THỜI KỲ KHAI SINH
KITÔ GIÁO LA TINH TERTULLIEN
Những biểu hiện đầu tiên của một Kitô giáo sử dụng
ngôn ngữ La tinh ở Tây phương đã có từ thế kỷ II : đặc biệt, ngay từ thời kỳ
này, người ta thấy dấu vết của những bản dịch Thánh kinh bằng tiếng La tinh ở
Bắc Phi và rất có thể là ở Roma nữa. Tài liệu đầu tiên bằng tiếng La tinh của Kitô
giáo có ghi ngày tháng là tập Ký sự về vụ xử án các Kitô hữu ở Scilli (một nơi
ở Phi châu do Roma cai trị) năm 180. Giáo hội Bắc phi chính là nơi đầu tiên mà
việc xử dụng tiếng La tinh trong Kitô giáo được phát triển, và cũng chính từ đó
mà những Giáo phụ La tinh có tầm cỡ đã xuất hiện : một Tertullien, một thánh
Cyprien. Tại Roma, Hyppolyte, nhà thần học và giám mục (ly khai) của thủ đô, tử
đạo và được hoà giải năm 235, vẫn còn soạn tác phẩm bằng tiếng Hy lạp. Phải tới
giữa thế kỷ III, tiếng Latinh mới trở thành ngôn ngữ chung cho các văn sĩ Kitô
giáo ở Roma và Tây phương.
GIÁO PHỤ LA TINH ĐẦU TIÊN.
Đối với chúng ta, Tertullien (Quintus septimius
Florens Tertullienus) là nhân vật đầu tiên được biết đến trong Giáo hội Latinh,
và may mắn lại là một nhân vật mạnh mẽ và độc đáo, một "khí chất" :
đam mê, hiếu chiến, đôi khi thái quá, nhưng lại quảng đại, có tinh thần tông
đồ, một Kitô hữu tự hào về đức tin của mình và luôn saün sàng bảo vệ nó, một
người tìm kiếm tuyệt đối và không bao giờ thoả mãn. Thánh Jérome sau này nói về
ông : "Vir ardens" : Một người bốc lửa. Các trước tác của ông
- khoảng 30 tác phẩm có tầm cỡ khác nhau - phần lớn là những tác phẩm được soạn
do hoàn cảnh, bút chiến, trừ một số trường hợp, chẳng hạn tiểu luận về "Đức
kiên nhẫn" mà tác giả giới thiệu cách hóm hỉnh, khi tự thú nhận rằng
mình chẳng thể nào thực hành được nhân đức này, một nhân đức - chúng ta sẽ lưu
ý điều này - vừa của Phúc âm, vừa điển hình của phái Khắc Kỷ.
NHỮNG VĂN SĨ KITÔ GIÁO LA TINH ÐẦU TIÊN
TỪ CUỐI THẾ KỶ II TỚI ÐẦU THẾ KỶ IV
Ở ROMA
|
Ở BẮC PHI
|
MỘT VÀI TÁC PHẨM
VÔDANH - Cuộc khổ nạn của các Thánh nữ Perpetue
và Félicité ở Carthage (202/203) |
PHẦN CÒN LẠI CỦA TÂY
PHƯƠNG -Thánh Victorin de Pettau (Syria) giám
mục, tác giả một cuốn chú giải sách Khải huyền, tử đạo năm 304. - Kinh bộ
được gọi là kinh bộ Muratori, danh mục đầu tiên về các tác phẩm được công
nhận là chính lục của Tân Ước (muộn nhất là khoảng năm 200). Muratori là một
học giả thế kỷ 18 đã khám phá ra cảo bản |
Tertullien là vị tiên phong xuất sắc của các
Giáo phụ Latinh ; ông giữ một địa vị rất vẻ vang trong lịch sử tổng quát của
nền văn chương cổ thời. So với Justin, nhà biên soạn cần cù, không có gì sáng
chói, hoặc với Irénée, không gì khác ngoài một văn sĩ trung thực, thì sự mạnh
mẽ, đầy cảm hứng của văn phong, sự hăng say và khôn khéo trong bút chiến, sự
trong sáng trong kết cấu, năng khiếu đặc biệt về các công thức, đem lại cho
Tertullien một vị trí trỗi vượt không thể chối cãi. Tuy nhiên, đọc tác phẩm của
ông không phải là điều dễ dàng,ngược lại là khác. Sở dĩ như thế là vì văn của
ông rất đặc biệt và hết sức cô đọng (Vincent de Lerins sau này có nói : Hầu như
có bao nhiêu từ là bấy nhiêu ý tưởng), và nhất là vì ông thuộc vào số những
người đầu tiên dùng tiếng La tinh để trình bày tổng thể tư tưởng Kitô giáo. Để
làm điều này, ông dựa vào các bản dịch Thánh Kinh đã có, nhưng đồng thời cũng
tạo ra một phần ngôn ngữ thần học của ông về Thiên Chúa, tạo dựng, nhập thể,
các thực tại thuộc về Giáo Hội và bí tích . Ông đã truyền lại cho chúng ta
những từ ngữ cơ bản như "Ba Ngôi" (Trinitas) hay "Bí
tích" (Sacramentum). Nói như thế để cho thấy đóng góp của ông trong
việc diễn tả đức tin Kitô Giáo bằng ngôn ngữ Latinh quan trọng như thế nào.
Tertullien sống ở Carthage, ông là người trở lại đạo
giống như nhiều Kitô hữu đương thời. Trong cuốn "Hộ giáo", ông
nói với các độc giả ngoại giáo mà ông nhằm gửi đến : "Tôi từ hàng ngũ
các bạn mà ra, người ta không sinh ra là Kitô hữu, người ta trở thành (Kitô
hữu)". Văn hóa của ông hoàn toàn là văn hóa cổ điển thời đó, văn
chương là trên hết. ("Tôi còn nhớ đến Homère của tôi") ; ông
rất thông thạo tiếng Hylạp, có thể đọc các nhà Hộ Giáo Kitô giáo thế kỷ II và
Irénée. Nhờ ông, thần học Latinh bước đầu đã không bị cắt đứt khỏi các nguồn
Hylạp. Ngược lại, một trong những sức mạnh của thần học các Giáo phụ Latinh cho
tới cuối thế kỷ IV là sự thấm nhuần truyền thống Hylạp. Tác phẩm của Tertullien
cũng như các tác phẩm của Hilaire, Ambroise hay Jérome, là một gạch nối giữa
hai truyền thống lớn của Kitô giáo cổ thời.
Tertullien có một kiến thức vững chắc về triết học
cũng như có những hiểu biết về pháp luật mà ông lợi dụng ngay cả trong những lý
luận thần học, chẳng hạn, trong khảo luận "De praescriptione
hoereticorum" (Về thời hiệu của các kẻ lạc giáo).
Ông có gia đình và đã để lại cho chúng ta một tác
phẩm về hôn nhân gởi cho vợ ông. Theo thánh Jérome thì ông là một linh mục,
nhưng chính Tertullien lại không có một ám chỉ nào về điều đó và cũng không
nhận sự uỷ nhiệm nào trong Giáo Hội. Đúng hơn, ông hành động như một văn sĩ
giáo dân độc lập, thậm chí quá độc lập nữa, phê bình và tranh biện, đem tài
năng phục vụ đức tin theo cách mà ông cho là tốt nhất. Tắt một lời, trong cộng
đồng Kitô hữu ở Carthage, ông là một nhân vật tự do, không bảo thủ. Hoạt động
của ông trãi dài cả hai chục năm, khoảng từ năm 197 đến 220.
TERTULLIEN NHÀ HỘ GIÁO.
Năm 197, ông xuất bản liên tiếp ba tác phẩm : một
cuốn khích lệ "Gửi các vị Tử Đạo", một cuốn hộ giáo "Gửi
các dân tộc" và nhất là cuốn Apologeticum, một lời biện hộ đầy rung
cảm và mạnh mẽ chống lại sự bất công của việc bách hại : chắc chắn đây là tuyệt
tác của ông. Ít lâu sau, ông viết một tiểu luận độc đáo nhan đề "Chứng
từ của tâm hồn tự bản chất là Kitô hữu", có thể coi đây là một cố gắng
hộ giáo dựa vào chứng lý nội tại : khởi từ tâm linh tôn giáo tự nhiên nơi con
người chưa bị ngoại giáo làm sai lệch, ông cho rằng niềm tin vào Thiên Chúa độc
nhất, vào sự sống đời sau, vào sự thưởng phạt sau khi chết là điều nằm sâu
trong bản chất con người. Sau này, ông còn soạn thảo một tuyên ngôn đòi "quyền
tự do tôn giáo" dưới hình thức một lời kêu gọi gửi vị Tổng Trấn Phi
Châu (Ad Scapulam). Những đề tài và luận cứ ông triển khai là những gì đã được
trình bày trong Apologeticum : pháp chế về bách hại đạo là bất công và bất hợp
lý, bác bỏ những điều vu khống của quần chúng bằng cách mô tả đời sống của
người Kitô hữu, phê bình các tôn giáo dân ngoại và bản chất đích thực của việc
tôn thờ phải đâng lên Thiên Chúa ; đòi hỏi libertas religionis, tức quyền được
tôn kính Thiên Chúa theo lương tâm mình, cuối cùng, can đảm từ chối việc tôn
thờ hoàng đế, không coi thế quyền là thần thánh (désacralisation du pouvoir
temporel). Tertullien phân biệt lãnh vực luật pháp và lãnh vực luân lý, đòi hỏi
cho lương tâm được quyền chống lại luật bất công. Hơn nữa, ông quả quyết rằng,
ý thức công dân đích thực hệ tại ở lòng tôn trọng hoàng đế vì chức vụ của ông
ta, và về mặt này, lòng trung thành của người Kitô hữu không có gì đáng chê
trách : họ cầu nguyện cho hoàng đế cũng như tham dự vào tất cả đời sống xã hội.
Điều mà Tertullien làm : bênh vực cho thái độ khoan dung đối với tôn giáo và
tính thế tục của Nhà Nước, đã không hề mất đi tính thời sự của nó.
ÓC KHÔI HÀI CỦA MỘT GIÁO PHỤ
Tertullien dẫn nhập khảo luận về đức kiên nhẫn :
"Tôi xin thú nhận trước Chúa là Thiên Chúa :
phần tôi có lẽ hơi táo bạo nếu không muốn nói là trơ trẽn khi liều viết về đức
kiên nhẫn, tôi, một kẻ không thể nào kiên nhẫn nổi . thế mà khi muốn mô tả và
muốn khuyên bảo làm điều gì lành, người ta hẳn phải khởi đầu bằng việc cho thấy
chính mình đã thực hành điều đó, lấy chính cách sống của mình làm thế giá bảo
đảm cho lời khuyên bảo, vì sợ phải ngượng miệng trước sai sót của hành vi . trừ
phi có một số điều lành, cũng như của một số điều dữ lớn lao vượt quá sức lực
của chúng ta. Để chịu đựng những điều này, để thực hành những điều kia, chỉ có
ân sủng của Thiên Chúa phú ban mới có hữu hiệu . thôi thì ít ra tôi cũng có
niềm an ủi là được bàn về một điều lành mà tôi không được phép hưởng, cũng phần
nào như những bịnh nhân huyên thuyên bất tận về các lợi ích của sức khoẻ mà họ
không có".
SỰ THAI NGHÉN MỘT NGÔN NGỮ ĐỨC TIN
Praxeas (một thần học gia theo hình thái thuyết bị
Tertullien chống lại) "nghĩ rằng người ta chỉ có thể tin vào một Thiên
Chúa độc nhất khi đồng hóa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần như là cùng
một Đấng. Chớ gì nhiệm cục qua đó nhất thể thành tam vị được tôn trọng nhất thể
trải ra thành ba : Chúa cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ! Tôi nói Ba, không
theo bản tính nhưng là theo thứ vị, không theo bản thể nhưng là theo bản tính riêng
của các vị, không theo quyền năng nhưng là theo sự tỏ lộ của các vị. Vì vậy,
các vị chỉ là một bản thể độc nhất, một bản tính độc nhất và một quyền năng độc
nhất ; vì chưng chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và chiếu theo Ngài mà những thứ
vị, những đặc tính và những tỏ lộ đó được gán cho danh xưng Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần".
(Chống Praxeas II, 3)
TRÍCH ĐOẠN TÁC PHẨM HỘ GIÁO (APOLOGÉTIQUE)
"Chớ gì người này được tự do tôn thờ Thiên
Chúa và người kia tôn thờ Jupiter : người này có thể giang đôi tay hướng về
trời cao và người khác hướng về bàn thờ của lòng thành tín : chớ gì người này
được phép đếm mây trời khi cầu nguyện (nếu quý vị nghĩ là anh ta làm điều đó)
và người khác đếm những viên đá ốp tường; chớ gì người này có thể hiến dâng
chính linh hồn mình cho Thiên Chúa và người khác dâng mạng sống của một con dê
! Coi chừng quý vị đã phạm tội ác vô đạo khi tước mất của người ta quyền tự do
tôn giáo và cấm họ lựa chọn thần minh, nghĩa là không cho phép tôi tôn kính
Đấng mà tôi muốn tôn kính, ép tôi tôn kính thần mà tôi không muốn tôn kính.
Chẳng có ai muốn sự tôn kính do cưỡng ép cả, ngay một con người cũng thế .
Chúng tôi dâng lời cầu khẩn lên Thiên Chúa cho phần rỗi các hoàng đế, Thiên
Chúa hằng hữu, Thiên Chúa chân thật, Thiên Chúa hằng sống, mà chính các hoàng
đế cũng mong ước ân huệ của Ngài hơn là ân huệ của mọi thần thánh khác. Các vị
đó biết Đấng nào đã ban đế quốc cho các vị ; là người, các vị cảm thấy chỉ có
Đấng đó mới là Thiên Chúa ; các vị đứng hàng thứ hai, chỉ dưới quyền Ngài mà
thôi, và sau Ngài, các vị đứng hàng đầu . Hoàng đế chỉ vĩ đại trong mưc độ ông
đứng dưới trời cao : quả vậy, chính bản thân ông cũng thuộc về Đấng là Sở Hữu
Chủ của trời cao và mọi tạo vật. Ông là hoàng đế nhờ Đấng đã tác tạo ông thành
người trước khi cho ông làm hoàng đế ; quyền lực của ông có cùng căn nguyên với
sinh khí ông lãnh nhận. Đó chính là vị Thiên Chúa mà người Kitô hữu chúng tôi
ngước mắt nhìn lên ; đôi tay giang rộng vì đó là những bàn tay tinh sạch ; đầu
để trần vì chúng tôi không có gì phải xấu hổ ; không có người "nhắc
tuồng" (souffleur) bên tai, vì chúng tôi cầu nguyện bằng tâm hồn. Bằng lời
cầu nguyện liên lỉ, chúng tôi cầu cho các hoàng đế được trường thọ khang an,
triều chính yên ổn, cung điện vững chắc, binh sĩ can trường, nghị viện trung
kiên, thần dân trung thành, vũ trụ thái hòa, cuối cùng, cầu cho các vị được tất
cả những gì mà một con người hay một César có thể mong ước . Nếu như chúng tôi
muốn hành động, tôi không nói là hành động như những kẻ bí mật phục thù như
những địch thủ công khai, chẳng lẽ chúng tôi lại thiếu số binh đoàn, binh đội ư
? . Chúng tôi mới xuất hiện gần đây, nhưng nay đã tràn ngập mặt đất và tất cả
những gì thuộc quyền quý vị : thành phố, hải đảo, lũy đồn, đô thị, thị trấn, và
cả những dinh trại . cung điện, nghị viện, công trường : chỉ có các đền miếu là
chúng tôi chừa lại cho quý vị ! . Dù không có khí giới, không nổi dậy, chỉ cần
tách ra khỏi quý vị chúng tôi hẳn đã có thể chống lại quý vị bằng sự tuyệt giao
trong thù hận .
Apologétique
24, 5-6 ; 3C, 1-4 ; 37, 4-6
Dịch từ
"Les Belles Lettres"
TERTULLIEN TRIẾT GIA.
Cũng như Justin, Tertullien đi đến chỗ đối chiếu
đức tin Kitô giáo với lý trí và triết học thế tục, nhưng cách ông thực hiện
khiến người khác có thể hiểu lầm và coi ông như một địch thủ hăng say chông lại
lý trí và triết học, con người của credo quia absurdum, một công thức đã được
gán cho ông : Tôi tin chính là vì đức tin nghịch lại với lý trí.
Trong cuộc bút chiến chống lại ngoại giáo cổ thời,
vì không kìm được ngòi bút châm biếm và lối gọi tên cách khiêu khích, tất nhiên
Tertullien không khỏi có những điều quá đáng đối với các triết gia, chế diễu
triết thuyết của họ, buộc tội các triết thuyết này là nguồn cội sinh ra mọi thứ
lạc giáo và qua đó, gợi cho thấy một bản tổng kết có vẻ hoàn toàn tiêu cực về
tư tưởng ngoại giáo. Chẳng hạn trong cuốn "La précription des
hérétiques" (Về thời hiệu của những người lạc giáo), người ta đọc thấy
một lời công kích nẩy lửa kết thúc bằng câu tán thán nổi tiếng : "Có gì
chung giữa Athènes và Jérusalem, giữa hàn lâm viện và Giáo Hội !." và
trong khảo luận về "Thân xác Đức Kitô", chống phái ảo thân,
lời tuyên tín cố ý nghịch lý như thế này : Con Thiên Chúa đã bị đóng đinh, đã
chết và đã sống lại ư ? "Chắc chắn như thế vì đó là điều bất khả"
dưới mắt của lý trí ! Người ta không lưu ý đủ là, trước những quan điểm lệch
lạc, dựa vào những tiêu chuẩn quả thực là quá "hữu lý" nếu
không muốn nói là duy lý để rồi loại bỏ một số khía cạnh của mầu nhiệm Kitô
giáo, thì những trang trong đó Tertullien dùng "lối nói quá"
như thế rõ ràng là để khai thác nghịch lý mà thánh Phaolô đưa ra : điều trước
mắt con người là "điên rồ" lại là "khôn ngoan" của
Thiên Chúa. Chướng kỳ của Thập Giá, một sự điên rồ đối với người Hylạp, theo
Tertullien, lại chính là dấu chỉ tính siêu việt của mầu nhiệm cứu độ và vì vậy
là lý do để tin, không khác gì việc sinh ra làm người của Con Thiên Chúa và sự
phục sinh của Ngài. Phải đọc những trang đó dựa trên nền tảng 1Cor 1-2 và 2Cor
6-14tt. Khi viết thêm trong cuốn "Về thời hiệu của những người lạc
giáo" . "Sau Phúc Âm, chúng ta không còn cần phải . tìm
kiếm". Tertullien muốn khẳng định sự viên mãn của chân lý đức tin
trong Phúc Âm trước sự khẳng quyết của phái Ngộ đạo thuyết mang lại một mặc
khải cao hơn mặc khải của Phúc Âm.
Nói như thế phải chăng tác giả của chúng ta thích
thú với việc lật đổ lý trí, phủ nhận mọi nhận thức về chân lý luân lý và tôn
giáo bên ngoài Kitô giáo, phủ nhận giá trị của nỗ lực hiểu biết đức tin ? Tất
cả công trình triết học và thần học của ông cho thấy hoàn toàn ngược lại.
Một minh chứng hết sức thuyết phục về điểm này đó
là việc ông am hiểu triết học khắc kỷ và thích sử dụng triết thuyết này, một
triết thuyết mà ông minh nhiên nhìn nhận là có những điểm tương đồng với luân
lý của Kitô giáo (Ông khẳng định thẳng : "Sénèque thường là người của
chúng ta") và hoàn toàn chia sẻ sự sùng bái lý trí của phái khắc kỷ :
lý trí tiên vàn là của Thiên Chúa. Thiên Chúa là lý trí : chính vì vậy thế giới
là hữu lý (rationel) và nơi con người, với đặc điểm là hữu thể có lý trí, tri
thức tự nhiên là một con đường dẫn tới Thiên Chúa (liên hệ với "Linh
hồn tự bản chất là Kitô hữu") và tri thức đó không tự mâu thuẩn với
đức tin : "Thiên Chúa của thiên nhiên không phải là một Đấng khác với
Thiên Chúa chúng ta". Không nên đánh giá Tertullien dựa vào những kiểu
nói gay gắt hay nghịch lý của ông, nhất là những câu nói ấy lại bị tách ra khỏi
văn mạch. Tuy nhiên, cũng phải nhận rằng đứng trước nền văn hóa ngoại giáo ông
không có được sự bình tĩnh của một thánh Justin : phải chăng, ở khúc quanh của
thế kỷ III, ý thức Kitô giáo có lẽ nhạy cảm hơn trước những khó khăn và những
nguy cơ của một thuyết tương hợp (concordisme) quá đơn giản ? Việc Tertullien
phản đối mọi hình thức giản lược Kitô giáo thành "một loại triết
học" là rất chính đáng. Nếu Justin quan tâm tìm kiếm sự đồng qui và
đối thoại, thì Tertullien lại tha thiết với sự gìn giữ tính độc đáo của Kitô
giáo, tính "bất ngờ" của mạc khải. Do đó mà lập trường của ông
khó được người nghe chấp nhận hơn nhưng không hề rơi vào chủ trương duy tín.
NGHỊCH LÝ CỦA NHẬP THỂ
Chống lại những kẻ phủ nhận thực tại thân xác Đức
Kitô.
"Hãy coi chừng, Marcion, nếu ít ra ngươi đã
không tẩy xóa bản văn : "Thiên Chúa đã chọn điều điên rồ trước mắt thế
gian để làm cho sự khôn ngoan của nó phải hổ ngươi bẻ mặt" . Vậy ngươi hãy
tìm điều mà Ngài gọi là điên rồ đi, và nếu ngươi cho là mình đã tìm thấy, vậy
thì có gì điên bằng việc tin vào một vị Thiên Chúa đã sinh ra chăng ? . Liệu
còn điều gì khác Thiên Chúa có thể chọn để thách thức sự khôn ngoan của thế
gian này chăng ? . Có chứ, còn những điều điên rồ khác cũng điên như điều trên,
liên quan đến những sỉ nhục mà Thiên Chúa phải chịu trong cuộc khổ nạn của
Ngài. Nếu điều đó không đúng, thế thì phải gọi một Thiên Chúa bị đóng đinh là
khôn ngoan chứ ! Hãy gạt bỏ cả điều đó đi, Marcion ! Biết nói thế nào nhỉ ? Hẳn
ngươi thích gạt bỏ điều đó hơn, vì điều nào là xứng đáng hơn với Thiên Chúa và
khiến Ngài phải hổ thẹn hơn ? Việc sinh ra hay việc chết đi ? Việc mang thân
xác hay việc mang thập giá ?. Việc nằm ngủ trong máng cỏ hay việc nằm chết
trong mộ ? Ngươi hẳn sẽ còn khôn ngoan hơn nữa, nếu ngươi chối không tin cả
những điều điên rồ đó. Nhưng có lẽ ngươi sẽ chẳng thể nào nên khôn ngoan nếu
ngươi không nên điên dại trong thế gian này khi tin vào những điều điên rồ của
Thiên Chúa .
Thiên Chúa chẳng phải đã bị đóng
đinh thực sự hay sao ? Chẳng phải Ngài cũng đã chết thực sự như Ngài đã bị đóng
đinh thực sự hay sao ? Chẳng phải Ngài cũng thực sự sống lại như Ngài đã thực
sự chết hay sao ? Chẳng lẽ việc Phaolô lớn tiếng tuyên bố với chúng ta rằng
không biết gì khác ngoài Đức Giêsu bị đóng đinh lại là điều sai lầm hay sao ?
Không lẽ việc ông đặt Ngài vào trong mồ là điều sai lầm và việc ông dạy chúng
ta về sự sống lại cũng sai lầm hay sao ? Nếu thế thì đức tin của chúng ta cũng
sai lầm ? Và tất cả những gì chúng ta hy vọng nơi Đức Kitô sẽ chỉ là ảo vọng .
Ngươi hãy làm ơn chừa lại niềm hy vọng độc nhất của vũ trụ ! . Tất cả những
điều bât xứng với Thiên Chúa đều trở thành ích lợi cho tôi. Tôi đã được cứu
thoát vì đã không chút hổ thẹn về Chúa tôi . Con Thiên Chúa đã bị đóng đinh ư ?
Tôi không hổ thẹn vì điều đó, vì đó là điều đáng phải hổ thẹn. Con Thiên Chúa
đã chết ư ? Điều đó đáng phải tin vì đó là điều phi lý. Ngài đã được chôn táng,
Ngài đã sống lại ư ? Chắc chắn là thế, vì đó là điều bất khả.
Về thân
xác Đức Kitô IV, 5 - V, 4
Theo
Sources Chrétiennes n. 216, p. 225 - 229
BÚT CHIẾN VỀ GIÁO LÝ.
Nhà thần học Phi Châu của chúng ta tiếp tục cuộc
chiến đấu của các vị tiền bối, đặc biệt là của Irénée, chống lại Ngộ đạo và chủ
thuyết Marcion. Chình vì muốn chống lại sự huỷ hoại đức tin của chủ thuyết
Marcion mà ông đã làm việc khoảng từ năm 200 đến năm 210 để soạn ra tác phẩm đồ
sộ nhất của mình và là tác phẩm quan trọng hàng đầu trong thời kỳ đó, đó là
cuốn "Chống Marcion".
Như những người đi trước, Tertullien tiếp tục bác
bỏ Marcion, nhưng dường như ông dựa vào nhiều tài liệu hơn. Ông cho thấy Tân
Ước, ngay cả khi bị giới hạn vào số bản văn mà Marcion công nhận, vẫn bác bỏ
thuyết Marcion, và vạch rõ bộ mặt của chủ thuyết này, xét cho cùng, là bộ mặt
duy lý : dựa vào những tiêu chuẩn cá nhân, Marcion tự cho mình là người có
quyền phán quyết về Thánh Kinh và về đức tin. Lời đả kích trong cuốn "Thân
xác Đức Kitô" nói trên chính là nhắm vào Marcion.
Các giáo phái đua nhau nẩy nở, giáo lý sai lạc lan
tràn, đó là một trong những mối bận tâm chính của Tertullien, và đã khiến ông
đi đến chỗ cố soạn một tác phẩm nhằm đưa ra những lý chứng cơ bản để một cách
nào đó bác bỏ mọi thứ "lạc giáo" (bấy giờ người ta chưa phân
biệt bao nhiêu giữa lạc giáo và ly giáo) : nhờ đó có thể tránh được việc tranh
luận từng bước với mỗi lạc giáo, đó chính là khảo luận về : "Thời hiệu
của các kẻ lạc giáo". "Thời hiệu" ở đây chỉ một sự bác bỏ
trước việc khởi tố ở tòa án. Tương tự như Irénée, Tertullien khai triển một
quan niệm rất rõ về đức tin tông truyền được truyền đạt cách sống động
giữa lòng Truyền Thống Giáo Hội : như vậy, một cách nào đó người ta có quyền
bác bỏ trước mọi thứ giáo lý và giáo phái cố ý nằm ngoài Truyền thống đó.
Dù đã đưa ra suy tư căn bản như vậy, Tertullien vẫn
không tránh được việc phải đương đầu với những lệch lạc mới nẩy sinh vào đầu
thế kỷ III, những lệch lạc này, tuy không còn đụng đến những nền móng của đức
tin, nhưng lại giải thích điểm này hay điểm nọ theo một cách thức mà Giáo Hội
không còn nhận ra niềm tin mình đã lãnh nhận từ các Tông Đồ : Từ đây, đối tượng
mà các Giáo Phụ sẽ phải đương đầu chủ yếu là loại "Lạc giáo" này.
Nhưng trong lúc này, các vấn nạn nêu lên đụng đến Mầu Nhiệm Đức Kitô, trọng tâm
của Kitô Giáo : những vấn nạn đó xuất hiện dưới những hình thái mới mẻ và luôn
luôn biến hóa của thuyết ảo thân : đó là dưỡng tử thuyết (adopptianisme) phủ
nhận thần tính của Đấng Cứu Thế, và hình thái thuyết (modalisme), biến niềm tin
vào Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần thành một độc thần thuyết độc ngôi
(monothéisme unipersonnel). Bấy nhiêu hình thái "giản lược"
đức tin chung đã bị loại bỏ vào thế kỷ III nhờ phản ứng tự nhiên của đức tin,
cộng với nỗ lực của các nhà thần học. Tertullien, qua cuộc chiến đấu chống lại
ảo thân thuyết và hình thái thuyết, đã mở ra những con đường cho Kitô học và
thần học Latinh về Chúa Ba Ngôi. Ông đã cung cấp cho các khoa thần học đó một
ngôn ngữ : hai "bản tính" và một "ngôi vị"
nơi Đức Kitô, một "bản thể" và ba "ngôi vị" nơi
Thiên Chúa ; và như vậy , ông giúp cho người Latinh tránh khỏi những tranh luận
gay go của người Hylạp về thuật ngữ trong lãnh vực này.
CHỦ THUYẾT MARCION
Là một Kitô hữu gốc Tiểu Á, Marcion truyền bá tư
tưởng của mình đến tận Rôma trong tiền bán thế kỷ II. Marcion tin mình đã khám
phá thấy có sự đối lập sâu xa giữa Cựu và Tân Ước, và cho rắng Tân Ước phần nào
bị lây nhiễm Cựu Ước, vì thế ông chỉ công nhận các thư - đã bị lược bỏ - của
Phaolô, và Phúc Âm
- cũng bị lược bỏ như vậy - của Luca, bạn đồng hành
của Phaolô, là những Sách Thánh đích thực. Như thế, vấn đề "quy điển"
các Sách Thánh được đặt ra. Marcion đi đến chỗ đưa ra những luận đề gần với
những luận đề của phái Ngộ Đạo đối lập giữa Thiên Chúa Cha và Đấng Tạo Dựng ;
hạ thấp giá trị của tạo dựng, phủ nhận việc nhập thể đích thực của Con Thiên
Chúa .
Irénée trình bày giáo lý của Marcion như sau :
Marcion, gốc ở Pont, đã khai triển giáo lý của mình
bằng những lời báng bổ trơ tráo chống lại vị Thiên Chúa mà Lề Luật và các Tiên
Tri loan báo : một Đấng thích làm điều ác, ưa gây gỗ, hay thay đổi trong các
quyết định và mâu thuẩn với chính mình. Về phần Đức Giêsu, Ngài phát xuất từ
Cha, Đấng ở trên vị Thiên Chúa tạo dựng thế giới, Ngài đã đến xứ Giuđê, thời
quan Ponce Philate . : Ngài đã xuất hiện dưới hình dáng con người cho các cư
dân xứ Giuđê, huỷ bỏ các tiên tri, Lề Luật và mọi công trình của vị Thiên Chúa
tạo dựng thế giới . Hơn nữa, (Marcion) cắt bớt Phúc Ân theo Luca, hủy bỏ tất cả
những điều viết về việc Chúa sinh ra, bỏ phần lớn giáo huấn của Lời Chúa trong
đó nói đến việc Ngài tuyên bố một cách hết sức rõ ràng rằng Đấng Tạo Dựng nên
vũ trụ này là Cha của Ngài . Tương tự như thế, ông ta cắt bớt các thư của Tông
Đồ Phaolô, bỏ tất cà những gì vị Tông Đồ rõ ràng nói về Thiên Chúa, Đấng đã
dựng nên vũ trụ, biết rằng, Ngài là Cha của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và bỏ
tất cả những chỗ vị Tông Đồ nhắc lại các lời tiên báo việc Chúa đến . (ông ta
dạy rằng) ơn cứu độ chỉ dành cho những linh hồn học biết giáo lý của ông ta :
đối với thân xác, vì được rút từ đất nên nó không thể tham dự vào ơn cứu
độ".
"Chống lạc giáo" 1.27.2
NHỮNG LẠC GIÁO LỚN ĐẦU TIÊN.
Những quan niệm phi-chính-thống chính về Thiên Chúa
và về Đức Kitô bị Tertullien và các Giáo Phụ thế kỷ III chống lại :
- ẢO THÂN THUYẾT
(Docétisme) : là một trong những sai lạc cổ xưa nhất về đức tin vào Đức Kitô,
và từng bị thánh Gioan và Ignatio thành Antioche chống lại. Ảo thân thuyết xuất
hiện dưới nhiều hình thái rất khác nhau, có những hình thái phát xuất từ lòng
đạo đức đi theo cảm hứng lệch lạc, có những hình thái dựa vào một học thuyết
suy tư chặt chẽ, nhưng tựu trung đó là thuyết giản lược, hoặc ngay cả phủ nhận
thực tại nhân loại của Ngôi Lời Nhập Thể, đặc biệt là phủ nhận thực tại thân
xác của Ngài : sinh ra, khổ nạn và cả phục sinh nữa. Họ tưởng làm cho Nhập Thể
thêm phần thần linh bằng cách bớt đi phần nhân loại, đi ngược lại với lời của
Gioan : "Ngôi Lời đã thành xác phàm".
- NHỊ NGUYÊN THUYẾT
(Dualisme) của Ngộ Đạo hay của Marcion : phân biệt và đối lập giữa Thiên Chúa
Cha của Đức Giêsu Kitô, được mạc khải trong Tân Ước, và một Đấng Tạo Dựng kém
hơn và bất toàn, Đấng đó hẳn là tác giả của Cựu Ước và của trần giới.
- HÌNH THÁI THUYẾT
(Modalisme) : khuynh hương thần học xuất hiện ngay từ thế kỷ II và vẫn còn khả
năng quyến rũ con người hiện đại. Minh nhiên hay mặc nhiên, nó thoát thai từ ý
tưởng này là : chỉ có thể cứu vãn niềm tin độc thần (một Thiên Chúa duy nhất)
bằng cách loại bỏ mọi phân biệt thực sự giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần. Cả ba chỉ là những khuôn mặt nối tiếp nhau mạc khải Thiên Chúa, chỉ là
những hình thức hay hình thái tỏ hiện của Ngài. Người ta gọi khuynh hướng này
là "thuyết độc ngôi" (Monarchianisme, một nguyên lý thần linh duy
nhất), là "khổ phụ thuyết" (Patripassianisme, vì người ta cũng có thể
nói là chính Chúa Cha chịu khổ nạn, là "thuyết Sabellius"
(Sabellianisme, lấy tên của Sabellius, một thần học gia hàng đầu theo hình thái
thuyết thế kỷ III).
- DƯỠNG TỬ THUYẾT
(Adoptianisme) : một lối giải thiùch về mầu nhiệm Đức Kitô, cũng xuất hiện từ
thế kỷ II, nhưng không tồn tại quá thế kỷ III. Đức Kitô chỉ được coi như một
người bình thường, một tiên tri, được nâng lên (được nhận : adopté) vào hàng
Con Thiên Chúa, nhờ ân sủng và do công phúc của Ngài, lúc Ngài chịu phép rửa
hoặc lúc phục sinh. Cũng như ảo thân thuyết và hình thái thuyết, dưỡng tử
thuyết có thể đã bắt nguồn vừa từ những môi trường Dothái hóa, vừa từ những môi
trường Hylạp chính danh.
MỘT NHÀ THẦN HỌC "DẤN THÂN".
Công trình của Tertullien, dựa theo phân nửa số tựa
đề, gồm những tác phẩm về các đề tài liên hệ đến đời sống Kitô giáo trong một
Giáo Hội đầy dẫy những luồng tu đức khác nhau và đang sống giữa lòng thế giới
dân ngoại. Rất nhạy bén với những vần đề thuộc lương tâm Kitô giáo, ông đề cập
thẳng vào các vấn đề đó, quyết đoán theo tính cách độc lập và hăng hái của
mình. Một nhúm "độc hại" ở Carthage bác bỏ sự cần thiết của
Phép Rửa ư ? Ông trả lời bằng một tập sách nhỏ "Về Phép Rửa Tội",
rất quý giá đối với lịch sử thần học và việc thực hành bí tích : trong tác phẩm
này, ông là Giáo Phụ duy nhất đề cập qua việc rửa tội cho các em bé là không
thích hợp. Ông cũng dự vào các cuộc tranh luận liên hệ đến việc tha tội, tái
hôn, trốn chạy trước cơn bách hại . chúng ta sẽ trở lại những vấn đề này sau.
Ông cũng không tránh né tất cả những gì đụng chạm
tới đời sống của các Kitô hữu trong một xã hội mà khía cạnh tôn giáo -tôn giáo
dân ngoại- thường pha trộn vào những sinh hoạt công cộng. Ông cố gắng xác định
một nền luân lý cho các Kitô hữu trong thế giới thời đó : họ có được tham dự
những cuộc vui chơi công cộng, có được đi lính, làm thầy dạy, làm công chức hay
quan tòa không ? Dường như ông đã không vượt qua được sự mâu thuẩn nào đó giữa
ý muốn hay sự cần thiết phải dấn thân vào đời sống xã hội và một Kitô giáo mang
tính tiên tri (christianisme prophétique), bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi bị lây
nhiễm, và do đó có khuynh hướng đề cao sự đoạn tuyệt, tách rời hơn. Vì vậy,
trên nguyên tắc ông không kết án việc thi hành các chức vụ công quyền, nhưng
ông đặt những điều kiện đến nỗi trên thực tế việc thi hành các chức vụ đó không
thể làm được. Ông cho phép người Kitô hữu hấp thụ văn hóa thế tục, nhưng không
được dạy, vì làm thầy dạy thì phải lụy vào văn hóa đó hơn học trò.
HẠNH PHÚC CỦA ĐÔI VỢ CHỔNG KITÔ HỮU.
Mặc dầu Tertullien ngày càng có những lời lẽ quá
đáng khi nói về hôn nhân hay về người phụ nữ, nhưng ông đã để lại cho chúng ta,
trong tập sách nhỏ gửi "Người bạn đời của mình", một trong những lời
tán dương cổ xưa nhất về đôi vợ chồng Kitô hữu.
Biết diễn tả thế nào cho đủ hạnh phúc của hôn nhân
mà Giáo Hội ưng chuẩn, lễ dâng chứng thực và chúc lành niêm ấn ? Các thiên thần
công bố, Chúa Cha phê chuẩn hôn nhân đó ; ở dưới thế cũng vậy, con cái không
kết hôn với nhau, dựa theo quyền và các thể thức, nếu không được cha mẹ ưng
thuận.
Đẹp biết bao đôi vợ chồng tín hữu, kết hợp với nhau
bởi cùng một niềm hy vọng, cùng một đức tin, cùng một thờ phụng ! Cả hai đề là
con cùng một Cha, cả hai là tôi tớ của cùng một chủ. Không hề cách chia tinh
thần hay thể xác : ngược lại, họ thực sự là hai trong cùng một thân xác. Ở đâu
chỉ có một thân xác, ở đấy chỉ có một tinh thần. Họ cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau
bái thờ, cùng nhau giữ chay ; họ chỉ bảo lẫn nhau, khích lệ lẫn nhau và nâng đỡ
nhau.
Trong Giáo Hội Chúa, cả hai đều bình đẳng, bình
đẳng nơi bàn tiệc Chúa, bình đẳng trong những con thử thách, bình đẳng trong
các cuộc bách hại, bình đẳng trong niềm ủi an. Người này đối vơi người kia
không có gì bí mật, người này đối với người kia không có lời thoái thác, người
này đối với người kia không có khổ đau hành hạ. Với tất cả tự do, họ thăm viếng
kẻ yếu đau, cứu giúp người túng quẫn . Những bài Thánh Vịnh, những khúc thánh
thi vang lên giữa họ : họ cùng ganh đua ai sẽ là người hát hay nhất cho Chúa
của mình. Khi nhìn thấy và nghe được điều đó, Đức Kitô vui mừng hoan hỷ, gửi
xuống cho họ bình an của Ngài. Đâu hai người ở bên nhau thì Ngài cũng ở đó, và
đâu có Ngài, ở đó không có chỗ cho ác thần.
Gửi người bạn đời II, 8 (À son épouse)
Qua một số đề tài, chúng ta có thể thấy Tertullien
rõ ràng ngày càng có một thái độ cứng rắn, cố chấp về luân lý. Nếu như trong "Apologeticum"
(Hộ giáo) ông đề cao việc gia nhập quân đội của các Kitô hữu, thì về sau
ông lại lên án nhân danh sự bất bạo động tuyệt đối (non-violence absolue).
Trong tác phẩm dành cho vợ mình, ông cho phép tái hôn trong trường hợp góa bụa,
thì sau đó ông lại bài xích bằng những lời lẽ quá đáng, không thể chấp nhận
được vì hạ giá chính hôn nhân. Về việc tha ba loại tội công khai (bội giáo,
ngoại tình, sát nhân) hay về việc chạy trốn khi có bách hại, thì ông cũng thay
đổi từ chấp nhận sang từ khước. Nói tắt, người ta chỉ có thể ghi nhận thái độ
ngày càng cứng rắn, không khoan nhượng của ông. Hẳn nhiên, Tertullien đã không
bao giờ là kiểu mẫu của người Kitô hữu trung bình, nhưng ông đã dần dần xa với
kiểu mẫu đó, ngày càng trở thành con người quá khích, cực đoan trong cách giải
thích Phúc Âm của ông.
TERTULLIEN VÀ THUYẾT MONTAN.
Thái độ cố chấp của Tertullien có thể hiểu được
trước tiên là do tính khí của ông, nhưng đồng thời cũng do mối thiện cảm của
ông, kể từ khoảng năm 210, đối với thuyết Montan, khởi thuỷ là thuyết thiên
niên (millénarisme), một phong trào tu đức theo chủ trương nhiệm nhặt.
Nhưng theo thuyết Montan trách Giáo Hội chính thức
là đã giảm nhẹ những đòi hỏi của Phúc Âm và họ tự cho mình là những người duy
nhất có được Thần Khí nguyên thủy. Vào đầu thế kỷ III, họ tuyệt giao với hàng
Giám Mục. Phong trào tiên tri chủ trương triệt để này (prophétisme de labsolu)
đã quyến rũ Tertullien, quyến rũ chính xác là tới mức nào ? Tới chỗ cắt đứt với
Giáo Hội thể chế chăng ? Ông thẳng thắn khẳng định sự cắt đứt này : "Sự
hiểu biết và bảo vệ Đấng Bầu Chữa (Chúa Thánh Thần) tách chúng tôi ra khỏi
những người khí huyết" (nghĩa là những người không phải là thần thiêng
(non-spriti-tuels), những phần tử của Giáo Hội chính thức). Tới mức hoàn toàn
gia nhập vào phong trào Montan chăng ? Ở đây người ta có thể đặt dấu hỏi, vì
những cách biểu lộ lòng đạo đức cuồng nhiệt, thiếu cơ cấu tổ chức, thiếu thần
học, những điều đó không phù hợp lắm với cá tính của Tertullien. Vả lại, người
bảo vệ truyền thống Giáo Hội lại có thể từ bỏ quan điểm của mình đến độ đó sao
? Thánh Augustinô cho chúng ta biết rằng Tertullien cuối cùng đã lập một nhóm
riêng và chính ngài, Augustino, đã đưa những thành viên cuối cùng của nhóm trở
lại Giáo Hội. Như vậy, hẳn Tertullien đã kết thúc cuộc đời mình như một ngôn sứ
lẻ loi, khư khư với những đòi hỏi không thể thực hiện của mình.
Thoạt nhìn qua, điều đáng ngạc nhiên là : mặc dù
ông cắt đứt với Giáo Hội, tác phẩm của ông vẫn được các Kitô hữu ở Tây phương
quý trọng, bảo tồn và sau đó được sử dụng rộng rãi. Điều này có thể hiểu được,
đó là vì tác phẩm của ông có giá trị đặc biệt trong nhiều lãnh vực : Kitô học
của Tertullien ảnh hưởng tới tận thánh Léon, và qua Léon, tới định tín của Công
Đồng Chalcédone. Các khẳng định về chức tư tế của mọi người chịu Phép Rửa báo
trước những bản văn của Công Đồng Vatican II. Chỉ khoảng vài chục năm sau khi
ông mất, thì thánh Cyprien, Giám Mục Carthage, tuy không nêu đích danh, những
đã công khai dựa vào ông như vào một "Bậc thầy".
MONTAN VÀ THUYẾT MONTAN.
Thuyết Montan là một phong trào tiên tri phát sinh
ở Tiểu Á khoảng năm 170. Montan, người khai sáng, được hai nữ tiên tri trợ
giúp, rao giảng việc Đức Kitô sắp trở lại để cai trị trần gian 1000 năm, và do
đó phải khinh chê các thực tại trần gian, tuyệt giao với xã hội : ông ca tụng
sự độc thân cách phiến diện và kích động sự tử đạo. Phái Montan trách Giáo Hội
cơ chế là đã giảm nhẹ Phúc Âm và đã thoả hiệp với thế gian. Họ xem mình là
người duy nhất có được Thần Khí tiên tri. Điểm đặc biệt của các cộng đồng phái
Montan là vai trò trỗi vượt của những "người thần thiêng" gồm cả đàn
ông và đàn bà, cũng như các hiện tượng cuồng nhiệt tôn giáo khác nhau. Các cộng
đồng đó được kích động bởi niềm xác tín rằng họ cấu tạo nên tầng lớp ưu tú thần
thiêng của Giáo Hội, sống dưới sự tác động trực tiếp của Thần Khí, Đấng canh
tân nơi họ lòng nhiệt thành và các đặc sủng của Giáo Hội sơ khai.
Cùng với thời gian, phong trào này, có thể gọi là
một phong trào "canh tân", mở đầu cho nhiều phong trào tương tự trong
dòng lịch sử, và ngày càng chủ trương nhiệm nhặt hơn về luân lý, gần với chủ
thuyết luân lý tiết dục (encratisme) như nơi Tertullien. Mặc dù không nhất
thiết loại bỏ các thừa tác vụ có chức thánh, phong trào này ngày càng xung đột
với hàng Giám Mục, phủ nhận quyền bính và các quyền bí tích của Giám Mục. Về
phía các Giám Mục, ngay từ cuối thế kỷ II, các ngài đã phát động phong trào
chống lại phong trào này : đây là dịp cho các Giám Mục lần đầu tiên hội họp với
nhau ở Tiểu Á. Thời gian này còn xảy ra cuộc tranh luận về các dấu chỉ của một
sấm ngôn đích thực và về sự biện biệt các ân huệ của Thần Khí : tiếc rằng các
tài liệu về vấn đề này đã thất lạc. Cuối cùng, những người theo phái Montan bị
vạ tuyệt thông : Giáo Hội Rôma đã quyết định như thế vào thời của Tertullien và
đã khiến ông hết sức công phẫn.
Đây là một trong những tuyên bố có màu sắc
"thuyết Montan" của Tertullien :
"Theo nghĩa đích thực và chính yếu, Giáo Hội
là chính Thần Khí, trong đó cư ngụ Ba Ngôi của thành tính duy nhất Cha, Con và
Thánh Thần. Chính Thần Khí quy tụ Giáo Hội mà Chúa đã thiết lập trong Ba Đấng
đó. Vì vậy, từ lúc đó, mọi nhóm người họp lại với nhau trong cùng một đức tin
này đều làm nên một Giáo Hội cho Tác Giả và Đấng Hiến Thánh. Và như thế, quả
đúng là Giáo Hội tha tội, nhưng là Giáo Hội của Thần Khí, qua trung gian của
một con người thần thiêng, chứ không phải là Giáo Hội theo nghĩa là Cộng Đoàn
của các Giám Mục".
(Về đức khiết tịnh, XXI, 17)
(Sur la chasteté)
SÁCH NGHIÊN CỨU THÊM
M. SPANNEUT, Tertullien et les premiers moralistes
africains, Gembloux - Paris, Duculot, Lethielleux 1969.
J.C. FRELDOUILLE, Tertullien et la convertion de la
culture antique, Paris, Études Augustiniennes, 1972.
J. DANIELOU, Les Origines du Christianisme Latin,
Paris Le Cerf 1978.
Về thuyết Montan :
F. BLANCHETTIERE, "Le montanisme
originel" dans "Revue des Siences Religieures" (Strabourg)
t.52 1978, p. 118-134 ; t. 53 1979, p. 1-32
H. BACHT, "Montanisme" dans
Dictionnaire de spiritualité T.X. 1980, col. 1670-1676