, mà lần này là
với Thánh Công Ðồng Chalcédoine : "Các người hãy hiệp nhất với nhau, không
trù trừ do dự gì cả. Vì chưng, ta thảo thư này cho quí vị không phải để đề ra
cho quí vị một đức tin mới, nhưng để tỏ cho thấy là ta khoan hậu đối với quí
vị. Nhưng bất cứ ai cứ nghĩ khác với ta lúc này hay lúc nào khác, tại Công Ðồng
Chalcédoine hay trong bất cứ Thượng Hội Ðồng nào khác, thì kẻ ấy phải vạ tuyệt
thông !" Làm sao hoàng đế [Zénon] lại có thể phạm một tội đáng tởm đến thế
? Tôi tin là chỉ vì ngài đã bị thúc đẩy bởi những lời ton hót của bọn nịnh thần
. Hoàng đế những tưởng với tài trí đặc biệt của mình - mà có ai cho ông ta là
như thế đêu, nếu không phải là bọn nịnh hót - có thể tìm ra phưong cách tái lập
sự hiệp nhất, một điều mà trước ông, đã từ lâu lắm, không ai có thể thực hiện
được.
Cuối cùng, trong
chiếu chỉ mà chúng ta đã nói tới, ông ta phát biểu như sau : "Chớ gì các
chi thể kết hợp lại với nhau, những chi thể mà kẻ thù của sự thiện đã hết sức
hối hả tìm cách phân rẽ từ bao lâu nay : nó biết rằng nếu tấn công toàn thể
Giáo Hội thì dễ dàng chuốc lấy thất bại. Chính bởi sự chia rẽ này mà bao nhiêu
thế hệ qua, bao năm tháng qua, đã có nhiều người từ giã cõi đời này mà không
được hưởng nhờ ân sủng của Bí Tích Rửa Tội .". Nếu chúng ta đồng ý với
những điều thế quyền rêu rao, tưởng là có thể tái lập sự hiệp nhất sau bao
nhiêu thế hệ, bằng cách bóp méo hay bóp nghẹt chân lý, thì chúng ta hẳn cũng sẽ
phải nói rằng : Nếu chúng ta không kết hiệp với bè Eutychès thì thân thể của
Giáo Hội sẽ không trọn vẹn. Nhưng (.) Ðức Léon đáng kính đã khẳng định :
"Tuyệt đối không thể có chuyện những kẻ dám chống đối các mầu nhiệm Thiên
Chúa mà còn lại hiệp thông với chúng ta". Thế mà hoàng đế [Zénon] lại đưa
những kẻ chống đối vào trong Giáo Hội, khác nào đưa của Thánh cho chó, ném ngọc
trai vào miệng heo. Ðể rồi cuối cùng, những kẻ làm hư hại đức tin này lại quay
ra chống đối nhau, cắn xé lẫn nhau và tách khỏi Giáo Hội. Vụ ly khai quan trọng
xảy ra là vì thế, và nó sẽ kéo dài cho đến khi nào lòng thương xót của Thiên
Chúa tái lập sự hiệp nhất, nhờ sự giúp sức của bệ hạ [hoàng đế Justinien].
Tâu bệ hạ, đấy là
vinh dự hết sức lớn lao của ngài. Chúng tôi cầu xin để ngài được vinh dự ấy cho
đến hết đời và không xảy ra điều gì có thể làm tiêu tan một hành động đáng ca
ngợi như thế. Nhưng xin ngài hãy nhớ nỗi vui mừng của dân Kitô giáo sẽ đến mức
nào khi khắp nơi trong giới Công Giáo, bao tiếng tung hô chúc tụng vang lên tới
ngài, người giữ gìn đức tin của cha ông chúng tôi, người tái lập hòa bình cho
Giáo Hội, người trả thù cho trật tự bị vi phạm. Ðối với những kẻ chúc tụng ngài
sẽ thật êm ái biết bao khi được luôn miệng nhắc đến tôn danh ngài, vui sướng
biết bao khi được nghe nhắc lại kỳ công vĩ đại của ngài. Bởi đó, chúng tôi xin
ngài hãy xem xét, hãy coi chính ngài đã hành động thế nào trong thời của mình,
và hãy xem coi các hoàng đế Marcion, Léon trong thời của họ, đã hành động trong
sự tôn trọng các quyền thuộc về chức vụ Giám Mục thế nào. Ngược lại, xin ngài
cũng hãy xem coi những gì Zénon đã làm : Ông ta đã chà đạp lên các dự định của
Thiên Chúa, đã lạm dụng một quyền bính không phải của mình, đã tin tưởng vào
những kẻ xu nịnh, ngỡ mình đúng như lời bọn chúng tâng bốc, hồn "lên
mây" trước những lời tán dương mà người khác nghe không thể chịu nổi : Ông
ta đã không quan tâm đến lời cảnh cáo của Thánh Tông Ðồ : "Mỗi người hãy
hạch sách lấy mình và bấy giờ sẽ có lý mà vinh vang, mình đọ với mình, chứ
không đọ với ai khác" (Gal 6, 4) ; nghĩa là hoàng đế phải tin vào lời
chứng của chính lương tâm mình, chứ đừng xem thường nó để rồi tự vênh vang với
những lời ba hoa của bọn nịnh hót.
Facundus d Hermiane. Ðể bênh vực Ba
Chương (Pour la défense des Trois Chapitres)
XII, 4 - 5, PL 67, 847A - 849A. bản
dịch : Cl. Mondésert và P.Th. Camelot
trong H. Rahner : LÉglise et l État
dans le christianisme primitif (Giáo Hội và
nhà nước thời Kitô giáo tiên khởi).
Paris, 1964, trang 251 - 253.
Tác phẩm được gửi cho hoàng đế
Justinien.
MỘT
KITÔ HỌC CHÍNH THỐNG THEO ÐỨC KITÔ.
Ngày nay còn nhiều
nhóm Kitô hữu ly khai ở Aicập, Éthiopie, Syrie, Arménie và nhiều nơi khác, họ
xa rời chính lộ chỉ là trong vấn đề từ ngữ, khi họ trình bày học thuyết về Mầu
Nhiệm Nhập Thể của Chúa.
Tông thư "Sempiternus Rex"
(Vua muôn đời) ngày 8. 9. 1951,
Nhân dịp kỷ niệm 1500 năm Công Ðồng
Chalcédoine, Doc. Cath.
7. 10. 1951, cột 1226.
II. DENYS L ARÉOPAGITE
: MỘT THẦN HỌC GIA NGOẠI THƯỜNG.
MỘT CÔNG TRÌNH.
Denys là một công trình hơn là một nhân vật. Tác
giả tự xưng là Denys đã trở lại Kitô giáo ở Aréopage nhờ thánh Phaolô (Cv 17,
34), và người ta cứ nghĩ là như vậy cho đến thời Phục Hưng, và trên thực tế,
mãi cho đến giữa thế kỷ XIX, ông mới được coi như một thần học gia có liên hệ
tới những cuộc tranh luận Kitô học thế kỷ V - VI, chịu ảnh hưởng Platon qua tác
phẩm Parménide, và các nhân vật theo Tân-Platon : Proclus (412 - 485) và
Damascius (500), đồng thời ông cũng chịu ảnh hưởng các Giáo Phụ thuộc Giáo Hội
Alexandrie và Cappadoce. Người ta đã cố gắng đi tìm tên thật của ông, nhưng vô
ích. Tuy nhiên, có một điểm người ta đồng ý với nhau là tác phẩm được viết vào
khoảng tiền bán thế kỷ VI.
Ngày xưa, khối tác phẩm được kể là của Denys đồ sộ
hơn rất nhiều, vì Denys trở thành một vị bảo trợ hết sức lôi cuốn, nhưng nay
chỉ bao gồm bốn khảo luận và mười bức thư, vì các tác phẩm này chứng tỏ cùng
một tính chất độc sáng về tư tưởng và về ngôn ngữ trong thế giới Kitô giáo đến
nỗi không thể nghi ngờ là cùng một tác giả đã soạn ra. Cuốn "Các Danh xưng của Thiên Chúa" (Des
Noms Divins) phân tích các Danh xưng mà Thánh Kinh và Thánh Thần truyền gán cho
Thiên Chúa, để rồi từ đó bàn tới các ưu phẩm của Thiên Chúa (atributs). Cuốn "Thần học thần bí (Théologie
mystique) rất ngắn (5 cột trong bộ Migne) bàn về sự kết hợp của linh hồn với
Thiên Chúa, trong đó, tác giả nhấn mạnh đến khái niệm về thần học phủ định
(Théologie négative0, về sự bất lực trong tri thức về Thiên Chúa, nhưng đó là
một vô tri phong phú vô lường (féconde ignorance). Tập "Hiérarchie céleste" (Phẩm trật
Thiên Quốc) và "Hiérarchie
ecclésiastique" (Phẩm trật Giáo Hội) lần lượt trình bày thế
giới các thiên thần và tổ chức của thế giới đó, rồi Giáo Hội và các Bí Tích.
Các bức thư dường như được viết kèm theo các khảo luận để minh xác và bổ túc cho
các khảo luận ấy.
VỀ KITÔ HỌC.
Mặc dầu Kitô học không phải là đối tượng chủ yếu
của các tác phẩm của Denys, nhưng chính nhờ Kitô học mà ông đã đi vào lịch sử,
ông đã được Sévère d Antioche, cũng như cả hai phe ở hội nghị Constantinople
(532 - 533) viện dẫn rất nhiều lần. Quả thực, đối với Psuedo-Aaréopagite, Ðức
Kitô là "một ngôi vị trong Ba Ngôi
Thiên Chúa", nhưng Ngài cũng "thực
sự là người xét theo toàn thể yếu tính" do sự kiện Ngài đã "đi vào nhân loại" (Enanthrôpésis).
"Tự bản tính là đơn nhất không thay
đổi, Ngôi Lời hạ cố đến thân phận phân chia của chúng ta", trở
nên đa phức (multiples), phức hợp (composé) nhưng không lẫn lộn. Bởi vậy, "Khi Thiên Chúa làm người (Ðức Giêsu) thì Ngài
thực hiện một hoạt động mới lạ, đó là hoạt động thần nhân (activité
théandrique, hay divino-humaine). Sévère đã trích dẫn kiểu nói này nhưng lại
gắn nó vào một bản tính - ngôi vị thần nhân duy nhất" (unique
nature - hypostase théandrique). Ngoài những hoạt động thuần thần linh cho cả
Ba Ngôi thì mọi hoạt động của Ðức Kitô đều mang tính chất cừa thần linh vừa
nhân loại. Tuy nhiên, tác giả nhấn mạnh đến tính bất biến của Ngôi Lời và, cũng
như những người theo nhất tính thuyết của Sévère, tác giả dành từ ngữ "bản tính" (physis) theo nghĩa
là chủ thể cụ thể, cho Ngôi Lời chứ không dùng cho nhân tính.
Tuy nhiên, tác giả gán cho "Ðức Giêsu" thực tế đồng nghĩa
với Ngôi Lời, những hoạt động thần linh tiêu biểu nhất, cả đến việc Nhập Thể,
điều này giả thiết một sự chuyển thông trọn vẹn các đặc tính. Ngược lại, trong
khi khẳng định về nhân tính của Ðức Kitô, ông lại không đề cập đến thân xác và
linh hồn của Ngài. Ông có khuynh hướng đưa những hoạt động nhân loại của Ðức
Giêsu lên quá cao và không lưu ý đến cuộc sống lịch sử của Ngài. Về điểm này,
Denys quả có nghiêng về thuyết nhất tính, nhưng ông đã không hề dấn mình vào hệ
thống đó, dù là về tư tưởng hay về thuật ngữ. Denys hầu như không dính dáng gì
tới thuyết nhất tính, đến nỗi một người theo Chalcédoine triệt để như Léonce de
Byzance đã ca ngợi ông và đã xử dụng trong thần học về Nhập Thể của mình.
ÐỨC
GIÊSU SIÊU NHÂN.
Pseudo - Denys nói về
Mầu Nhiệm Nhập Thể trong tập "Phẩm trật Giáo Hội", chương III (PG 3,
440C - 444D0, và một cách chuyên môn trong bức thư thứ tư của ông gởi cho đan
sĩ Gaios, mà Maxime la Confesseur sẽ bình luận sau này. Ở phần cuối bức thư có
diễn ngữ "hoạt động thần nhân" (énergie théandrique) do ông sáng tác.
Bạn nói : Ðức Giêsu,
Ðấng hoàn toàn siêu việt, vậy làm sao, tự bản tính của Ngài, Ngài lại có thể
nhập hàng con người được ? Ở đây, nếu ta gọi Ngài là người thì quả thực không
phải để nói Ngài là Ðấng sáng tạo ra nhân loại, nhưng là để nói rằng bản thân
Ngài là người xét theo toàn thể yếu tính và với tất cả thực tại của con người.
Nói thế không có nghĩa là chúng ta giới hạn Ðức Giêsu torng định nghĩa con
người, vì Ngài không chỉ là người mà thôi (nếu chỉ là người, chúng ta sẽ không
thể nói Ngài là siêu yếu tính được - suressentiel). Do tình yêu thương con
người đến tột cùng, một tình yêu vượt trên tình yêu thế nhân, nhưng đồng thời
vẫn là một tình yêu hoàn toàn mang chất người, Ngài đã trở thành con người thực
sự, Ðấng siêu yếu tính (Le Suressentiel) đảm nhận yếu tính con người, nhưng dù
vậy, Ngài vẫn giữ siêu yếu tính vĩnh hằng của Ngài, vẫn giữ lấy viên mãn của
siêu yếu tính ngay giữa lòng nhân tính của Ngài, một sự viên mãn tràn đầy hơn
mọi thứ viên mãn.
Khi thực sự đảm nhận
trọn vẹn yếu tính (con người) Ngài đã nhận lấy yếu tính đó một cách siêu yếu
tính, và Ngài đã thực hiện các hoạt động của một con người cách siêu phàm (siêu
nhân, surhurmaine). Bằng chứng rõ ràng là việc Ngài đươc sinh hạ đồng trinh
cách kỳ diệu, việc Ngài đi trên mặt nước, lẽ ra nước đã sụt xuống dưới sức nặng
của đôi chân xác thịt và phàm trần của Ngài, nhưng nó lại vững chãi cách diệu
kỳ. Ai có thể kể hết bao nhiêu việc diệu kỳ Ngài đã thực hiện.
Khi nhìn những điều
kỳ diệu ấy bằng con mắt thần linh người ta sẽ nhận ra, theo một cách thức vượt
mọi trí năng, rằng mọi khẳng quyết xác định (affirmation positive) liên quan
đến tình yêu của Ðức Giêsu dành cho con người, đều hàm chứa ý nghĩa của một phủ
định do tính siêu việt [phủ định theo nghĩa là một sự siêu việt mọi xác định].
Tóm lại, Ngài quả
thực không là người, cũng không phải "không là người", nhưng cùng một
lúc, vừa là Con-người (Fils de l homme) vừa là Siêu Nhân (Surhomme) Ngài đã làm
người thực sự trọn vẹn theo một cách thức vượt trên con người. Chúng ta cần
phải nói thêm rằng, không phải Ngài đã thực hiện các hoạt động thần linh trong
tư cách là Thiên Chúa, và thực hiện các hoạt động nhân tính trong tư cách là
con người, nhưng trong tư cách Thiên Chúa-làm-người (Dieu fait l homme) Ngài
cho ta sự thông dự vào sự kỳ diệu phi thường của một hoạt động vừa nhân linh
vừa thần linh cùng một lúc.
Lettre 4, PG 3, 1072AC. Trad. M. de
Gandillac
Oeuvres complètes, p. 329 - 330.
MỘT SIÊU HÌNH HỌC KITÔ
GIÁO.
Thực ra, nét độc đáo của Denys nằm trong "siêu hình học Kitô giáo" và
trong linh đạo của ông. Ông quan tâm chủ yếu đến những thực tại khả niệm
(réalités intelligibles) mà tột đỉnh của chúng là Nhất Thể (l UN), một thực tại
mà ta chỉ có thể đạt đến bằng con đường phủ định : thanh tẩy và loại bỏ. Các
thực tại khả niệm là cái bên trong, cái trên cao, còn thực tại khả giác (le
sensible) là cái bên ngoài và hoàn toàn có tính chất biểu tượng mà người ta chỉ
có thể đọc được khi đã gột bỏ trong một nỗ lực vươn cao. Tự khởi thủy, từ ban
đầu, chỉ có một mình Thiên Chúa, Ðấng là Hữu Thể (Être) sự THIỆN (Bien), Trí
Tuệ và là Sự Sống. Nhưng vì yêu thương, Nhất Thể đã "ra khỏi chính mình" và do lòng quảng đại, Ngài đã
làm phát xuất những thực tại đa tạp mà bản thân vẫn không bị thoái biến, những
thực tại đa phức này luôn tham dự và biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa cho
đến tận giới hạn của vật chất : đó là thời kỳ thứ hai. Tất cả những tạo vật này
vẫn hoàn toàn lệ thuộc vào sự quan phòng phổ quát của Nhất Thể và có khuynh
hướng trở về với Nhất thể trong thời kỳ thứ ba gọi là qui hồi (conversion).
Vũ trụ do Denys phác họa là một vũ trụ được phân
thành phẩm trật theo những bộ ba (triades) rất khéo léo. Các thiên thần, loài
có trí tuệ, tạo thành ba phẩm trật, mỗi phẩm trật ba nhóm, như vậy có chín phẩm
thiên thần. Loài người, cũng là loài có trí tuệ, hay còn được gọi là "Phẩm trật Giáo Hội" (hiérarchie
ecclésiastique) gồm một bộ ba hiến thánh (triade initiative hay consécrateurs)
hoặc tư tế (sacerdotal) : Giám Mục, Linh Mục và các thừa tác viên. Và một bộ ba
được hiến thánh (triade intiée hay consacrés) : các nhà đan sĩ hay bậc hoàn
hảo, các tín hữu hay những nhà chiêm niệm (contemplateurs) hoặc được soi sáng
(illuminée) và cuối cùng là hạng người bất toàn (các tân tòng, những người bị
quỉ ám, các hối nhân).
Phẩm trật nhân loại, vừa thiêng liêng vừa vật chất,
thông dự vào chiêm niệm các thực tại khả niệm đồng thời thông dự vào các biểu
tượng khả giác. Ðây chỉ là bản phác hoạ sơ sài về một vũ trụ mà Denys đã vẻ ra
một cách rất tinh tế, nhưng có lẽ cũng đủ để gợi cho chúng ta nhớ đến những cấu
trúc vĩ đại của triết thuyết Tân-Platon. Những cấu trúc đó hiển nhiên đã gợi
hứng cho tác giả rất nhiều, nhưng ông đã biết Kitô hoá chúng một cách toàn vẹn,
vững chắc.
MỘT LINH ÐẠO.
Dấu ấn Kitô giáo còn đậm nét hơn, thấm sâu hơn,
trong linh đạo xuất phát từ vũ trụ quan này. Con người sống trong thế giới của
những dấu chỉ, trước tiên là các thụ tạo đa phức, phản ảnh của Thiên Chúa, rồi
tới Kinh Thánh và các Danh Hiệu thần linh cũng là những dấu chỉ công bố các
hoạt động của Thiên Chúa, và cuối cùng là các Bí Tích. Con người có thể bị sa
đắm trong thế giới đó, hoặc nếu có đọc các dấu chỉ thì cũng chỉ như một cảm thụ
thẩm mỹ (lecture esthétique) trong đó con người bị tản mác và nấn ná nơi vật
chất. Trái lại, trong chiêm niệm (Theôria) khi trải qua một biện chứng phủ định
và thanh luyện toàn diện, trải qua hiểu biết tột mức, con người có thể vươn từ "tình trạng phàm tục đến kết hiệp thần
nhiệm" (union mystique, nhiệm hiệp). Ðáp lại việc Nhất Thể
"ra khỏi mình và tiến tới trước, con người, vì tình yêu, cũng ra khỏi
chính mình, tách khỏi vật chất, tự biến đổi trong trí tuệ và trong tất cả con
người mình, được soi sáng bởi tác động thần linh, để đạt tới sự hoàn hảo của "con cái của sự Phục Sinh" và
được thần hoá, theo như học thuyết các Giáo Phụ Cappadoce, qua sự hiệp nhất với
Thiên Chúa hằng sống và duy nhất. Như vậy, hầu như cùng một lúc chiêm niệm dẫn
đến kết hiệp trọn vẹn trong xuất thần, và mạc khải viên mãn trong u thẳm. Ở
điểm tột cùng này, các hình ảnh và ý niệm đều tan biến, "giác quan bị trói lại", giã từ
trí tuệ bất lực tận căn và mọi hoạt động trí thức, chỉ còn lại một vô tri toàn
diện để tự trao hiến cho Ðấng siêu việt ánh sáng và siêu vượt mọi tri thức trong
tha tính (ltérité) bất khả giản lược của Ngài. Ở đây chúng ta có thể nhận ra
kho tàng phong phú của triết thuyết Platon đã được rửa tội cách đúng mức và
kinh nghiệm thần bí của một Grégoire de Nysse. Nhưng Denys còn đi xa hơn các
bậc tiền bối trong việc xoá đi các khả năng của con người.
Tuy nhiên, đây không phải là một cuộc phiêu lưu
ngoài lề của một tinh thần đơn độc. Tác giả luôn khẳng định sự vươn lên của con
người là công trình của Thánh Thần, và đặt Thánh Thần vào trong đời sống Giáo
Hội. Phương thế lý tưởng của sự vươn lên đó là các Bí Tích ; những nghi thức
rực rỡ bên ngoài chỉ là chỗ dựa cho "theôria",
cho chiêm niệm, chính chiêm niệm mới biến đổi người tín hữu trong
hữu thể cũng như trong tri thức của mình, và chuẩn bị cho họ đi đến sự kết hiệp.
Còn Bí Tích Thánh Thể, "Bí Tích của các
Bí Tích" (Bí Tích tuyệt hảo, Sacrement des Sacrements) lại
không phải là hiệp thông hay sao ?
Như ta thấy, thần học ngoại thường này không phải
là khối trôi giạt lan man, nhưng gắn vào Kitô học và khoa thần bí của môi
trường mình sống. Nền tảng Platon của nó đã thấm nhập từ từ nơi các Giáo Phụ
Clément d Alexandrie, mặc dù ở đây nó xuất hiện rõ ràng hơn. Kinh Thánh do
truyền thống để lại có mặt khắp nơi. Cuối cùng, nếu tác giả đã khéo ẩn mình
dưới bút danh, thì ông cũng đã chứng tỏ một tinh thần triết lý, một tâm hồn
thần bí, nhạy cảm trước cái đẹp, tuy có hơi sáo ngữ, một trái tim bao dung,
nhuần thấm lòng thương xót của Thiên Chúa "Chúng
ta không đánh một người mù, nhưng cầm tay anh ta để dắt đi".
Pseudo-Denys là một nhà thần học lớn trong chính
nghiên cứu về Thiên Chúa, và chỉ trong lãnh vực đó mà thôi. Ông có chú giải
Thánh Kinh nhưng không đáng kể. Trong tất cả các Giáo Phụ Hylạp, ông là người
tiếp nhận triết thuyết Platon cách cởi mở nhất và đã Kitô hóa nó cách tốt đẹp
nhất trong các lãnh vực triết học tôn giáo và tri thức thiêng liêng. Ðấy chính
là điểm mà ông đã có một ảnh hưởng hết sức sâu xa trên toàn Giáo Hội, nhất là
tại Ðông phương, nhờ nhiều vị trong đó có Maxime le Confesseur, rồi đến Tây
Phương nhờ một nhân vật tiêu biểu là Jean Scote Erigène, và qua đó, thời Trung
Cổ nhận lấy tư tưởng của ông và thời Phục Hưng tiếp tục khai triển.
TRI
THỨC BẰNG VÔ TRI.
Timôthê thân mến, con
hãy không ngừng thực hành chiêm niệm thần bí, hãy rời bỏ các cảm giác, từ bỏ
các hoạt động của trí tuệ, loại trừ tất cả những gì thuộc về khả giác và khả
niệm, hãy từ bỏ những gì hiện hữu và cứ như thế, con hãy vươn lên, vươn hết sức
mình, cho đến mức kết hiệp trong vô tri với Ðấng siêu vượt mọi yếu tính và mọi
tri thức. Vì chính khi ra khỏi mọi sự, ra khỏi bản thân mình, khi con đã từ bỏ
tất cả, gột bỏ tất cả khỏi con người mình, con sẽ vươn tới tận tia sáng u thẳm
của siêu yếu tính thần linh, trong sự trao hiến thuần khiết trọn vẹn.
Không phải không có
những lý do của nó, khi Môsê nhận được lệnh truyền, trước tiên phải thanh tẩy
mình, tiếp đến phải xa lánh mọi ô uế, và sau khi thanh tẩy, ông nghe thấy muôn
tiếng kèn thổi vang, nhìn thấy những ngọn lửa tỏa muôn ngàn chói lọi. Không
phải không có lý do của nó, khi tách khỏi đám đông dân chúng, bấy giờ ông, cùng
với các tư tế đã được tuyển chọn, mới lên đến đỉnh của các đỉnh cao thần linh.
Mặc dù lên đến đỉnh cao như vậy, ông vẫn chưa có được những tiếp xúc với Thiên
Chúa, ông không chiêm ngắm Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa vô hình, ông mới chỉ
chiêm ngắm nơi Thiên Chúa ngự, tôi thiển nghĩ, điều này có nghĩa là trong trật
tự hữu hình cũng như trong trật tự khả niệm, những điều linh thánh nhất, siêu
vời nhất cũng chỉ là những chứng cứ giả thuyết (raisons hypothétiques) về các
ưu phẩm thực sự phù hợp với Ðấng hoàn toàn siêu việt, những chứng cứ đó tỏ lộ
sự hiện diện của Ðấng siêu vượt mọi lý hội của trí óc, vượt trên các đỉnh khả
niệm của những nơi cư ngụ linh thánh nhất của Ngài.
Chỉ bấy giờ, khi đã
vượt qua cái thế giới mình được nhìn thấy và mình nhìn thấy được, Môsê mới vào
trong u huyền đích thực của vô tri, chính ở đây ông làm cho mọi tri thức xác
định (savoir positif) phải im bặt, ông hoàn toàn thoát khỏi mọi lý hội và mọi
cái nhìn, bởi lẽ ông đã trọn vẹn thuộc về Ðấng vượt trên tất cả, không còn
thuộc về chính mình cũng không thuộc về bất cứ điều gì xa lạ, nhưng đã được kết
hiệp, hết mức có thể, với Ðấng vượt mọi hiểu biết, sau khi đã từ bỏ mọi tri
thức xác định, và nhờ ở sự vô tri đó, một sự vô tri còn hữu tri hơn cả mọi trí
tuệ.
Théologie mystique I, PG 3, 997B -
1001.
Trsd. M. de Gandillac, p. 177 - 190.
Nếu xảy ra việc, khi
nhìn xem Thiên Chúa, người ta hiểu được điều mình nhìn thấy, thì đó không phải
là nhìn thấy chính Thiên Chúa mà chỉ là một trong những thực tại khả tri do tay
Ngài tạo ra. Vì chưng, tự bản chất, Thiên Chúa vượt trên mọi trí tuệ và mọi yếu
tính. Ngài hiện hữu, nhưng là một cách siêu yếu tính, và vì vượt trên mọi tầm
hiểu biết, Ngài chỉ được nhận biết như là Ðấng hoàn toàn không thể nhận biết và
như là Ðấng không hiện hữu. Chính sự vô tri hoàn toàn này, hiểu theo nghĩa tốt
đẹp nhất của nó, mới là tri thức đích thực về Ðấng vượt trên mọi tri thức.
Lettre 1, A. Gaios, PG 3, 1065A.
Trad M. Gandillac, p. 327 - 328.
Nói về Thiên Chúa, ca
tụng Ngài khởi đi từ mọi hữu thể, điều đó không phải là sai . Nhưng cách nhận
biết Thiên Chúa xứng với Ngài nhất đó là nhận biết Ngài bằng cách thức vô tri,
trong một sự kết hiệp vượt trên mọi trí năng, trí tuệ, trước hết lìa bỏ mọi hữu
thể, sau đó ra khỏi chính mình, kết hợp với những tia sáng chói lọi hơn chính
ánh sáng, và nhờ những tia sáng này trí tuệ rực sáng trong ực thẳm khôn dò của
Khôn Ngoan.
Noms divins. VII 3, PG 3, 872AB.
Bản dịch : M. de Gandillac, tr. 145.
MỘT
KHOA THẦN BÍ ÐƯỢC LỒNG VÀO TRONG GIÁO HỘI.
Vì chúng ta đã ám chỉ
đến sự hiệp thông (.) nên sau khi đã trình bày các ẩn dụ Thánh liên quan đến
hiệp thông nhờ khoa học thần linh mà Thánh Kinh và phẩm trật cung cấp cho chúng
ta, chúng ta còn phải vươn tới chỗ chiêm ngắm cách thánh thiện xem sự hiệp
thông đó đích thực là gì, dưới sự linh hứng của Thánh Thần Thiên Chúa (L Esprit
théarchique).
Trước hết, chúng ta hãy kính cẩn khởi đầu tìm hiểu
ưu quyền của Bí Tích này [Bí Tích Thánh Thể] vì, hơn mọi Bí Tích khác, Bí Tích
(Thánh Thể) được ưu tiên gán cho riêng mình một đặc tính vốn là đặc tính chung
của mọi Bí Tích trong Giáo Hội. Như ta thấy, Bí Tích đó được gọi cách đơn giản
là "hiệp thông" (synace, communion), trong khi mọi tác động Bí Tích
đều hệ tại ở việc làm cho các mảnh đời tản mác của chúng ta hiệp nhất lại, thu
họp lại tất cả những gì bị phân chia nơi con người chúng ta trong sự đồng hình
đồng dạng với Thiên Chúa, và như thế làm cho chúng ta được đi vào trong sự hiệp
thông, và hiệp nhất với Nhất Thể. Nhưng chúng ta phải nói rằng, sự thông dự vào
các biểu tượng khác [= nghi thức, cử hành Bí Tích] của Giáo Hội chỉ có thể hoàn
tất cách trọn vẹn nhờ vào các ân huệ thần linh và có sức hoàn thiện hóa của
biểu tượng đó [= cử hành Thánh Thể]. Vì bất cứ Bí Tích nào của Giáo Hội cũng
hầu như không thể cử hành nếu không có Hy Lễ Tạ Ơn [Thánh Thể] Cực Thánh, bằng
tác động thần linh của mình, thực hiện trong điểm cốt yếu của nghi thức, sự
thống nhất thiêng liêng nơi người lãnh nhận Bí Tích, nếu không được nghi lễ Tạ
Ơn ban phát những sức mạnh huyền diệu từ nơi Thiên Chúa, và như thế, hoàn tất
việc đưa người lãnh nhận Bí Tích vào trong sự hiệp thông. Mỗi Bí Tích của Giáo
Hội đều bất toàn, theo nghĩa là nó không thực hiện trọn vẹn sự hiệp thông của
chúng ta với Nhất Thể ; vì chính mình là bất toàn nên nó không thể làm cho chúng
ta thành toàn cách toàn diện. Dầu vậy, mục đích của tất cả các Bí Tích và yếu
tố cốt yếu của chúng vẫn luôn luôn là làm cho kẻ lãnh nhận Bí Tích được thông
dự vào các Mầu Nhiệm của Thiên Chúa. Vì thế khoa học tư tế [science secerdotale
= Truyền thống Giáo Hội] đã rất đúng khi gán cho hiệp thông [= Bí Tích Thánh
Thể] một danh xưng thực sự nói lên tác động chính yếu của Bí Tích đó.
Ðối với Bí Tích Thánh
thực hiện nơi chúng ta sự sinh hạ của Thiên Chúa thì cũng vậy : vì nó là Bí
Tích đầu tiên đưa dẫn ánh sáng vào và là nguyên lý của mọi soi sáng thần linh,
vì thế chúng ta có lý khi - dựa vào tác động riêng của nó - để xưng tụng Bí
Tích đó là Bí Tích soi sáng (illumination). Vì chưng, mặc dù mọi tác động của
phẩm trật [= các Bí Tích của Giáo Hội] đều thông truyền ánh sáng thần linh cho
các tín hữu, nhưng Bí Tích này là Bí Tích đầu tiên mờ cho tôi đôi mắt và chính
ánh sáng uyên nguyên của nó cho phép tôi chiêm ngắm ánh sáng mà các Bí Tích
khác chiếu tỏa.
(Hiérarchie ecclésiastique III, 1, PG
3, 424C - 425A.
Trad. de Gandillac p. 262 - 263).
[Ðể hiểu bản văn này,
chúng ta cần lưu ý rằng, theo Denys, Thiên Chúa thực hiện công trình thánh hóa
(thần hóa) cách gián tiếp qua các Bí Tích, với ba tác động chính : Thanh Tẩy
(purification), soi sáng (illumination) và hoàn thiện (perfection, đưa tới hiệp
thông), đây chính là hiệu quả của ba Bí Tích Khai Tâm : Rửa Tội, Thêm Sức
(confirmation, Chrismation) và Thánh Thể (Communion, Synaxe).- Chú thích của
ND].
LỜI
KINH TRANG TRỌNG CỦA MỘT TÂM HỒN THẦN BÍ.
Lạy Ba Ngôi siêu yếu
tính, siêu thần linh và siêu thiện hảo, Ðấng nắm giữ khôn ngoan thần bí Kitô
giáo, xin dẫn dắt chúng con không những vượt trên mọi ánh sáng, nhưng còn vượt
qua sự vô tri, cho đến tận đỉnh cao vời của Thánh Kinh thần nhiệm (mustikon
logion), nơi mà những mầu nhiệm đơn thuần, tuyệt đối và bất hoại của thần tính
tỏ lộ trong U Huyền rất mực chói chang của Thinh Lặng. Quả chính trong Thinh
Lặng người ta mới học biết những bí ẩn của U Huyền (.), một U Huyền rực chiếu
làn sáng chói lọi nhất ngay trong tối tăm u thẳm nhất, và mặc dầu vẫn là U
Huyền nguyên vẹn, bất khả xâm phạm và hoàn toàn vô hình, nhưng nó lại chiếu
những tia huy hoàng diễm tuyệt, chan hoà trí tuệ của những kẻ biết chiêm ngắm
trong mù lòa .
Théologie mystique I, 1, PG 3, 997A.
Trad. M. Gandillac, p. 77.
CÁC VĂN SĨ LATINH KITÔ GIÁO CHÍNH YẾU
TỪ THÁNH LÉON TỚI THÁNH ISIDORE
XỨ GAULE |
Ý * Gélase (Giáo Hoàng) * Boèce |
Tây Ban Nha và Phi
Châu * Fulgen de Ruspe |