PHẦN 3
TỚI THẾ KỶ VII
ALEXANDRIE VÀ ANTIOCHE VÀO THẾ KỶ V
CUỘC XUNG ÐỘT DỮ DỘI VỀ KITÔ HỌC
Thế giới Hylạp vẫn tiếp tục
con đường của mình. Chế độ đan tu vốn ngự trị thời hoàng kim nay vẫn tiếp tục
hiện diện. Thời kỳ này, người ta thấy có Diadoque, xuất thân từ Aicập, làm Giám
Mục Potikè ở vùng Épire cổ vào thời Công Ðồng Chalcédoine (451). Tác phẩm chính
của ông : Les cent chapitres sur la perfection spirituelleb (100 chương về sự
hoàn hảo thiêng liêng) rất được lưu ý vì có một giáo thuyết quân bình và một
lối văn giản dị, trong sáng. Tác phẩm này nhấn mạnh về đức khiêm nhường, đức
khiết tịnh và về những cuộc chiến đấu cần thiết để đạt tới trạng thái an tĩnh,
làm chủ bản thân (apatheia). Ðây là con đường dẫn tới tình yê Thiên Chúa và
tình yêu tha nhân, và qua đó, dẫn tới đời sống chiêm niệm, hiểu như một "cảm giác về Thiên Chúa" (sensation
de Sieu) trong mối tình thâm sâu và sung
mãn". Cũng như Cassien, Diadoque tin vào hiệu lực của lời
nguyện tắc, được lập đi lập lại liên lỉ như "Lạy
Chúa Giêsu", làm tăng trưởng "cảm
nếm thiêng liêng".
Nhưng một cuộc tranh luận về
Kitô học đã nổ ra kéo dài suốt thế kỷ V, do sự đối nghịch giữa Alexandrie và Antioche,
và trong cuộc xung đột này, sự có mặt của các đan sĩ không phải là ít.
I. CYRILLE
DALEXANDRIE NESTORIUS VÀ CÔNG ÐỒNG ÉPHÈSE (431).
Cho tới Công Ðồng chung đầu
tiên tức Công Ðồng Constantinople (381), thì các cuộc tranh luận lớn về thần
học thường bàn cãi hoặc về nhân tính Con Thiên Chúa, hoặc về sự toàn vẹn trong
nhân tính Ðức Kitô, vả lại thuyết Ariô làm phương hại đến cả hai khía cạnh này.
Tới cuối thế kỷ VI, cùng với các nhà thần học thuộc trường phái Antioche,
Diodore de Tarse, Théodore de Mopsueste và có thể kể cả Jean Chrysostome nhấn
mạnh đến "nhân tính của Ðức Kitô",
việc này đã khơi lên một vấn đề mới sẽ là trung tâm của thần học từ thế kỷ V
đến thế kỷ VII : làm thế nào để có thể nối kết thần tính và nhân tính, hoàn hảo
như nhau, trong Ðức Kitô ? Làm sao quan niệm và diễn tả "Người - Chúa" (L Homme - Dieu)
mà không làm mất đi một trong hai vế : vừa là ngôi vị duy nhất (unité) vừa có
hai bản tính (dualité) ?
Các nhà thần học Alexandrie
rất có uy thế ở Công Ðồng Nicée đã khai mào cuộc tranh luận. Các nhà thần học
phía Antioche tất nhiên trở thành mục tiêu công kích, kể cả những vị đã chết
trong bình an của Giáo Hội.
SỰ SUNG MÃN CỦA ÐỜI SỐNG CHIÊM NIỆM.
Một trong
những người yêu mến Chúa với một niềm khao khát khôn nguôi đã thuật lại cho tôi
điều này : "Vì con ao ước hiểu biết khoa học tình yêu Thiên Chúa, nên Ðấng
toàn thiện đã thương ban cho con điều đó trong một cảm giác sung mãn. Con cảm
thấy Thiên Chúa hành động rất mãnh liệt trong con, làm cho linh hồn con khao
khát ra khỏi thân xác mình để tiến về phía Chúa với một niềm vui và một lòng
mến khôn tả, và linh hồn con, có thể nói, không còn biết gì đến cảnh huống của
cuộc đời chóng qua này nữa". Bởi chưng, người nào từ nay yêu mến Thiên
Chúa hơn chính mình vạn bội, hay đúng hơn, không còn yêu chính mình mà chỉ yêu
một mình Thiên Chúa, không còn tìm kiếm vinh danh cho bản thân mà chỉ mong muốn
cho sự công chính của Ðấng đã ban cho mình niềm vinh dự vĩnh cửu, được tôn vinh
và điều này, người đó không ước muốn với một ý chí tầm thường nhưng biến tâm
tình đó thành một thói quen, trong cảm nghiệm sâu xa của mình về lòng mến Thiên
Chúa. Hơn nữa, cần phải biết rằng, nếu chúng ta được Thiên Chúa thúc đẩy tới
một mức độ như vậy thì, lúc xảy ra sự thúc đẩy đó, chúng ta vươn lên, ngay cả
vượt trên đức tin, bởi từ giây phút này, chúng ta ôm ghì lấy Ðấng mình đã tôn
thờ trong đức tin, nhờ vào giác quan của tâm hồn và bằng một lòng mến nồng
cháy. Chính Thánh Tông Ðồ [Phaolô] đã chỉ cho chúng ta điều đó cách rõ ràng khi
ngài nói : "Vậy nay còn lại Tin, Cậy, Mến, ấy là bộ ba ! Nhưng trong bộ ba
ấy, đức Mến lớn hơn cả" (1Cor 13, 13). Vì chưng, tôi xin lập lại, ai ôm
lấy Thiên Chúa trong tình yêu sung mãn, người đó sẽ lớn hơn chính đức tin của
mình vạn bội, bởi người đó hoàn toàn đắm mình trong niềm khao khát (Thiên
Chúa).
(Diadoque de Phitice : Les
cent chapitres q. 1,
SC no. 5 bis, p.
152, trad. E des Paces).
HYPATHIE.
Sử gia người
Anh Gibbon đã đem việc các tu sĩ giết Hypathie làm biểu tượng cho chủ trương
ngu dân của Kitô giáo vào thế kỷ XVIII, qua việc này Gibbon đã bôi nhọ danh dự
của Cyrille. Leconte de Lisle đã viết về chuyện này trong một bài thơ mang tựa
đề "Hypathie" và trong một vở kịch ngắn "Hypatie et
Cyrille". Ðây là một vài vần thơ ngỏ với Hypathie.
(.) Hãy ngủ
yên trong tận đáy tâm hồn chúng tôi, hỡi nạn nhân trong trắng.
Trong tấm
khăn liệm của trinh nữ và với chiếc vòng hoa sen ;
Hãy ngủ yên
! Vì sự xấu xa nhơ nhớp là nữ chúa của trần gian,
Và chúng tôi
đã lạc mất con đường đến Paros.
Các thần
linh mình phủ đầy bụi bặm và trái đất lặng câm,
Chẳng còn
lời nào thốt lên trong vùng trời hoang vắng của nàng.
Hãy ngủ yên
! Nhưng nàng vẫn sống và cất tiếng hát, trong trái tim của thi nhân
Bài ca du
dương của Nữ thần Diễm Tuyệt !
Chỉ còn Nữ
thần tồn tại bất biến và vĩnh hằng,
Tử thần có
thể đánh tan những vũ trụ run rẩy
Nhưng Mỹ
thần vẫn rực sáng và tất cả đều hồi sinh trong nàng
Và muôn thế
giới vẫn lăn tròn dưới chân nàng trinh trắng.
Người
Galilée hèn hạ đã đánh đập và nguyền rủa nàng
Nhưng khi
ngã xuống, nàng càng thêm vĩ đại ! Và giờ đây, hỡi ôi !
Hơi thở của
Platon và tấm thân của Aphrodite đã vĩnh viễn đi đên những bầu trời tươi đẹp
của Hellas.
("HYPATHIE")
trong vở
kịch "Hypathie và Cyrille", mỗi nhân vật đều tố giác những nhược điểm
của đối phương và cố gắng lôi kéo kẻ khác với lời lẽ rqt61 quí phái. Sau đây là
một vài lời của Hypathie ;
hãy cố gắng
xua đuổi mối bất hòa man dại ra khỏi cõi lòng các bạn, hơnn là nói lời nhục mạ
chúng tôi.
Và nếu quả
thật có một Thiên Chúa hướng dẫn các bạn, các bạn hãy tỏ ra dịu dàng,
khoan dung,
huynh đệ và các bạn sẽ đáng giá hơn chúng tôi bội phần.
Hãy nhìn kìa
! Khắp đế quốc đầy ứ lời tranh cãi của các bạn.
Ngày nào
cũng xuất hiện những giáo phái mới
Từ thời
Constantin và từ cả một trăm năm nay.
Trong Công
Ðồng Nicée, cha ông "đắc thắng" của các bạn tụ họp
Từ đền thờ
mới để xây dựng cơ sở tốt hơn
Ðã bắt ép
nhân loại theo đức tin của Athanase ? (.)
Từ hai ngày
nay, như một cặn bã hèn mạt,
Các đan sĩ
của hoang mạc đã tuốn về thành phố,
đi chân
không, râu lởm chởm, tóc rối bù
tất cả đều
gầy ốm vì ăn chay và cháy nám vì mặt trời,
người ta cho
rằng một dự tính nham hiểm và cuồng tín,
đã dẫn đến
chúng tôi lũ người ô hợp mất thần này.
Tốt ! Tôi
biết mình sắp chết và tôi tự hào về chọn lựa,
mà các thần
linh cho tôi được vinh dự lần cuối.
Tuy nhiên,
tôi cũng cảm ơn các bạn đã ân cần săn sóc,
Và tôi không
mong chờ bạn điều gì nữa, ngoài một chút thinh vắng tĩnh mịch.
(Cyrille và thầy giúp lễ đi
ra) (.)
(Hồi chót của vở kịch
"Hypathie và Cyrille")
CYRILLE,
TRƯỚC KHI XẢY RA CUỘC XUNG ÐỘT.
Vào khoảng năm 400, các phe đã
thành hình, và vượt cả ra ngoài các địa giới. Théophile dAlexandrie, người được
Giám Mục người Syrie là Sévérien de Gabbala đỡ đầu, nhưng bị Isidore, cha sở
Péluse vùng châu thổ sông Nil, coi là một "người
ham mê vàng bạc và đá quí", đã kết tội Jean Chrysostome người
Antioche đang là Giám Mục Constantinople, đẩy ngài ra khỏi tòa Giám Mục để rồi
chịu cảnh lưu đầy cho tới chết. Bên cạnh Théophile có người cháu đồng thời là
thư ký, đó là Cyrille, một người đã rời sa mạc và thầy của mình là Isidore (de
Péluse) để theo một trường phái mới . Sau khi Théophile qua đời, vào năm 412,
Cyrille lúc đó khoảng 50 tuổi trở thành Thượng Phụ Alexandrie. Sau khi nhậm
chức Cyrille liền gặp phải một vài khó khăn trước quyềnbính của hoàng đế. Ngài
đã phát triển điều kiện vật chất cho Giáo Hội của mình cách phi thường qua việc
buôn bán ngũ cốc và bất động sản. Ngài chống lại người Dothái, bè Novatien và
người ngoại giáo. Các Kitô hữu cuồng tín sống chung quanh ngài đã giết nữ toán
học gia Tân-Platon là Hypathie. Trong khi đoạn giao với Giáo Hội Tây phương,
năm 417, theo sau Antioche và Constantinople, ngài bằng lòng phục hồi danh dự
cho Jean Chrysostome, một người từng bị ngài coi là Giuđa, và giao hảo lại với
Roma.
Từ năm 412 tới năm 428,
Cyrille đã xuất bản một khối khảo luận về Kinh Thánh và giáo thuyết chiếm gần
hai phần ba toàn bộ tác phẩm của ngài, và đây là một trong những khối tác phẩm
phong phú nhất của Giáo Phụ học Hylạp (10 tập của Migne). Ngài đã chú giải rất
dài bộ Ngũ Kinh trong hai tác phẩm bộ túc cho nhau, chú giải Isaia và các tiên
tri nhỏ. Ngài say mê các sách Tân Ước, đặc biệt là Phúc Âm thánh Gioan. Ngài là
một nhà chú giải tỏ ra tinh tế khi nghi ngờ Origène, coi tư tưởng Origène như
là lạc thuyết và nghi ngờ đối với những lạm dụng của lối chú giải Alexxandrie.
Ngài chú ý đến chiều kích lịch sử, nhưng đồng thời cũng trở về với lối ẩn dụ
truyền thống. Các tác phẩm tín lý của ngài vào thời này cốt yếu nhằm đả kích
thuyết của Ariô. Ðó chính là ý hướng của tác phẩm : "Kho tàng giáo lý về Chúa Ba Ngôi chí thánh và đồng bản thể" (Trésor
de la Trinité Saint et consubstantielle). Tiếp theo sau là Bảy đối thoại về
cùng chủ đề đó. Trong các tác phẩm này, Cyrille tập hợp giáo lý về Ba Ngôi, một
bản tính thần linh duy nhất trong ba ngôi vị, đã được xác định dứt khoát từ
thời các Giáo Phụ xứ Cappadoce (thế kỷ IV). Giáo huấn của ngài luôn đặt trên
một nền tảng bao hàm ba khía cạnh : Kinh Thánh, lý chứng của lý trí và truyền
thống của Giáo Hội là điều mà ngài sẽ bảo vệ suốt cả cuộc đời.
Trên thực tế, như J. Liébaert
đã cho thấy, tác phẩm "Kho tàng" chịu
ảnh hưởng cua thánh Athanase rất nhiều, một phần ba tác phẩm này lấy lại của
Athanase. Chính sự gắn bó với vị thầy Alexandrie khả kính này giải thích lập
trường thần học của Cyrille và những hệ quả trầm trọng của nó. Ngài khăng khăng
dừng lại ở một Kitô học Ngôi Lời-xác phàm (Verbe-chair) mà không lưu ý đến
những tiến triễn đã có được qua cuộc chiến chống lại thuyết Apollinaire. Mặc dù
ngài xác quyết sự hiện hữu của linh hồn nhân loại nơi Ðấng Cứu Thế, nhưng lại không
lưu ý đến điều đó trong hệ thống tư tưởng của ngài. Ðàng khác, ngài suy tư về
Ðức Kitô luôn luôn dưới khía cạnh là Ngôi Lời (Logos), Ðấng mà ngài chiêm ngắm
giữa lòng Mầu Nhiệm Ba Ngôi. Khi Ngôi Lời vĩnh cửu và bất biến trở thành xác
phàm (Yn 1, 14) mang thân nô lệ, thì đó là ngài chuyển qua tình trạng con
người, chuyển qua thân phận con người. Theo Kinh Tin Kính Nicée, Ngôi Lời trở
thành xác phàm là chủ thể duy nhất của mọi hoạt động lịch sử của Ðức Kitô, bao
gồm cả những đặc tính và những yếu hèn của nhân tính (chuyển thông các đặc tính
- communication des idiomes) và do đó, Người là Ðấng Cứu Chuộc duy nhất.
Cyrille minh nhiên tránh xử dụng công thức "con
người của Ðức Kitô". Nếu có một vì lần ngài nói : Ngôi Lời "đã mang lấy con người", thì chữ
"con người" không bao
giờ được xử dụng theo nghĩa cụ thể, cá vị, như các nhà thần học Antioche vẫn
hiểu trong Kitô học "Ngôi Lời - con
người" (Verbe - homme) của họ. Ngài sợ rằng hiểu như thế sẽ tổn
hại đến tính duy nhất của Ðức Kitô, "mầu
nhiệm khôn tả" mà ngài vẫn nhấn mạnh. Nhiều lần trong toàn bộ
tác phẩm của mình, ngài đối chiếu mầu nhiệm Nhập Thể với nhân học quan niệm
theo kiểu Platon : Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm như linh hồn trở thành con
người khi mang một thân xác.
Cái nhìn thần bí này về Ðức
Kitô nếu gặp cái nhìn lịch sử và hiện thực của Antioche tất phải xảy ra đụng
độ.
NÉT ÐẶC SẮC CỦA CYRILLE VỀ THẦN HỌC CHÚA BA NGÔI :
CHÚA THÁNH THẦN NHIỆM XUẤT BỞI CHÚA CHA VÀ CHÚA CON.
(LEsprit procède du Père et du Lils).
Chúng ta
biết rằng các Giáo Phụ Hylạp nói chung đã kết hợp hai biểu thức của Phúc Âm
Gioan (Gioan 14, 23 và 16, 14) để xác quyết rằng Chúa Thánh Thần "nhiệm
xuất bởi Chúa Cha" (procède du Père) và "nhận từ Chúa Con"
(recoit du Fils). Trong khi bên Tây phương (Tertullien) với nhiều Giáo Phụ Hylạp,
vốn đã biết đến công thức "Nhiệm xuất bởi Chúa Cha qua Chúa Con"
(procède du Père par le Fils), nhưng từ thế kỷ IV, nhất là do ảnh hưởng của
thánh Augustin, các ngài đã chọn công thức "nhiệm xuất bởi Chúa Cha và bởi
Chúa Con, bởi ngôi này và bởi ngôi kia" (Procède du Père et du Fils, de
lun et de lautre) chắc chắn để nhấn mạnh sự ngang hàng giữa Chúa Cha và Chúa
Con hầu chống lại thuyết Ariô, và đã đưa công thức này vào tín biểu (Symbole)
Nicée - Constantinople năm 589. Có điều lạ lùng là Cyrille, trong các chương
XXXIII-XXXIV, bàn về thần tính của Chúa Thánh Thần, trong tác phẩm "Kho
tàng ." lại rất hay xử dụng các công thức của Tây phương, những công thức
bị Théodoret lên tiếng bác bỏ. Maxime le Confesseur (thế kỷ VII) và Jean
Damascène (thế kỷ VIII) cũng chống lại những công thức này. [Jean Damascène
không chấp nhận kiểu nói : Chúa Thánh Thần nhiệm xuất "bởi Chúa Con"
(ek tou vion) và muốn kiểu nói : "qua" chúa Con (dia) để cho thấy rõ
Chúa Con vừa là đồng nguyên lý -coprincipe- với Chúa Cha, và coi công thức đó
rõ hơn công thức "bởi cả hai" (ab utroque - ek amphoteron) của rất
nhiều Giáo Phụ khác. - Chú thích ND].
1. Thánh
Thần là Thiên Chúa, vì do bản tính, là Ðấng hiện hữu trong Chúa Con khởi từ
Chúa Cha, nên Ngài có mọi năng lực của Thiên Chúa. Tất cả đều bởi Chúa Cha, qua
Chúa Con trong Chúa Thánh Thần (PG 75, 580 C).
2. Vì Thánh
Thần, khi đến trong chúng ta, Ngài biểu lộ chúng ta là những người đã được thêm
sức (confirmés) cho Thiên Chúa, và vì Ngài nhiệm xuất bởi Chúa Cha và bởi Chúa
Con, nên rõ ràng Ngài có bản thể Thiên Chúa, tự bản tính, nhiệm xuất trong bản
thể và từ bản thể ấy (585 A) - Vì chỉ có một Ðức Giêsu Kitô là Ðức Chúa
(Seigneur), theo lời thánh Phaolô, và vì ngài gọi Thánh Thần là Ðức Chúa, nên
ngài đã không hề có phân biệt nào về bản tính giữa Ngôi Con và Thánh Thần,
nhưng ngài gọi Thánh Thần bằng danh hiệu Ðức Chúa, đó là vì Thánh Thần hiện hữu
từ Chúa Con và trong Chúa Con do bản tính (581 C).
Là Thánh
Thần của Ðức Kitô, Ngài thông tri cho các môn đệ tất cả những gì có nơi Ðức Kitô,
Ngài hành động không theo ý chí riêng, cũng không theo một ý chí xa lạ với Ðấng
mà Ngài hiện hữu trong và bởi Ðấng ấy, nhưng như là Vị phát xuất, xét về bản
tính (phusis), từ bản thể của Ðấng ấy, và có tất cả ý chí, tất cả hành động của
Ðấng ấy (584 C). [energeia : hành động, hoạt động, năng lực . - Chú thích ND].
Vì Ngôi Lời
là ánh sáng đích thực và Chúa Thánh Thần là Ðấng soi sáng nên tất yếu phải chân
nhận rằng Chúa Thánh Thần phát xuất bởi bản thể của Ngôi Lời, Thánh Thần là
Ðấng mà nhờ đó (Ngôi Lời) soi sáng cho mọi người, bằng cách phóng chiếu sự sáng
soi của Thánh Thần như một tia sáng của chính bản tính Ngài (589 BC).
(Dịch theo J. Liébaert revue)
NGÔI LỜI VĨNH CỬU BƯỚC VÀO THÂN PHẬN CON NGƯỜI.
Ngôi Lời
Thiên Chúa, Ðấng đã đến trong thân phận và thực tại của nhân tính để cứu độ con
người trong mức độ, Ngài trở nên con người với bản tính như chúng ta hiện tại,
mang lấy các đặc tính của nhân tính, đổi lại, Ngài ban cho chúng ta những hoàn
hảo riêng của Ngài, và như thế, con người vốn đã mất đi vinh quang nguyên thủy
vì Ađam phạm tội, lại được Ngài phục hồi trong phẩm giá xứng hợp với mình, xét
theo bản tính. Khi một cách nào đó, hòa lẫn, hòa trộn chúng ta trong Ngài và
Ngài trong chúng ta, Ngài đã tự hạ xuống tận những yếu hèn của chúng ta và nâng
chúng ta lên tới những hoàn hảo của Ngài. Chúng ta là con người tự bản tính,
còn Ngài, bên cạnh bản tính của Ngài, Ngài tự hạ vì lòng yêu thương con người,
trở thành người như tất cả chúng ta. Chúng ta là nô lệ của Thiên Chúa tự bản
tính, còn Ngài, Ngài cũng được gọi là nô lệ, khi đến với một tình trạng ở ngoài
bản tính của Ngài lúc Ngài làm người. Nhưng đối lại, Ngài vẫn là Thiên Chúa tự
bản tính, còn chúng ta, chúng ta cũng là những thần linh, vì được nâng lên một
tình trạng bên ngoài bản tính chúng ta, nhờ ân sủng, vì chúng ta là con người.
Ngài là Con tự bản tính, chúng ta cũng là con, nhưng do thừa nhận khi được gọi
trở nên anh em của Ngài (Ðức Kitô). Vì thế, nếu chúng ta là con và là thần linh
do thừa nhận, thì trái lại, Ngài là Con và là Thần Linh thực sự, khác với những
kẻ là con do thừa nhận.
Trésor 32, PG 75, 561 BC,
Trad. J. Liébaert revue.
Ngôi Lời xét
là Thiên Chúa, trong một thân phận với Chúa Cha và ngang hàng bằng Chúa Cha, đã
xuất hiện giống chúng ta không phải chỉ dưới phương diện xác thể, nhưng Ngài
còn có những đặc tính của nhân tính nữa, trừ phi phải dùng một từ ngữ khác. Thế
mà, một đặc tính của nhân tính được liên kết với Thiên Chúa và bị ràng buộc do
thân phận tôi tớ trong sự vâng phục đó là sự tôn thờ và việc không biết được ý
muốn và suy tính có trong Thiên Chúa. "Quả thế, vì nào ai được biết tâm tư
của Chúa, hay có ai đã làm cố vấn cho Người" (Rm 11, 34). Và cũng như sau
khi Ngôi Lời trở nên giống như chúng ta, tôi nghĩ rằng, người ta sẽ không nói
Ngài thôi không còn là Ngôi Lời nữa, khi Ngài biến đổi thành thân xác phàm hèn,
thì cũng vậy, nếu nhân tính đã được đảm nhận và đã trở nên của riêng Ngài thì
không có gì ngăn cản chúng ta quan niệm và khẳng định rằng, theo nhiệm cục cứu
độ, Ngài đã mang lấy nhân cách cùng với các đặc tính của nhân tính.
Dial. Sur Trinité 6 PG 75.1061
D - 1064 A.
Dịch theo FJNJ. Liébaert
revue.
NESTORIUS.
Các đan sĩ Aicập đi tới
Constantinople tố cáo các tham vọng thái quá của Cyrille, đã gặp Nestorius trên
ngai Thượng Phụ Giáo Chủ. Nestorius, một thời là đan sĩ ở Antioche, là một nhà
giảng thuyết lừng danh, vào năm 428 đã được hoàng đế Théodose II yêu thích hơn
Proclus de Cyzique, một người theo chủ trương "Ðức
Maria Mẹ Thiên Chúa", sẽ phục thù Nestorius vào năm 434.
Nestorius tỏ ra là một Giám Mục khổ hạnh và đáng kính. Trong thời gian này, ông
truy nã những kẻ lạc giáo còn lại, nhưng rồi trí sáng suốt của ông đã vấp phải
những sai lầm, cũng trong thời gian đó. Ngược lại, ông tỏ ra ngờ vực đối với
những khuynh hướng muốn "hòa lẫn"
hai bản tính nơi Ðức Kitô, và "thần
hóa" nhân tính. Và ngay sau đó ông đã đưa đề tài này vào các
bài giảng của mình.
Tất nhiên, ông thừa nhận các
hoạt động trong Ðấng Emmanuel có một sự đồng qui hoàn toàn, và theo nghĩa đó,
thừa nhận một ngôi vị duy nhất (prosopôn) được tỏ lộ, ngôi vị đó không bao giờ
phân chia, "Ðức Kitô bất khả phân
chia", Giêsu, Con hoàn toàn độc nhất, Ðức Chúa, "là một và cùng một", cách nào
đó, là một tổng hợp hai bản tính. Tuy nhiên, theo Nestorius, thần tính và nhân
tính là hai bản tính thực hữu (réelles) và cụ thể (concrètes) một cách khách
quan, có các đặc tính, các hoạt động luôn luôn là của riêng mỗi bản tính (không
có vấn đề "chuyển thông các đặc
tính" - communication des idiomes), nên nói cho cùng người ta
cũng có thể gọi là hai prosôpa (tạm dịch ngôi vị, vì lúc này chưa xác định rõ
nghĩa). Giữa hai bản tính (hoặc hai hypostaseis hay prosôpa) có sự kết hiệp
(synapheia) liên kết hay nối kết với nhau, nhưng không kết hợp cách "thể lý" [union physique = union réelle,
substantielle] hay kết hợp theo ngôi vị (ngôi hiệp, union
hypostatique *) "từ hai bản tính",
vì như thế hai bản tính sẽ bị tổn hại hoặc bị trộn lẫn với nhau. Con
người không bị cắt xén và Ngôi Lời Thiên Chúa không bị cưu mang trong cung lòng
Ðức Maria, không bị vấn tả, không bị đói khát . Ðức Trinh Nữ không chỉ là Ðấng "sinh ra nhân tính" (anthropotokos),
mà còn là "Ðấng sinh ra Ðức Kitô",
Ðức Kitô lịch sử "người-Chúa",
chủ thể đích thực của mọi hoạt động, và là đối tượng của phượng tự
hơn là Ngôi Lời. Nhưng, theo nghĩa chặt của tín lý, Ðức Maria không phải là "Ðấng sinh ra Thiên Chúa" (Mẹ
Thiên Chúa - Theotokos). Từ ngữ Theotokos thuộc về lòng đạo đức chứ không thuộc
tín điều. Ðó là những gì Nestorius, vị Tân Thượng Phụ rao giảng.
THƯ CỦA NESTORIUS GỬI CHO CYRILLE. (15. 6. 430)
Nestorius vừa trích thư của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Philip 2, 5-6.
Vì không
muốn người ta có thể cho rằng Ngôi Lời Thiên Chúa chịu khổ nạn, nên khi đề cập
tới cuộc tử nạn của Chúa, thánh Phaolô đã dùng tiếng "Kitô" như là
một tên gọi có nghĩa : trong một ngôi vị độc nhất có bản tính (ousia) thụ nạn
và bản tính (ousia) không thụ nạn, để người ta có thể gọi, mà không nguy hiểm,
Chúa Kitô không thụ nạn và thụ nạn, không thụ nạn theo thần tính và thụ nạn
trong bản tính của thân xác Ngài.
(.) Bất cứ
nơi nào các Sách Thánh có đề cập tới chương trình cứu độ của Chúa, thì đều gán
việc sinh ra và chịu khổ nạn cho nhân tính của Ðức Kitô chứ không gán cho thần
tính, đến nỗi, nói một cách thật chính xác, phải gọi Ðức Trinh Nữ Maria là Mẹ
của Ðức Kitô (Christototos) chứ không gọi là Mẹ Thiên
-----------
(*) Ðúng ra union hypostatique, nếu hiểu theo trường phái Antioche thì có
nghĩa là : hợp nhất về bản tính, vì hypostase được hiểu như chữ
"physis" (natura), do đó khi Nestorius nói tới "hai
hypotaseis" thì không hẳn có nghĩa là hai ngôi vị như chúng ta hiểu bây
giờ. (Chú thích ND).
Chúa
(Theotokos). Xin ngài hãy nghe Phúc Âm nói : "Gia phả của Ðức Giêsu Kitô,
con Ðavít, con Abraham" (Matt. 1, 1). Rõ ràng Ngôi Lời Thiên Chúa không
phải là con Ðavít (.) Thật là tốt đẹp và đúng với truyền thống Phúc Âm khi
tuyên xưng rằng thân xác Ðức Kitô là Ðền Thờ của thần tính của Chúa Con, đền
thờ này được kết hợp với thần tính bằng mối dây siêu vời và thần linh, đến độ
thần tính nhận những gì thuộc về đền thờ này làm của mình. Nhưng, nếu lấy cớ có
việc "nhận làm của mình đó" mà gán cho Ngôi Lời những đặc tính của
xác phàm được kết hợp với Ngài, tôi muốn nói về việc nhập thể, cuộc khổ nạn và
tử nạn, thì kính thưa người anh em, đó là việc làm của một tinh thần lệch lạc
do những sai lầm của người Hylạp, hoặc mắc thứ bịnh điên rồ của Apollinaire,
của Arius hay một chứng bịnh nào đó còn trầm trọng hơn nữa. Bởi chưng, những
người để mình bị lôi kéo bởi từ ngữ "nhận làm của mình"
(appropriation) thì tất yếu, họ sẽ phải nói rằng Ngôi Lời Thiên Chúa qua việc
nhận làm của mình, đã được cho bú sữa, đồng thời Ngài lớn lên một ít, và rằng,
lúc khổ nạn, Ngài đã cảm thấy sợ hãi và đã cần tới sự trợ giúp của một thiên
thần.
Cyrille, Lettre 5, PG 77, 52B
- 56B, Trad. P. Thần học. Camelot,
Éphèse et Chalcédoine, Paris,
1962, pp. 195 - 197.
CUỘC XUNG
ÐỘT.
Tình thế quả rất là hứa hẹn
đối với Cyrille, một con người am hiểu truyền thống thần học, có lòng mộ mến
Ðức Maria chân thành, nhưng đồng thời là người tỏ ra ngờ vực đối với các khuynh
hướng của Antioche, ganh tỵ với uy thế của Constantinople, và là một con người
khéo xoay sở, vận động. Trước hết, trong lá thư mục vụ năm 429, tuy không nêu
danh Nestorius, Cyrille nhấn mạnh rằng "con
trẻ" được Ðức Maria sinh ra không chỉ là con người bình thường
nhưng còn là Con Thiên Chúa và vì thế Ðức Maria quả là "Mẹ" (Cyrille không dùng chữ "Theotokos" ở đây). Ðồng thời,
ngài gửi thư cho các đan sĩ Aicập để hướng nhiệt tâm của họ vào các vấn đề
thiêng liêng, ngài nói với họ ngay từ đầu rằng : "Nếu Chúa Giêsu Kitô của chúng ta là Thiên Chúa thì Ðức Trinh Nữ
Maria, người đã sinh ra Ngài lại không phải là Mẹ Thiên Chúa sao?". Từ
"Mẹ Thiên Chúa" (Theotokos)
thực sự đã là một từ quen thuộc trong truyền thống và trong đời sống đạo đức.
Alexandre d Alexandrie đã dùng từ này ngay từ thời Công Ðồng Nicée, có thể ngay
cả Grégoire de Nazianze cũng đã hết sức bênh vực từ ngữ này. Riêng Cyrille,
nhằm làm cho học thuyết của mình được chấp nhận và để tố giác Nestorius, ngài
đã khuấy động cả trời đất, mà nhất là đất. Ngài gửi ba bài trình bày thần học "Về đức tin chân thật" cho vua
Théodose II và triều đình ; gửi cho Ðức Giáo Hoàng Célestin I một tập tài liệu
bằng tiếng Latinh, khuyến cáo Nestorius phải lo mà qui chính.
Dưới cái nhìn của Cyrille, và
ngày nay người ta cũng có khuynh hướng nghĩ như thế, thì những chủ trương của
Nestorius ngầm bên dưới không phải là vấn đề thuộc phạm vi thuật ngữ hay triết
học. Vị Giám Mục Constantinople đã giảng dạy một sự liên kết đơn thuần (simple
association) giữa hai bản tính-ngôi vị (nature-personnes). Nhưng nếu như thế
thì cuộc khổ nạn chỉ còn là đau khổ của một con người : do đó, không còn Cứu
Chuộc cũng chẳng có Bí Tích Thánh Thể. Là người nhạy bén về biện luận, Ðức Giáo
Hoàng Célestin I đã triệu tập Thượng Hội Ðồng Rôma vào tháng 8 năm 430 để kết
án Nestorius và giao cho Cyrille thi hành lệnh này nếu Nestorius không phục
tùng. Giám Mục Alexandrie (Cyrille) tức tốc gửi cho Nestorius một bức thư mới
kèm theo 12 án vạ". Cũng
trong tài liệu này (12 án vạ), Cyrille buộc Nestorius phải nhận công thức mà,
do một ngụy thư, ngài tưởng lầm là của Athanase : "Hiệp nhất theo ngôi vị" (union selon hypostase)
và ngay cả kiểu nói "hiệp nhất theo bản
tính" (union naturelle), những công thức này gợi hứng từ thuyết
của Apollinaire, không liên quan tới các đòi hỏi của Roma. [Như đã nói, chữ Hypostase thời này còn rất nghi
nghĩa, trường phái Antioche hiểu chữ này tương đương với chữ natura, physis
(bản tính) trong khi Alexandrie lại thường hiểu theo nghĩa personne (ngôi vị).
- Chú thích ND]. Tuy nhiên, sau đó ngài bị Théodose chặn đứng lại.
Hoàng đế lấy làm khó chịu trước sự thái quá, thiếu thận trọng của vị Alexandrie
này, và do sức ép của cận thần, đồng thời ngay sau đó được nhiều người yêu cầu,
nên vào ngày 19. 11. 430, ông quyết định triệu tập Công Ðồng ở Éphèse thuộc đế
quốc Ðông phương vào ngày 07. 6. 431, quyết định này đã được Ðức Giáo Hoàng
Célestin I ưng thuận ngay sau đó, để giải quyết các vấn đề còn bỏ ngỏ.
Trong thời gian này, các Giám
Mục vùng Ðông phương đã dược thông tin về cuộc tranh cãi. Jean d Antioche gửi
cho Nestorius một lá thư đầy tình huynh đệ, và đã nhận được thư phúc đáp, trong
đó Nestorius đồng ý về vấn đề : "Ðức
Maria là Mẹ Thiên Chúa" (Theotokos), Jean coi cuộc tranh luận
kể như đã kết thúc. Sau đó, Jean d Antioche lại nhận được bản "án vạ tuyệt thông" của Cyrille,
và nhận thấy trong bản văn này có sự chỗi dậy của thuyết Apollinaire, rất cần
phải được xem xét tại Công Ðồng, đúng là gậy ông đập lưng ông ! Jean d Antioche
và phần đông các Giám Mục Ðông phương đã tới Éphèse ngày 26. 6. 431, và các vị
đại diện của Ðức Giáo Hoàng tới Éphèse ngày 09. 7. 431. Mặc dầu có sự phản đối
của 68 Giám Mục và của bá tước Candidien đại diện cho hoàng đế, ngày 22. 6.
431, Cyrille đã triệu tập 154 Giám Mục kết án khiếm diện Nestorius và truất phế
"tên Giuđa mới này" và
không xem xét lại "12 án vạ tuyệt
thông". Khi đến Éphèse vào ngày 26. 6, với sự ưng thuận của
Candidien, Jean d Antioche và khoảng 50 Giám Mục lại kết án Cyrille và Memnon d
Éphèse (bạn của Cyrille), khai trừ khỏi Giáo Hội những người về phe với Cyrille
và Memnon cho tới khi họ bỏ "12 án
vạ". Như thế, cả hai phe đều thi nhau lạm quyền.
Hoàng đế Théodose muốn hủy bỏ
tất cả, bắt đầu lại từ đầu. Nhưng rồi các sứ giả của Ðức Giáo hoàng cũng đã tới
nơi, lập tức dự họp và ngày 22. 7 đã chấp nhận các quyết định của khoá họp ngày
22. 6. Ða số các Nghị Phụ tiếp tục thảo luận, có các vị đại diện của Tòa Thánh
trong tháng 7 và tháng 8. Hoàng đế Théodose một lần nữa lại toan nắm quyền chủ
động các vấn đề, qua trung gian của một vị đại diện mới là bá tước Jean, hoàng
đế kết án và bắt giữ Nestorius, Cyrille và Memnon. Tuy nhiên, Cyrille vẫn tìm
cách xoay sở, vận động với triều đình : ngài dùng cả vàng bạc mua chuộc các bà
hoàng.
Kết cục, chỉ còn Nestorius,
Giám Mục Constantinople là nạn nhân duy nhất của Công Ðồng đầy biến động này.
Và, trên thực tế, tuy có những hành động trái phép, mưu mánh, nhưng Cyrille có
chỗ dựa là Ðức Giáo Hoàng và được đại đa số các Giám Mục ủng hộ. Ðức Sixte III,
người kế vị Ðức Giáo Hoàng Célestin, công nhận các kết quả sau đây của Công
Ðồng : Kết án và bãi nhiệm Nestorius - Ngôi hiệp (union hypostatique, hiệp nhất
trong ngôi vị - en personne) - Mẫu tính thần linh của Ðức Maria = Mẹ Thiên Chúa
(Theotokos). Mặc dầu không có định tín trong Công Ðồng Éphèse, nhưng từ nay
Giáo Hội đã xem các giáo lý này là những đắc thủ chính thức của Giáo Hội.
Ðức Giáo Hoàng Célestin, trong
những giây phút cuối cùng (ngày 27. 7. 432) đã ao ước có được một sự hòa giải.
Với tâm trí cởi mở của Jean d Antioche và thiện ý của Cyrille, cả hai đã đạt
được sự đồng ý với nhau về tín lý vào mùa xuân năm 433 : Jean d Antioche chấp
nhận việc kết án Nestorius và duy trì "12
án vạ tuyệt thông", còn đối với công thức mà Cyrille đưa ra thì
phải gạt bỏ mọi giải thích theo nhất tính thuyết (monophysite), và xác định rõ
hai bản tính trong Ðức Kitô. Sự hòa giải này tất nhiên hết mọi người trong phe
Antioche cũng như trong phe Alexandrie đều nhất trí. Ngọn lửa vẫn âm ỉ dưới
đống tro tàn.
LÁ THƯ THỨ II CỦA CYRILLE GỬI CHO NESTORIUS (ÐẦU NĂM 430).
(.) Thánh
Công Ðồng Nicée đã dạy rằng cùng một Con duy nhất, nhiệm sinh bởi Thiên Chúa
Cha theo bản tính, là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, ánh sáng bởi ánh
sáng, nhờ Ngài Chúa Cha tạo dựng muôn loài. Chính Ngài đã xuống thế, đã thành
xác phàm, đã làm người, chịu nạn, chịu chết, ngày thứ ba đã sống lại và lên
trời. Ðó là những lời lẽ và những giáo huấn mà chúng ta phải giữ lấy, đồng thời
lưu ý đến câu : Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể và đã làm người, có nghĩa như
thế nào. Chúng ta không nói rằng bản tính của Ngôi Lời đã biến đổi để thành xác
phàm, cũng không nói bản tính của Ngôi Lời đã biến đổi thành một con người đầy
đủ (gồm xác và hồn), nhưng đúng hơn : Ngôi Lời khi hiệp nhất theo Ngôi Vị với
một thân xác được linh hoạt bởi một linh hồn có lý trí, đã trở thành người cách
khôn tả, và được gọi là Con người (Fils de lhomme) không chỉ bởi ý chí hay bởi
ưng thuận, cũng không phải chỉ mang lấy một prosôpon [theo nghĩa là nhân vật,
personnage]. Hai bản tính khác biệt gặp nhau trong một sự duy nhất đích thực,
nhưng từ hai bản tính đó chỉ thành ra một Ðức Kitô và là Con mà thôi : sự khác
biệt giữa hai bản tính không bị triệt tiêu bởi sự kết hiệp, nhưng ngược lại,
thần tính và nhân tính hợp thành - cho chúng ta - chỉ một Chúa Giêsu Kitô và là
Con mà thôi, do sự gặp gỡ cách siêu vời, khôn tả, của hai bản tính trong một
ngôi vị duy nhất (.)
Chính vì
thế, khi chúng ta nói rằng Chúa Kitô chịu đau khổ và đã sống lại thì không phải
là Ngôi Lời Thiên Chúa đã chịu những vết đánh, những lỗ đinh và những thương
tích khác nơi bản tính riêng của Ngài (vì thần tính thì bất khả chịu nạn, vì là
vô hình, vô thể - incorporelle) nhưng vì thân xác, vốn đã trở thành của chính
Ngài, đã chịu tất cả những điều đó. Thế nên, một lần nữa chúng ta lại nói rằng
chính Ngài (Ngôi Lời) đã chịu đau khổ vì chúng ta : Ðấng bất khả thụ nạn ở
trong một thân xác chịu nạn (.)
Như vậy,
chúng ta tuyên xưng chỉ một Ðức Kitô và là Chúa, không phải khi tôn thờ một con
người với Ngôi Lời, để tránh mọi tưởng nghĩ đến sự phân chia khi dùng tiếng
"với" (avec), nhưng chúng ta tôn thờ chỉ một và cùng một Ðức Kitô mà
thôi, vì chưng, thân xác của Ngôi Lời không xa lạ với Ngôi Lời, chính với thân
xác mà hiện nay Ngài ngự bên Chúa Cha : không phải là hai người Con ngự bên
Chúa Cha mà chỉ là một Người Con, do sự hiệp nhất với thân xác riêng của Ngài.
Nhưng, nếu chúng ta gạt bỏ sự hiệp nhất theo ngôi vị, xem như là điều không thể
hiểu được, thì sẽ đi đến chỗ nói đến hai người Con : vì tất yếu sẽ tách biệt
ra, một đàng nói đến con người được vinh dự gọi là Con và đàng khác nói đến
Ngôi Lời Thiên Chúa mang danh hiệu và thực tại làm Con (filiation) tự bản tính.
Do đó, không được phân chia một Chúa Giêsu Kitô độc nhất thành hai người Con.
Tách biệt như thế không ích lợi gì cho đức tin chính thống, cho dù có một số
người đã nói đến sự hiệp nhất các "prosôpa". Vì chưng Kinh Thánh
không nói rằng Ngôi Lời đã kết hiệp với một "prosôpon" của con người,
nhưng nói rằng Ngôi Lời đã thành xác phàm (.)
Ðó là điều
đức tin chính thống dạy khắp nơi ; đó là điều chúng ta sẽ tìm thấy trong giáo
huấn của các Thánh Phụ. Chính vì vậy mà các ngài đã dám gọi Ðức Thánh Trinh Nữ
là Theotokos, không phải vì bản tính của Ngôi Lời hay thần tính của Ngài đã
nhận lấy nguyên lý hiện hữu của mình từ Ðức Trinh Nữ, nhưng vì, thân xác thánh
thiện được linh hoạt bởi một linh hồn có lý trí, mà Ngôi Lời đã kết hợp với,
theo ngôi vị, thân xác đó đã sinh bởi Ðức Trinh Nữ, nên chúng ta nói rằng Ngôi
Lời đã được sinh ra theo xác thịt (.)
Cyrille, Lettre 4, PG 77, 45B
- 48C. trad. P. Th.
Camelot. Ibid. pp. 192 - 194
revue.
LÁ THƯ THỨ III CỦA CYRILLE GỬI CHO NESTORIUS.
(Tháng 11 năm 430) - Kèm theo 12 lời án vạ tuyệt thông.
Về những lời
lẽ của Chúa Cứu Thế trong Phúc Âm, chúng ta không được phân chia theo hai ngôi
vị (hypostases) hay prosôpa (án vạ 4). Vì Ðức Kitô duy nhất và độc nhất không
phải là hai, cho dù người ta hiểu rằng, Ngài đã được hợp lại từ hai thực tại
khác nhau trong một sự duy nhất không thể tách rời, hoàn toàn giống như một con
người hợp bởi một linh hồn và một thân xác, thế mà không phải là hai, nhưng là
một (làm) bởi hai. Chúng tôi nghĩ một cách xác đáng rằng những lời lẽ thần linh
và cả nhân linh đều được nói ra bởi chỉ một và cùng một người . Vì vậy, cần
phải qui mọi lời nói trong Phúc Âm cho một prosôpon duy nhất, cho một ngôi vị
độc nhất (hypostase) đã nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa.
Án vạ thứ ba
:
Nếu, ai phân
chia hai ngôi vị (hypostases) trong Ðức Kitô, sau sự hiệp nhất, kết hợp chúng
bằng một sự kết hợp đơn thuần của phẩm vị (association de dignité) nghĩa là,
của uy quyền và của quyền năng, chứ không phải bằng một kết hợp theo sự hợp
nhất thể lý (union physique) [union physique = hiệp nhất thực sự (réelle) đích
thực (véritable) và bản thể (substantielle) - Chú thích ND], kẻ đó bị vạ tuyệt
thông.
Cyrille, Lettre 17. PG 77,
116AC et 120C, ibid. pp. 203 - 204 et 206.
TRUẤT CHỨC NESTORIUS.
Án quyết của Công Ðồng (22. 6. 431).
Theo các lá
thư và những tác phẩm của Nestorius mà chúng tôi đã đọc và theo những lời ông
ta đã tuyên bố gần đây trong Tổng Giáo Phận này mà chúng tôi hiện có bằng
chứng, chúng tôi xét thấy rằng ông ta suy nghĩ và giảng dạy những điều nghịch
đạo. Do sự đòi buộc của các khoản luật và dựa theo thư của Ðức Thánh Cha và là
đồng sự của chúng tôi, Ðức Célestin, Giám Mục Giáo Hội tại Roma, chúng tôi đau
đớn đưa ra án quyết này đối với ông ta : "Chúa Giêsu Kitô của chúng ta,
Ðấng đã bị xúc phạm, ra lệnh qua Thánh Công Ðồng này rằng : Nestorius bị loại
ra khỏi chức vụ Giám Mục và tất cả các hội nghị Giám Mục".
THÔNG TRI ÁN QUYẾT.
Thánh Công
Ðồng, được triệu tập tại Tổng Giáo Phận Éphèse, nhờ ơn Chúa và theo lệnh của
hoàng đế rất thánh và rất đạo đức của chúng ta, thông báo cho Nestorius, tên
Giuđa mới. Ông hãy biết rằng vì những lời giảng dạy nghịch đạo của ông và vì sự
bất tuân phục của ông đối với các khoản luật Giáo Hội, ông đã bị cách chức bởi
Thánh Công Ðồng này ngày 22. 6 này và ông không còn giữ chức vụ nào trong Giáo
Hội nữa.
Trad. P. Th. Camelot, Ibid.
pp. 53 et 208.
KITÔ HỌC CỦA
CYRILLE TRONG CUỘC XUNG ÐỘT.
Ngoài các bài giảng, các bức
thư, "12 án vạ" và
những tiểu luận phát xuất từ chính cuộc xung đột đã được nói tới, Cyrille còn
soạn một loạt các tác phẩm ; một khảo luận "Chống
những lời phạm thượng của Nestorius", những bài biện minh cho "các án vạ" của mình
(Anathématismes), một tác phẩm bênh vực "Ðức
Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa", "Về sự Nhập Thể của Con độc nhất, về sự duy
nhất của Ðức Kitô" (De l Incarnation du Fils unique, De lunité
du Christ).
Trong cuộc chiến chống lại
Nestorius, Cyrille đã phản ứng theo lôgíc thần học trước kia của mình, nhưng
ngài đã có lập trường cứng rắn hơn khi đặt Kitô học lên vị trí hàng đầu. Con
người mà ngay từ đầu đã là kẻ bênh vực tính duy nhất của Ngôi Lời Nhập Thể thì
nay minh nhiên tố giác chủ trương nhị nguyên của đối thủ. Biến "con người của Ðức Kitô" thành
một chủ thể qui thuộc (suject dattribution) đối diện với Ngôi Lời, thì đó là
phân chia Ðức Kitô, là nhìn nhận có hai người con. Không thể nghi ngờ Cyrille
theo nhất tính thuyết được (monophysisme, một bản tính độc nhất). Ngài hoàn
toàn thừa nhận hai bản tính trước hiệp nhất, không biến đổi, không lẫn lộn
trong hiệp nhất, và từ nay sự hiệp nhất đó mãi mãi sẽ không phân chia. Nhưng,
trước khi phối hợp, nhân tính một cách nào đó chỉ có trên lý thuyết : Không có
việc "một người bình thường" hiện
hữu trước, biệt lập (nhân tính không sinh ra biệt lập) nhưng nó chỉ nhận được
thực tại của mình nơi sinh ra của Ðức Giêsu, nơi "việc trở thành người của Ngôi Lời" (le devenir
homme du Verbe - J. Liébaert). Hiểu trong tinh thần đó thì tính duy nhất của
Ðức Kitô là điều đương nhiên, và "Ðức
Maria Ðấng sinh ra Ngôi Lời" là điều thiết yếu của hệ thống.
Sau sự hiệp nhất các bản tính trong sự duy
nhất theo bản tính" (unité naturelle, unio secundum naturam)
thì chỉ có "một ngôi vị nhập thể độc
nhất của Ngôi Lời". Vả lại, vì các từ ngữ "bản tính" (cụ thể, nature
concrète, physis) và "ngôi vị"
(hypostase) được hiểu tương đương với nhau, nên Cyrille còn nói tới "bản tính độc nhất của Chúa Con" "chỉ
một, mặc dù Ngài đã trở thành người và xác phàm", "bản tính nhập thể
độc nhất của Ngôi Lời Thiên Chúa" [mia physis tou theov Logon
Sesarkômênê]. Công thức này thực ra là của thuyết Apollinaire mà
Cyrille lại tưởng là của Athanase. Chứng lý dựa vào tư tưởng Giáo Phụ này quả
đã không giúp ích bao nhiêu cho Cyrille, một người mà trong toàn bộ tác phẩm
của mình, đã ra sức bênh vực tư tưởng Giáo Phụ, nhất là trong cuộc xung đột với
Nestorius.
DUNG HÒA GIỮA ALEXANDRIE VÀ ANTIOCHE (433).
(Công Thức Liên Hiệp).
Chúng tôi
tuyên xưng . Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Con Một Thiên Chúa, hoàn toàn là
Thiên Chúa và hoàn toàn là người (hợp bởi) một linh hồn có lý trí và một thân
xác ; từ trước muôn đời sinh bởi Thiên Chúa theo thần tính, và trong những ngày
sau cùng, cũng chính Ngài, vì chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, (sinh bởi) Ðức
Maria theo nhân tính ; Ðấng đồng bản thể với Chúa Cha theo thần tính
(con-substsntiel) và đồng bản thể với chúng ta theo nhân tính, cùng là một. Vì
chưng đã có sự hiệp nhất của hai bản tính ; vì vậy chúng tôi tuyên xưng một Ðức
Kitô, một Con, một Chúa. Phù hợp với ý niệm về sự hiệp nhất không lẫn lộn này,
chúng tôi tuyên xưng Ðức Thánh Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos), vì rằng
Ngôi Lời Thiên Chúa đã Nhập Thể và đã làm người, và do chính sự thụ thai, đã
hiệp nhất với đền thờ mà Ngài nhận lấy từ Ðức Trinh Nữ. Còn về các lời của Phúc
Âm và của các Tông Ðồ về Chúa, chúng tôi biết rằng, có những lời được các nhà
thần học áp dụng một cách không phân biệt, như cho một ngôi vị (prosôpon) duy
nhất, và phân chia những lời khác, như thế theo hai bản tính, qua việc truyền
đạt lại những lời phù hợp với Thiên Chúa theo thần tính của Ðức Kitô, và những
lời thấp hơn, theo nhân tính.
Bản văn này
đã được Cyrille nhiệt liệt tán thưởng trong bức thư 39 gửi Jean d Antioche PG
77, 176D - 177B, và kèm theo những lời bình giải của Cyrille, chẳng hạn như :
Còn về những
kẻ nói rằng, đã xảy ra một sự pha trộn, một sự lẫn lộn, một sự hỗn hợp giữa
Thiên Chúa với xác phàm, thì chớ gì ngài hãy khoá miệng chúng lại. Có thể một
số người sẽ nói về tôi, bảo rằng chính tôi đã nói hoặc nghĩ như thế. Nhưng tôi
không hề nghĩ những điều như vậy, nhưng kẻ nghĩ rằng có thể có một chút xíu
thay đổi nào đó trong thần tính của Ngôi Lời, thì tôi cho những kẻ đó là điên
rồ.
PG 77, 179B dịch theo P. Th.
Camilot,
Éphèse et Chalcédoine, p. 214.
THỜI GIAN CUỐI ÐỜI CỦA NESTORIUS.
Vì họ đã có
những thành kiến chống lại tôi và vì họ đã không tin điều tôi nói, làm như thể
tôi là người che đậy chân lý và cản trở việc diễn đạt chân lý cách chính xác,
nên Thiên Chúa đã cho xuất hiện một lệnh sứ không thiên kiến - Ðức Léon - vị đã
không sợ hãi công bố chân lý. Vì thành kiến tạo ra bởi (danh xưng Công Ðồng) đã
khiến nhiều người theo, kể cả nhân vật (prosôpon) của người Roma [Ðức Célestin]
và ngăn cản họ tin những gì tôi nói, và những điều đó vẫn không được xem xét,
nên Thiên Chúa đã cho phép điều ngược lại xảy ra là Ngài đã đưa Ðức Célestin,
Giám Mục Roma ra khỏi trần gian này. Chính Ðức Célestin đã giữ vai trò chính
trong việc chống lại tôi ở Công Ðồng Éphêse, và như thế là Thiên Chúa đã khiến
tán thành và chuẩn y (qua Ðức Giáo Hoàng Léon) điều đã được Giám Mục
Constantinople này đã nói (.)
Ðối với tôi,
tôi xem những đau khổ của đời tôi và mọi điều đã xảy đến cho tôi rong thế giới
này như là một đau khổ chóng qua và tôi đã không thay đổi suốt trong những năm
tháng cuối đời này. Gần đây, thời gian cuối đời của tôi đang đến gần, và mỗi
ngày tôi cầu xin Thiên Chúa giải thoát tôi vì chính mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu
độ của Ngài.
Kết : Hãy
nhảy mừng trong tôi, hỡi hoang mạc, người bạn của tôi, người nuôi dưỡng tôi và
là nơi trú ngụ của tôi, ngay khi tôi chết, xin hãy giữ gìn thân xác tôi cho tới
ngày phục sinh theo ý muốn của Thiên Chúa. Amen.
Nestorius, Le livre d
Héraclide de Damas,
Fin, Trad. Fr Nau, Paris, pp.
327.
HAI ÐỐI THỦ
SAU CUỘC XUNG ÐỘT.
Nestorius là nạn nhân của Công
Ðồng Éphèse cả về con người lẫn tác phẩm. Trước hết, ông bị đưa về tu viện của
ông ở Antioche, sau đó bị lưu đày ở Libie ; ông sống tới ngoài năm 450. Tác
phẩm của ông bị đốt. Ngoài những đoạn văn ít ỏi, một vài lá thư và một vài bài
giảng còn giữa lại được trong các văn kiện của vụ án, còn có một khảo luận mang
tựa đề : Le livre d Héraclide de Damas, trong tác phẩm này, kẻ bị lưu đày
(Nestorius) hơn bao giờ hết xác quyết sự duy nhất bản thể (unité substantielle)
trong Chúa Kitô, hai bản tính thấm nhập vào nhau nhưng không lẫn lộn trong một
ngôi vị duy nhất (prosôpon) và đau đớn kêu lên rằng niềm tin của mình phù hợp
với niềm tin của Ðức Giáo Hoàng Léon I.
Cyrille đã chết trước
Nestorius : ngày 27. 7. 444, sau khi đã nối dài thêm công trình của mình. Vào
năm 435, những người Arméniens đã đến Constantinople tố cáo Kitô học của Théodore
de Mopsueste với những trích văn để dẫn chứng và đã nhận được sự tán thành của
Proclus, vị Tân Giám Mục, dưới hình thức một "Tập
sách gửi người Armenie" (Tome aux Arméniens) kèm theo tập văn
tuyển (trích văn) đáng ngờ. Phần trình bày về Mầu Nhiệm Nhập Thể, trong nỗ lực
hòa giải Antioche và Alexandrie, không có gì đáng kể lắm, mặc dù ông có nói đến
một trong "Ba Ngôi đã nhập thể" ,
một công thức sau này trở thành nổi tiếng, nhưng các trích dẫn đó lại không có
tên tuổi gì cả. Tuy nhiên, sự xúc phạm tới Théodore này, rất dễ dàng nhận thấy,
và cả Diodore de Tarse nữa, lại khêu lên ngọn lửa xung đột. Cyrille đã soạn,
khoảng năm 438, một thiên khảo luận : "Chống
Diodore và Théodore". Nhưng ngay sau đó, ngài yêu cầu đừng kết
án những người đã khuất. Ngài đưa ra những bằng chứng cho Jean d Antioche và cố
gắng xoa dịu Proclus. Tiếp đó ngài hoàn toàn rời bỏ các tranh luận, tiếp tục
theo đuổi công trình chú giải : Chú giải các Phúc Âm theo thánh Matthêu và Luca
; tác phẩm này (Luca) bị thất tán nhưng nay phần lớn đã được khôi phục lại.
Cuốí cùng, ngài đã thực hiện được một công trình rất bề thế : Chống Julien" (Contre Julien), trong
đó bằng những dẫn chứng rõ ràng, ngài phản bác lại tác phẩm "Chống những người Galilé" (Contre
Galiléens) của hoàng đế Julien (JUlien l Apostat) [F. Cayré lại gọi tác phẩm này là : "Contre les évangiles et
contre les chrétien" - chú thích ND].
BÊN KIA XUNG
ÐỘT, CYRILLE - CON NGƯỜI THIÊNG LIÊNG.
Cyrille không tự giam hãm
trong cuộc chiến chống Arius cũng như Nestorius. Người ta có thể phê phán học
thuyết của ngài có chỗ tầm thường, có chỗ nguy hiểm. Nhưng một điều không thể
chối cãi, là thần học luôn luôn hướng tới đời sống thiêng liêng, nhất là trong
cuốn "Kho tàng ." và
trong "Chú giải Thánh Gioan". Tập
nghiên cứu rất dài (chiếm một cuốn trong bộ Migne) về sách Ngũ Kinh là một tập
văn tuyển (Glaphyres) mang một tựa đề có tính biểu tượng : "Về tôn thờ và về phụng tự trong Thần Khí và
chân lý" (De l adoration et du culte en Esprit et en vérité).
Theo Cyrille, tất cả khởi đi từ Ba Ngôi và sự cư ngụ của các ngôi vị thần linh
trong người Kitô hữu. Con người phải đạt tới sự hoàn hảo trong Chúa Cha qua
việc bắt chước Chúa Con, Ðấng ban Chúa Thánh Thần cho con người. Con người đã
được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, được nâng đỡ bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Ðấng
cư ngụ trong con người". Tội lỗi đã khiến con người không còn
là nơi Thiên Chúa cư ngụ, không còn là họa ảnh của Thiên Chúa. Nhưng, Chúa Con
đã đến, đem lại cho chúng ta khả năng tái tạo lại hình ảnh đã bị hủy hoại đó.
Ngài chính là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha. Ngài đã trở thành người và qua đó
kết hợp với toàn thể nhân loại. Người Kitô hữu nhờ đó có thể kết hợp với Ðức
Kitô và trong Ngài, tái lập lại hình ảnh của Thiên Chúa và tiến về với Chúa
Cha. Việc được tháp nhập vào thân thể của Ðức Kitô (incorporation) cũng là sự
thuần hóa (divinisation), được thực hiện trong Giáo Hội qua các Bí Tích, nhất
là Bí Tích Thánh Thể, vì Bí Tích Thánh Thể vừa kết hợp chúng ta với Ðức Kitô,
vừa kết hiệp chúng ta với các tín hữu trong cùng một thân thể. Sự hợp nhất của
nhân loại với Chúa Con trong Mầu Nhiệm Nhập Thể được tiếp xúc và hoàn tất nơi
Bí Tích Thánh Thể. Nhưng công trình thánh hóa được thực hiện nhờ sự hiện diện
của Chúa Thánh Thần, Ðấng nhiệm xuất bởi Chúa Cha và Chúa Con : "Chính Chúa Thánh Thần nâng chúng ta lên với
Chúa Con và nhờ đó kết hợp chúng ta với Chúa Cha. Như thế, người Kitô hữu, cá
nhân cũng như cộng đoàn, trở nên hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi".
NÊN GIỐNG THIÊN CHÚA.
"Lạy
Cha chí thánh, xin gìn giữ chúng trong sự thật của Cha", nghĩa là trong
Ngôi Lời của Cha, trong Ngài và bởi Ngài, Thánh Thần thánh hóa (L Esprit
sanctifiant) hiện hữu và nhiệm xuất. Vậy Chúa Cứu Thế đã nhằm đến điều gì khi
cầu xin như thế ? Ngài khẩn xin Chúa Cha thánh hóa chúng ta trong và nhờ Chúa
Thánh Thần, và Ngài mong muốn khôi phục lại điều đã có trong chúng ta ngay từ
khi tạo thành thế gian, khi chúng ta được Thiên Chúa sáng tạo, và vì Ngài là Vị
Trung Gian duy nhất, làm Trạng Sư cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha trên Thiên
Quốc. Ðể hiểu tường tận đoạn văn này (.), chúng ta cần nói đôi chút về con
người đầu tiên. Môsê nói đến việc Thiên Chúa tạo dựng con người từ bùn đất. Và
để giải thích con người sống động này được tạo dựng hoàn hảo như thế nào ; và
đâu là nguyên lý của sự sống con người, thì ông thêm : "Thiên Chúa thổi
sinh khí vào mũi con người". Ðiều này có nghĩa là khi con người được lãnh
nhận Thần Khí (tinh thần, Esprit) thì cũng đã lãnh nhận sự thánh hóa của Thánh
Thần, và khi con người được tạo dựng thì cũng đã được tham dự vào bản tính thần
linh. Vốn có nguồn gốc hèn mạt, con người sống động này sẽ không bao giờ đạt
tới tột đỉnh là "hình ảnh của Thiên Chúa", nếu đã không được Thánh
Thần, gưong mặt tuyệt mỹ, khuôn đúc, thể theo Thánh Ý minh nhiên của Thiên
Chúa. Quả vậy, vì thánh Phaolô đã viết : "Những ai Người đã tuyển chọn thì
Người tiền định cho họ trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người", nên
Chúa Thánh Thần đến với những ai thì làm cho họ nên giống hình ảnh của Chúa
Cha, nghĩa là Chúa Con, và như thế, nhờ Chúa Thánh Thần, mọi sự được Chúa Con
dẫn đưa về Ðấng đã sinh ra Ngài là Chúa Cha. Vì vậy, Ðức Kitô xin cho bản tính
con người được đổi mới và tái tạo, một cách nào đó, theo hình ảnh ban đầu, nhờ
tác động của Chúa Thánh Thần, để một khi đã tìm lại được ân sủng đầu tiên đó .
chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, dũng mạnh hơn tội lỗi, vốn đang thống trị thế
giới này, chúng ta chỉ còn để lòng vào tình yêu Thiên Chúa và giữa cho vẻ đẹp
của hình ảnh mà chúng ta lãnh nhận nơi mình không bị hoen ố, qui hướng niềm
khát khao của chúng ta vào tất cả những gì là tốt lành và vượt thắng các đam mê
xác thịt. Ðấy là đời sống thiêng liêng, đấy là sức mạnh của thờ phượng trong
Thần Khí.
Comm. Sur Jean XI, 10 (Jean
17, 18 - 19),
PG 74, 541B - 544A, Trad. J.
Liébaert revue.
DUY NHẤT NHỜ BÍ TÍCH THÁNH THỂ.
Tuy chúng ta
khác nhau do sự khác biệt của mỗi người, và vì chúng ta có linh hồn và thể xác
riêng, nhưng Người Con Một đã đưa ra phương thế để chúng ta được đi vào trong
sự duy nhất với Thiên Chúa và duy nhất với nhau ; khi hiến thánh trong cùng một
Thân Thể duy nhất, Thân Thể của Ngài, tất nhiên và các tín hữu, nhờ hiệp thông
thần bí (union mystique), Ngài làm cho họ được trở nên đồng Thân Thể với chính
Ngài (concorporels) và đồng thân thể với nhau (.) nếu tất cả chúng ta tham dự vào
cùng một bánh thì chúng ta tất cả trở nên cùng một Thân Thể.
Ðức Kitô
không hề bị bất cứ sự phân chia nào. Chúng ta tất cả được hiệp nhất với cùng
một Ðức Kitô nhờ Thánh Thể của Ngài, vì chúng ta đón nhận Ngài như là Ðấng duy
nhất và bất khả phân chia, vào trong chính thân thể của chúng ta, chúng ta có
được những chi thể của mình là do Ngài hơn là do chính chúng ta . Nếu chúng ta
tất cả là đồng thân thể (concorporels) với nhau trong Ðức Kitô, và không những
đồng thân thể với nhau, mà cả với Ngài nữa, bởi lẽ Ngài đến trong chúng ta bằng
chính xác thịt Ngài, thì rõ ràng từ nay lẽ nào chúng ta lại không là một với
nhau và là một trong Ðức Kitô ? Ðức Kitô quả thực là mối dây duy nhất.
Comm. sur Jean XI, 11 (Jean
17, 20 - 21) PG 74, 560AD.
Còn về sự
hiệp nhất với Thiên Chúa, thì không phải sự qui hướng của các ý chí đem lại cho
chúng ta kho tàng phong phú đó ; có một lý do khác, khôn tả, và có tính cách
ràng buộc hơn, đã thiết lập mối dây hiệp nhất này. Theo như lời thánh Phaolô
chỉ dẫn cho chúng ta về mầu nhiệm này, thì chúng ta tuy nhiều nhưng cũng chỉ là
một thân thể vì chúng ta thông phần vào cùng một bánh (1Cor 10, 17) (.). Chúng
ta tuy phân cách thành những ngôi vị riêng, tôi muốn nói là những cá vị, vì đó
mà người này là Phêrô hay Gioan, người khác là Tôma hay Matthêu, nhưng chúng ta
đã trở nên đồng thân thể trong Ðức Kitô, được nuôi dưỡng bằng cùng một Thân
Mình và được niêm ấn trong sự duy nhất bởi một Thánh Thần độc nhất và như Ðức
Kitô là Ðấng không thể phân chia - vì Ngài không bao giờ để mình bị phân chia -
nên tất cả chúng ta là một trong Ngài.
Dial. sur la Trinité 1. SC no.
231, pp. 193 - 195,
Trad. G. Matthieu de Durant.
MỘT VỊ THÁNH
CHO LỊCH SỬ.
Cyrille rõ ràng đã có một ảnh
hưởng trong việc gây dựng giáo lý về Mầu Nhiệm Nhập Thể. Bất chấp sóng gió và
dù đúng hay sai, ngài đã nhăc nhở tính duy nhất của Ðức Kitô chống lại khuynh
hướng phân biệt hai bản tính cách quá đáng của Antioche. Ngài đặt mầu nhiệm "nhân - thành" (le devenir
homme) của Ngôi Lời không phải vào trong một hệ thống suy lý lạnh lùng, nhưng
vào bầu khí thần nhiệm của những cuộc trùng phùng, tao ngộ giữa con người với
Thiên Chúa của mình. Nơi cuộc gặp gở đó xuyên qua Người Con, hình ảnh ban đầu
được khôi phục lại trong mọi con người, được thần hóa bởi Thánh Thần, được thâu
họp trong Giáo Hội bằng cánh tay yêu thương, để rồi tiến về Nhà Cha. Cyrille
hiển nhiên đã đóng một vai trò quan trọng trong Giáo Hội Byzantine và Giáo Hội
này đã xem ngài là một trong những nhân vật vĩ đại nhất của mình. Là người gắn
bó hết mình với truyền thống Alexandrie và thực tình muốn gắn bó với đức tin
chính thống, Cyrille đã hòa lẫn hai điều đó bởi tấm lòng hăng say thánh thiện,
và đã hơn một lần, sự thánh thiện đã nhường bước trước lòng hăng say. Lý tưởng
của ngài là "bất cứ lúc nào cũng đi
theo những lời tuyên tín của các Thánh Phụ (professions de foi), vốn là những
lời do tác động của Chúa Thánh Thần, và luôn luôn chăm chú theo dõi dấu vết tư
tưởng của các ngài". Nhưng vì nguồn tài liệu của ngài cũng như
các thuật ngữ ngài xử dụng không được chắc chắn, nên mặc dù tư tưởng của ngài
là chính thống, ngài đã để lại một số công thức mãi mãi tạo cơ sở cho một chủ
trương nhất tính sai lạc (monophysisme). Tuy vậy, trong lịch sử, Cyrille vẫn
mãi là người bảo vệ chân lý đối diện với Nestorius, kẻ bị nguyền rủa.
Vị theo Antioche có lẽ đã liều
mình đập vỡ Ðức Kitô thành hai, nhưng vị theo Alexandrie, khi gợi ra huyền
nhiệm nhân - thành của Ngôi Lời, dường như đã coi nhẹ nhân tính của Ðức Kitô và
ngay cả làm phương hại đến tính bất biến (immutabilité) của thần tính. Các phản
ứng chống lại tất yếu sẽ không thiếu.
II. THÉODORET
DE CYR
VÀ CHIẾN
THẮNG ÐẦY GIAN NAN CỦA ANTIOCHE Ở CHALCÉDOINE.
Con người qua đi, nhưng tư
tưởng vẫn còn. Jean d Antioche qua đời năm 442, cháu là Domnus lên kế vị, rồi
đến Maxime ở Alexandrie, Cyrille mất năm 444, nhường lại cho Dioscore, còn tại
Constantinople, sau Proclus (446) tới Flavius, rồi Anatole. Dioscore d
Alexandrie sẽ tiếp tục cầm lấy ngọn đuốc của Cyrille, nhưng với ngọn lửa cháy
dữ dội hơn,do sự lôi kéo của một đan viện trưởng ở Constantinople là Eutichès,
nhưng trên đường chạy, Diodore đã bị một vị Antioche rất tầm cỡ chặn đường, đó
là Théodoret de Cyr.
NHỮNG MỐI LO TOAN CỦA MỘT GIÁM MỤC -
LÒNG THƯƠNG XÓT NHỮNG NGƯỜI NỘP THUẾ.
Khi còn sống
trong đời đan tu, thì sự an tĩnh là điều tôi ưa thích hơn mọi của cải trần thế,
và đó cũng chính là luật sống của đời tu trì. Nhưng kể từ ngày Thiên Chúa muốn
tôi trở thành mục tử coi sóc các linh hồn, tuy dù tôi bất xứng, thì tôi thường
phải lo nghĩ đến các công việc, những mối lo toan đó quả đè nặng lên tôi, nhưng
đó là những gì đúng với trách nhiệm của mình và hữu ích cho các con chiên .
Qua thư này,
tôi xin có lời chào ngài, và xin ngài cho vùng đất Sergithée (thuộc Giáo Phận
của tôi, và là vùng đất nộp thuế dưới quyền kiểm soát của ngài) được hưởng lòng
khoan hậu của ngài.
Bởi lẽ các
nông dân trồng trọt trên vùng đất đó bị khánh kiệt vì số lượng dầu họ phải đổ
ra, trong khi đất đai lại chẳng sinh hoa lợi gì, năm trước cũng như năm nay, mà
nếu có thì chẳng là bao . Tôi thiết nghĩ . ngài nên xét cho những người canh
tác vùng đất đó được châm chước, nếu họ không có khả năng đóng số thuế ấn định
: vì cũng như các giếng nước không thể cung cấp nước dồi dào nếu không có các
nguồn suối cung cấp. Nếu chúng tôi lên tiếng xin ngài điều đó cũng là vì các
nông dân kèo nài chúng tôi rất nhiều lần. Khi ngài xem xét sẽ phải hành động
như thế nào, và nhận ra những lời chúng tôi nói là có căn cứ, ước mong ngài cho
chúng tôi, tôi tin chắc như thế, được hưởng lòng nhân từ đại lượng của ngài,
như chính ngài cũng mong hưởng lòng khoan nhân của Thiên Chúa hoàn vũ.
Thư 18, gửi Aréobindus, một
chỉ huy quân đội
SC no. 40, 89 - 90.
- Lá thư có lẽ viết trước năm 434.
MỘT GIÁM MỤC
NHIỆT THÀNH.
Théodoret sinh ở Antioche vào
năm 393. Ðược giáo dục trong bầu không khí đạo đức, và đã hấp thụ được một nền
văn hóa đạo đời tốt đẹp của Syrie lẫn Hylạp. Năm 323, ông được chọn làm Giám
Mục thành Cyr ở Syrie (mạn đông Euphrate), gần Antioche. Ngài cai quản Giáo
Phận với tất cả trí tuệ và tâm huyết. Trong thành phố quê mùa, lạc hậu này,
Théodoret đã phải bảo vệ các lợi ích vật chất của giáo dân kể cả việc đứng ra
nhận thầu các công trình công cộng. Nhưng trước hết ngài là người nổi tiếng
trong việc đem người khác trở lại đạo, quan tâm đến người ngoại giáo và người
Dothái. Chính vì muốn giúp họ mà ngài đã soạn cuốn Phương pháp trị các căn bịnh Hylạp hay chân lý Phúc Âm được chứng minh
bằng triết học Hylạp" (Thérapeutique des maladies helléniques
ou la vérité des Évangiles prouvée par la philosophie Gresque). Ðây là tác phẩm
hộ giáo cuối cùng và có lẽ là tác phẩm hộ giáo vĩ đại nhất của Kitô giáo cổ
thời, trong đó tác giả chứng minh sự thua kém của ngoại giáo về mọi phương
diện. Với tư cách là Giám Mục, trong nhiều tác phẩm nay đã thất lạc, Théodoret
bác bỏ các lạc thuyết của Ariô, Eunome, Macédonie (pneumatomaque), Marcion.
Trước năm 430, ngài cũng đã viết "Trình
bày đức tin chân thực" (expose de la vraie foi) và một khảo
luận "Về Mầu Nhiệm Ba Ngôi chí thánh và
tác sinh và về Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa" (De la Sainte et
vivifiante Trinité et de l Incarnation du Seigneur), đây là hai tác phẩm bộc lộ
rất rõ khuynh hướng của Antioche, trong đó, cùng với phần khá lớn tư tưởng
truyền thống, ngài thường nói đến nhân tính, trong ngôi vị độc nhất (prosôpon)
của Ðức Kitô, bằng những từ ngữ cụ thể : Con
người hữu hình", "Con người hoàn hảo", "Sự hoàn hảo của con
người-được-đảm nhận" (l homme assumé). Ðức Kitô, là "Ngôi Lời-đảm nhận với con người-được-đảm
nhận" (Le Christ, c est la Verbe assumanat avec l assumé), mỗi
bản tính vẫn giữ các đặc tính riêng của mình, không thay đổi, không lẫn lộn.
Người ta có cảm tưởng rằng nơi Théodoret từ "prosôpon"
chỉ con người cụ thể, rõ ràng bên ngoài (personnage) hơn là một ngôi
vị (personne) theo nghĩa hữu thể luận.
TỪ CYRILLE
ÐẾN EUTYCHÈS.
Là nhà tư tưởng theo truyền
thống Antioche như thế, Théodoret không thể không nhạy cảm đối với cuộc tranh
cãi giữa Cyrille và Nestorius. Théodoret minh nhiên chủ trương tính duy nhất và
độc nhất của Con Thiên Chúa. Nhưng ngài bác bỏ sự hiệp nhất hai bản tính trong
ngôi vị theo kiểu Cyrille và tỏ ra dè dặt về sự chuyển thông các đặc tính giữa
hai bản tính. Ngài tuyên bố điều đó vào năm 431 qua tác phẩm "Refutation des XII Anathèmes" (Bác
bỏ 12 án vạ), trong tác phẩm này ông cho Cyrille là kẻ theo thuyết của
Apollinaire, và điều này cũng đã khiến Cyrille trả đũa lại bằng cuốn "Chống Théodoret". Cũng với tư
tưởng đó, năm 431 - 432, ngài đã viết cho 151 đan sĩ Syrie mạn Euphrate, một
khảo luận gồm năm cuốn "Pentalogos",
nhằm chống lại Giám Mục Alexandrie (Cyrille). Tuy nhiên, Théodoret
là con người nghĩa khí, trung thực đối với người khác, đồng thời lại mềm mỏng
với các diễn ngữ (expressions). Ngay giữa cuộc tranh luận tại Công Ðồng Éphèse,
chỉ mình Théodoret thuộc phái Antioche đã nhìn nhận một công thức của Cyrille
là chính thống mặc cho sự bực tức của bạn hữu. Chính ông đã soạn một lời tuyên
tín rất tinh tế, tuyên xưng hai bản tính (diphysite) và hầu chắc đã được dùng
làm nền tảng cho công thức liên hiệp [đôi khi còn được gọi là Tín Biểu Éphèse -
Symbole d Éphèse. - Chú thích của ND] được thoả thuận năm 433 giữa các Nghị Phụ
Ðông phương và Cyrille, vị đứng đầu Alexandrie. Ðối với Théodoret, công thức
liên hiệp (l acte de paix, formule d union) không phải chỉ là sự kết án cá nhân
Nestorius, ký nhận bản văn đó hẳn sẽ bao hàm cả việc truất chức kẻ lạc giáo,
dưới mắt của Cyrille và sau đó là hoàng đế. Vì áy náy lương tâm và nghĩ ngợi
với bạn bè, Théodoret đã do dự một thời gian dài trước khi ký. Vào năm 436 -
437, do hoàng đế Théodose đòi hỏi và dưới áp lực của Ðức Thượng Phụ Jean, ông
đã tự tay ký nhận, trong khi Alexandrie de Hiérapolis (Mabbourg), vị Tổng Giám
Mục của ngài vẫn kiên quyết chống lại "một
bản tính nơi Ðức Kitô" và chấp nhận lưu đày. Cũng trong thời kỳ
này, những cuộc đụng độ khác nổ ra, và lần này thì Diodore de Tarse và Théodore
de Mopsueste cả hai đều đã qua đời, lại là nạn nhân. Năm 348, Cyrille viết cuốn
"Chống Diodore và Théodore", Théodore
trả đũa lại bằng tác phẩm "Bênh Diodore
và Théodore" (nay đã thất lạc). Ðây có lẽ là lúc cuộc đối đầu
giữa Alexandrie và Antioche lộ rõ hơn cả. Tuy nhiên, các mối liên hệ giữa
Théodoret và Cyrille về sau đã trở nên hòa dịu.
Riêng với Théodoret, chín năm
sau, ngài lại lao vào cuộc chiến chống lại một đan viện trưởng ở
Constantinople, đó là ngài Eutychès rất đáng kính, đạo đức hơn là thông minh,
có con đỡ đầu là Chrysaphe rất thần thế ở bên cạnh vua Théodose II. Là người
theo Cyrille nhưng với một đầu óc trì độn, Eutychès giảng dạy rằng : "Chúa Kitô có hai bản tính trước khi kết hiệp,
nhưng sau khi kết hiệp thì chỉ có một bản tính", nhân tính bị
tan biến trong thần tính. Chủ trương nhất tính (monophysisme) này đã lan rất xa
ra ngoài thủ đô, đặc biệt ở Alexandrie và Aicập, với sự trợ lực của hoàng đế và
Dioscore, người kế vị Cyrille, chính Dioscore đã dựng lại chủ trương "Ðức Kitô có một bản tính". Vào
năm 447, Théodoret soạn bộ Eranistès" (Kẻ
ăn xin) hay "Polymorphos" (Nhiều
hình thái) gồm bốn cuốn. Ba cuốn đầu viết theo thể đối thoại giữa một người
Kitô hữu chính thống và một người ăn xin (eralistès) và trên thực tế, đó là kẻ
theo nhất tính thuyết, đi góp nhặt đủ hình thức lạc giáo ( "polymorphe") của bốn thế kỷ
đầu. Cuốn thứ tư là phần kết luận được viết bằng một ngôn ngữ đối thoại có tính
sư phạm rất cao. Tác phẩm này trình bày một cách rất chặc chẽ, chính xác về
tính bất khả thụ nạn (impassibilité) của thần tính và do đó, tính bất biến của
Ngôi Lời trong Ðức Kitô. Như thế ông loại bỏ chủ trương Ngôi Lời chịu khổ nạn.
Théodoret nhấn mạnh đến hai bản tính, bản
tính-đảm-nhận và bản tính-được-đảm-nhận" (l assumant et l
assumé), gạt bỏ mọi pha trộn giữa hai bản tính, nhưng đồng thời tuyên bố chỉ có
một Người Con, và chấp nhận ngay cả sự hiệp
nhất thể lý" (unité physique) [physique
= réel, substantiel, véritable. - Chú thích của ND] được thực hiện
ngay trong chính hành vi "đảm
nhận" (assomption), hơn nữa, vì nhân tính không hiện hữu trước
khi phối hợp. [Nhân tính được đảm nhận ngay
khi hiện hữu. - Chú thích của ND]. Ðây là tác phẩm tín lý quan trọng
nhất của Théodoret, dựa vào 238 câu trích dẫn từ 88 nguồn tài liệu khác nhau.
Chính Cyrille cũng đã dựa vào các tài liệu của các Giáo Phụ trước ông để biện
hộ cho chủ trương của mình, nên người ta có thể nói rằng truyền thống thực sự
đã trở nên một chứng lý thần học trong Giáo Hội vào thế kỷ thứ V.
KITÔ HỌC HAI BẢN TÍNH TỪ NHỮNG NGÀY ÐẦU.
Vì thế, về
sau, khi (Thiên Chúa) muốn đem đến cho mọi người những phương dược cứu độ, Ngài
đã không nhờ các Thiên thần hay Tổng Lãnh Thiên Thần, cũng không dùng tiếng nói
phán từ trời để cho mọi người có thể hiểu, nhưng Ngài đã xây dựng cho mình một
nơi cư ngụ nơi con người (x. Yn 1, 14), nơi một cung lòng trinh khiết mà từ đó
Ngài sinh ra : đó là con người mà chúng ta nhìn thấy và là Thiên Chúa chúng ta
tôn thờ : Ðấng đã được sinh ra từ trước muôn đời từ bản thể Chúa Cha, cũng là
Ðấng nhận lấy từ Ðức Trinh Nữ điều xuất hiện (cho chúng ta). Ngài vừa mới mẻ
vừa vĩnh hằng. Quả thực, sự phối hợp đã không làm pha lẫn các bản tính, cũng
không làm tác giả thời gian phải lụy phục trước thời gian- tuy nhiên, điều này
không có ý nói rằng, điều đã được sinh ra trong thời gian lại có trước thời
gian. Ngược lại, mỗi bản tính vẫn nguyên vẹn : nhân tính vẫn mang những yếu
đuối của mình : đói, khát, ngủ, mệt nhọc, thập giá, cái chết, còn thần tính
thực hiện những hành vi thần linh : làm các phép lạ cách tự nhiên dễ dàng, cho
đôi chân khả năng đi trên biển, truyền khiến năm chiếc bánh đủ làm no thỏa bao
nhiêu ngàn người, hóa rượu ngon ngay trong tiệc cưới, chữa lành người tật
nguyền, dùng bùn tạo nên đôi mắt mà thiên nhiên lỡ quên không tạo ra trong dạ
mẹ, một lời truyền phán đủ làm những chi thể bại liệt thành cứng cát, mở cửa mồ
để gọi dậy những kẻ ngủ yên trong đó, cho họ có khả năng chạy đi, cuối cùng, đã
thực hiện tất cả các hành vi khác mà những câu chuyện trong Phúc Âm kể lại cho
chúng ta.
Thiên Chúa
đã yêu thương con người quá đỗi, đến độ các bạn và những người như các bạn,
không thể tưởng nỗi việc độc nhất của Thiên Chúa, Logos của Thiên Chúa (Lời),
Ðấng Tạo Hóa của vũ hoàn, lại mang lấy bản tính nhân loại, nhập thể và đã thực
hiện công trình cứu độ chúng ta.
(Thérapeutique des maladies
helléniques,
VI, 79 - 82, SC no.
57, pp. 283 - 284, Trad. P. Canivet).
CUỘC XUNG ÐỘT
Ở CHALCÉDOINE.
Một cuộc tấn công dữ dội bùng
lên chống lại Théodoret và cả Ibas d Édesse, người đã biện hộ cho các Giám Mục
Ðông Phương ở Công Ðồng Éphèse năm 433 trong một lá thư gửi Giám Mục Ba Tư là
Maris và đã bênh vực Théodore de Mopsueste năm 438. Ibas và Théodoret đã bị kết
án theo lạc thuyết Nestorius. Tháng 2 năm 448, hoàng đế Théodose đã nhúng tay
vào : quản thúc Théodoret tại gia và bắt Ibas đi đày. Với sự giúp đỡ của
Domnus, Giám Mục Antioche, Théodoret đã xin Flavien, người kế vị Proclus ở Tòa
Thượng Phụ Constantinople, nhưng vô hiệu, mặc dù Flavien là người theo chủ
trương hai bản tính cách xác tín. Tuy nhiên, cuộc họp Hội Ðồng Giám Mục thường
kỳ ở Constantinople năm 448 đã tuyên xưng : Sau
khi Nhập Thể, Ðức Kitô có hai bản tính trong một cá vị (hypostase) và một ngôi
vị (personne)", tuyên bố Eutychès là lạc giáo và cho phép Ibas
trở bvề.
Ðáp lại, hoàng đế Théodose
triệu tập một công đồng (cũng tại Éphèse) vào ngày 01. 8. 449. Ðức Giáo Hoàng
gủi các vị đại diện đến, kèm theo một lá thư gửi cho Flavien, mà sử sách gọi là
"Tome de Léon à Flavien". Lá
thư này trình bày Kitô học của Roma và kết án Eutychès "ông già dốt nát". Thế nhưng,
những vị được mời và được quyền bỏ phiếu lại đã được hoàng đế lựa chọn trước,
còn Théodoret và các bạn bị loại bỏ. Hoàng đế giao cho Dioscore d Alexandrie
chủ tọa, chính Dioscore đã dùng đến vũ lực tại công đồng, đó là "trò bất lương ở Éphèse" (Brigandage
d Éphèse) nói theo từ ngữ của Ðức Giáo Hoàng Léon. Trong khi Eutychès được phục
chức thì Théodoret, Ibas và Flavien lại bị truất chức.
Flavien de Constantinople ,
sau đó là Théodoret đã xin đức Giáo Hoàng triệu tập một Công Ðồng mới. Marcien,
người kế vị Théodose II, chồng của nữ hoàng Pulchérie, đã triệu tập các Giám
Mục đến Nicée vào ngày 01. 9. 451. Các phe phái đã thay đổi. Nếu Alexandrie vẫn
trung thành với Eutychès thì Constantinople, Antioche và Roma đã xích lại gần
nhau. Công Ðồng gồm khoảng 350 Giám Mục khai mạc ở Chalcédoine ngày 8. 10. 451.
Marcien đã yêu cầu Théodoret đến dự Công Ðồng và sau đó cách chức Dioscore.
Trong các cuộc thương thảo kéo dài, các nghị phụ đã phối hợp "Thư gửi Flavien" (Tome à
Flavien) và các biểu thức của Cyrille, ngoại trừ biểu thức về "một bản tính độc nhất", và ngày
22. 10. 451, đã đưa ra một định tín thời danh về Ðức Kitô, định tín này loại bỏ
sự lẫn lộn các bản tính theo kiểu Eutychès, loại bỏ sự phân chia hai bản tính
như chủ trương của Nestorius, nhằm bảo toàn sự duy nhất cũng như sự phân biệt
giữa hai bản tính :
"Chỉ một và cùng một Ðức
Kitô, là Con, là Chúa, là Con độc nhất, trong hai bản tính (en duo physesin),
không lẫn lộn, không biến đổi, không phân chia, không tách biệt, trong một các
vị duy nhất (hypotase), một ngôi vị duy nhất (personne, prosôpon) [Kể từ Công Ðồng Chalcédoine, trong Kitô học, hai từ
hypostase và prosôpon được coi là tương đương.- Chú thích của ND].
Vấn đề còn lại là các nhân
vật. Théodoret dù được Ðức Giáo Hoàng phục hồi nhưng luôn bị nghi ngờ có cảm
tình với Nestorius, nên khó khăn lắm mới được Công Ðồng phục chức sau khi phải
tuyên xưng đức tin thêm một lần nữa, vì Công Ðồng hiển nhiên quan tâm tới mối
nguy Nestorius hơn là những lệch lạc của nhất tính thuyết. Vị Giám Mục vĩ đại
này (Théodoret) lẽ ra phải đóng vai chủ tọa như một bậc thầy, nhưng trong các
Công Ðồng, ngài chỉ tìm thấy chỗ đứng trong hàng các nạn nhân. Tình trạng đó
kéo dài cho tới năm 553, khi các tác phẩm của ngài bọ kết án. Sau Công Ðồng
Chalcédoine, ngài vĩnh viễn lui về Giáo Phận nhỏ bé của mình, qua đời 15 năm
sau đó, khoảng năm 466.
LỜI BIỆN MINH XỨNG ÐÁNG CỦA MỘT GIÁM MỤC BỊ VU KHỐNG.
Các trình
thuật trong Thánh Kinh thật là niềm an ủi vô vàn cho những người bị vu khống.
Thật vậy, khi bị những miệng lưỡi bừa bãi vung lời dối trá hãm hại, chúng ta
cảm thấy đau khổ khác nào những mũi nhọn đâm vào, và nhớ lại câu chuyện của
Giuse đáng kính phục, nhớ tới Ðavít rất mực dịu hiền (.) Ðàng khác, khi nhìn
thấy chính Ðức Kitô, vốn là Thầy, là Ðấng Sáng Tạo nên các thời đại, Ðấng tác tạo
vũ hoàn, là Thiên Chúa thật, là Con Thiên Chúa thật, lại bị người Dothái tội
lỗi gọi là tên bịp bợm, thì chúng ta đón nhận được không chỉ là niềm an ủi,
nhưng còn là niềm vui lớn lao vì ta được xét xứng đáng thông dự vào số phận của
Thầy mình.
Hôm nay, tôi
buộc phải viết cho ngài những điều ấy, sau khi đọc lá thư của ngài gửi cho Ðức
Domnus, vị Tổng Giám Mục rất được Chúa yêu thương và rất mực thánh thiện của
tôi. Bởi chưng, trong lá thư của ngài đặc biệt có đề cập đến việc một số người
đã đến Thành Phố Lớn mà ngài cai quản, tố cáo chúng tôi phân chia Ðức Kitô duy
nhất, Chúa chúng ta, thành hai người con, nói tôi rao giảng thuyết đó ở
Antioche, nơi có cộng đoàn gồm hàng chục ngàn thính giả. Phần tôi, tôi đã khóc
khi nghĩ đến việc những người đó đã dám thêu dệt lời vu khống rõ ràng như vậy :
Thưa ngài, xin ngài thứ lỗi, nếu nỗi đau đớn có buộc tôi phải nói ra : tôi rất
đau lòng khi ngài, một bậc thánh đức, . lại tin vào những lời dối trá của họ.
Tuy nhiên, phía họ, họ chỉ có ba, bốn hoặc mươi lăm người, trong khi bên tôi có
cả hàng chục ngàn thính giả có thể làm chứng lời giàng dạy của tôi là chính
thống .
Về phần tôi,
tôi ý thức nỗi yếu hèn, rất đỗi yếu hèn của mình, vì bị đè bẹp dưới muôn ngàn
lầm lỗi. Nhưng nhờ đức tin, và chỉ đức tin mà thôi, tôi hy vọng vào ngày Chúa
quang lâm, tôi được hưởng phần nào lòng khoan hậu của Chúa, bởi lẽ, bước theo
vết chân của các Thánh Phụ, đó là điều tôi đem hết tâm huyết, là điều tôi ước
mong, và tôi đã ân cần gìn giữ giáo huấn Phúc Âm trong sự tinh tuyền của nó,
giáo huấn mà các Nghị Phụ họp ở Nicée xứ Bythinie truyền lại cho chúng ta trong
Kinh Tin Kính. Và cũng như tôi tin vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa là Cha,
một Chúa Thánh Thần, thì tôi cũng tin chỉ có một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên
Chúa, sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn đời là ánh sáng huy hoàng của vinh quang
Ngài, là dấu ấn của bản thể Chúa Cha, đã nhập thể và làm người để cứu độ nhân
loại, đã được sinh ra theo xác phàm bởi Ðức Trinh Nữ Maria.
(Thư số 83, gửi cho Dioscore,
Giám Mục Alexandrie)
KITÔ HỌC CỦA THÉODORET VÀO THỜI GIAN
CÔNG ÐỒNG CHALCÉDOINE SẮP NHÓM HỌP.
Tự bản tính,
Thiên Chúa là bất biến. Vì thế, Ngài không chấp nhận sự biến đổi, thì Ngài luôn
luôn đồng ý với chính mình. Quả thực, đó là điều Ngài đã nói qua lời các tiên
tri : "Ta là Ðấng Hằng Hữu, Ta hằng hữu và Ta không hề hiến đổi". Vua
Thánh Ðavít nói : "Còn Ngài, Ngài vẫn là Ngài, và những ngày đời của Ngài
sẽ vô cùng vô tận". Nếu bây giờ Ngài vẫn là Ngài, thì Ngài không hề thay
đổi, và nếu Ngài không bị thay đổi, không chịu sự biến đổi nào, thì Ngài không
thể từ bất tử trở thành phải chết, tử bất khả thụ nạn trở thành khả thụ nạn. Vì
chưng, nếu điều đó đã có thể xảy ra, thì Ngài hẳn đã không đảm nhận bản tính
của chúng ta. Nhưng vì Ngài có một bản tính bất tử, nên Ngài đã đảm nhận một thân
xác khả thụ nạn, và cùng với thân xác, Ngài đảm nhận linh hồn của một con
người. Hơn nữa, khi gìn giữ thân xác và linh hồn khỏi các vết nhơ tội lỗi, Ngài
đã dâng hiến linh hồn của Ngài để cứu các linh hồn phạm tội, và đã trao ban
chính thân xác Ngài để cứu các thân xác phải chết. Và vì thân xác được Ngài đảm
nhận (corps assumé) đã được gọi là thân xác của Con Một Thiên Chúa, nên Ngài
cũng mang vào mình đau khổ của thân xác. Tuy nhiên, không phải thần tính đã bị
đóng đinh vào thập giá, nhưng là chính thân xác-được-đảm nhận (corps assumé),
và đó là điều mà bốn tác giả Phúc Âm đã minh chứng. Cả bốn Thánh Sử đều cho
chúng ta biết rằng, Giuse Arimathia đã đi gặp Philatô để xin xác Chúa Giêsu,
ông đã hạ xác Ngài xuống, quấn vào khăn liệm, và đặt xác Ðức Giêsu vào ngôi mộ
của ông, một ngôi mộ còn mới, rồi các phụ nữ cùng đi với Maria Magđala đến mộ
tìm xác Ðức Giêsu, và khi không gặp thấy xác Ðức Giêsu, họ đã chạy về báo cho
các môn đệ các điều đó.
(Thư số 145 gửi cho các quân
nhân (tháng 2 - tháng 3 năm 451),
SC số 111, tr. 163 (165, Trad.
Y. Azéma. Trong đoạn văn này,
Người ta chú ý đến sự phân
chia rõ ràng hai bản tính, và loại trừ
sự chuyển thông các đặc tính).
MỘT TÁC GIẢ
ÐÁNG NỂ TRỌNG VỀ MỌI MẶT.
Mặc dầu phần lớn công trình
của Théodoret đã mất vì bị kết án là lạc giáo, người ta vẫn nhìn nhận ngài là
một nhân vật lớn về rất nhiều lãnh vực trong Giáo Phụ học. Là nhà hộ giáo, như
ta đã gặp ở trên qua tác phẩm "Phương
pháp trị các căn bệnh Hylạp". Ngài còn là tác giả của mười diễn
từ "Về sự Quan Phòng", và
có thể coi đây là mẫu tuyệt vời về khoa giảng thuyết của ngài. Ta cũng đã thấy
nhà thần học xông vào trận chiến, là người thuộc trường phái Antioche, tự căn
bản chủ trương "hai bản tính" (diphysite),
nhưng khi cần cũng biết hòa dịu trong các cách diễn tả. Trước đây, Richard, một
chuyên gia về vấn đề, đã chứng minh cho thấy cả đến việc, sau khi hòa giải với
Cyrille, Théodoret đã tự ý bỏ, không còn xử dụng một số công thức có thể làm
người ta hiểu là có sự phân chia hai bản tính. Ngài chủ trương Ðức Trinh Nữ là "Mẹ con người" (génératrice d
homme) nhưng vẫn chấp nhận người ta gọi Ðức Maria là "Mẹ Thiên Chúa" (génératrice d Dieu, Theotokos).
Xuyên qua việc nhấn mạnh tới nhân tính của Ðức Kitô, Kitô học của Antioche bộc
lộ một niềm tin vào con người (foi en l homme) vào phẩm giá và khả năng sáng
tạo của con người. Cũng vì thế, không phải ngẫu nhiên mà phía Latinh xem tư
tưởng của Théodore (de Mopsueste) và sau đó là của Théodoret, mang dấu hiệu của
thuyết bán-Pélage (semi-pélage). Vị Giám Mục hiển nhiên tin rằng tội nguyên tổ
đã đặt bản tính nhân loại dưới ách sự chết và lôi kéo con người về phía tội
lỗi. Thế nhưng chúng ta không mắc tội, cũng không bị kết án. Nếu chúng ta có bị
đặt dưới án chết thì chỉ là do tội riêng của mình. Bí Tích Rửa Tội làm cho
chúng ta được thông dự vào những sức mạnh mới chứ không phải xóa tội, ơn Bí
Tích là thiết yếu nhưng cũng cần có sự cộng tác của con người.
Nhà thần học Théodoret còn là
một sử gia bên cạnh Socrate và Sozème. Ngài là tác giả cuốn "Lịch sử Giáo Hội" viết tiếp
cuốn lịch sử Giáo Hội của Eusèbe cho tới năm 328, nhưng không đề cập đến
Nestorius. Tuy có khuynh hướng hộ giáo và không được độc sáng lắm, nhưng cuốn
lịch sử này cung cấp nhiều tài liệu mà trong đó có những điều chúng ta không
thể biết được nếu không có nó. Théodoret cũng đã soạn cuốn Lịch sử các đan sĩ" (Histoires des
moines) chủ yếu viết về chế độ đan tu trong môi trường Antioche thời bấy giờ,
và cuốn "Lược tóm các lạc giáo" (Résumé
des affabulations hérétiques) trong cuốn này có nói tới Nestorius và Eutychès,
nhưng không đề cập tới Épiphane ; cuốn thứ năm và là cuốn cuối cùng đối chiếu
lạc giáo với truyền thống của Giáo Hội.
Giám Mục thành Cyr là một nhà
chú giải Kinh Thánh phong phú. Có những tác phẩm gồm các câu vấn đáp xoay quanh
các trang Kinh Thánh đã được chọn lựa, như trong cuốn "Các câu hỏi về Tám Sách" (Question
sur l Octateuque) [Tám Sách = Ngũ Kinh, sách
Yosua, Thẩm Phán, Ruth] và cuốn "Về
sách Các Vua". Có những tác phẩm chú giải bản văn cách liên tục
: "Các sách Ký Sự" (Sử
biên niên), "Sách Thánh Vịnh",
"Sách Diệu Ca", tất cả các sách Tiên Tri. Còn về Tân Ước,
chỉ có cuốn "Chú giải các thơ thánh
Phaolô" là còn truyền lại đến ngày nay. Cả trong lãnh vực này,
khuynh hướng Antioche bộc lộ rất rõ. Trước hết, ngài theo sát bản văn, nghiên
cứu các chỗ dị biệt, và đối chiếu các bản dịch. Ngài trình bày nghĩa từ ngữ
(sens littéral, nghĩa chữ) và nghĩa lịch sử, nhưng vẫn mời gọi vượt qua nghĩa
đó khi tác giả thánh rõ ràng nhắm tới Ðấng Mêsia hoặc Giáo Hội. Ðối với các
sách Tiên Tri, Théodoret thường sử dụng lối giải thích tiên trưng, điều được
thực hiện một phần trong Cựu Ước, thì được thưc hiện viên mãn trong Tân Ước.
Nói chung, ngài hướng tới Tân Ước nhiều hơn các tác giả Antioche đi trước.
Théodoret phê phán lối chú giải theo nghĩa ẩn dụ cách tiên thiên, nhưng ngược
lại cũng bài bác một thứ chủ trương duy-sử (historicisme) coi những điều mà các
Thánh Vịnh, các sách Tiên Tri nói tới chỉ là những chuyện quá khứ, ngài thường
công kích các nhà chú giải Dothái về điều này. Nhiều lần, Théodoret tỏ ra dè
dặt đối với Théodore áp dụng sách Diệu Ca vào hôn lễ của vua Salômôn với một nữ
hoàng Aicập. Tuy Théodoret thường không theo hướng thần bí của Origène, nhưng
cùng với Origène, ngài nhìn thấy nơi sách Diệu Ca lời loan báo về Ðức Kitô và
Giáo Hội của Người. Mặc dầu không dám cho mình là độc đáo, nhưng Théore là một
nhà chú giải rất lừng danh trong Giáo Phụ học muôn thời, người ta trích dẫn rất
nhiều.
Cuối cùng, Théodoret là một
văn sĩ hết sức quan trọng về thư tín, với khoảng 225 lá thư còn để lại, phẩm
chất của ngôn ngữ và văn phong, sự đa dạng và tầm thức quan trọng của 115 bức
thư, quan tâm văn hóa, lịch sử, xã hội học và tín lý của các vấn đề được bàn
đến.
TỘI NGUYỆN TỔ, ÂN SỦNG VÀ SỰ CỘNG TÁC CỦA CON NGƯỜI.
Về đoạn thư
Philip 1, 19 - 20, Théodoret vừa nói đến tự do của con người vừa khẳng định sự
cần thiết của ân sủng. Ðiều này khác với tư tưởng của Augustin.
Thánh Phaolô
đã nói đến các ơn Thiên Chúa ban, nói đến lòng tin và sự chiến đấu anh dũng.
Ngài không loại bỏ ý chí tự do của linh hồn, nhưng dạy rằng, nếu thiếu ân sủng,
linh hồn tự mình không thể thực hiện một hành vi ngay chính nào. Chúng ta cần
tới cả hai : cần có sự khởi động của chúng ta (industria) và cần có sự trợ giúp
của Thiên Chúa. Với những ai không khởi động thì ân sủng của Chúa Thánh Thần
không đủ, và ngược lại, nếu thiếu ân sủng thì hành động đó cũng không thể đón
nhận được những phong phú của nhân đức. PG 82, 568CD.
MỘT LỜI GIẢI THÍCH VỀ "ISAIA" HOÀN TOÀN HƯỚNG TỚI TÂN ƯỚC.
Tất cả các
tiên tri được linh hứng không chỉ bằng lòng mạc khải các biến cố phải xảy đến
cho Israel mà thôi, nhưng còn tiên báo ơn cứu độ cho mọi dân nước, và báo trước
ngày Chúa tỏ hiện. Nhưng trong tất cả các tiên tri, có tiên tri Isaia là đặc
biệt nhận thấy mình được giao phó công bố lời tiên báo đó. Quả vậy, ngài đã
tiên báo mọi sự cách rõ ràng. Lời chúc phúc của Thiên Chúa khởi đầu với Abraham
và Ðavít, Ðấng Cứu Thế sinh ra từ cung lòng một Trinh Nữ, việc thực hiện vô số
phép lạ, những cách thức thuyên chữa, sự ghen ghét, phẫn nộ của người Dothái,
cuộc khổ nạn, cái chết, lên trời, việc chọn các tông đồ và ơn cứu độ cho mọi
dân nước. Ngài còn tiên báo cuộc tái lâm của Thiên Chúa và là Cứu Chúa của
chúng ta, ngài tiên báo người Dothái sẽ bị phân tán, Ðền Thờ sẽ bị phá hủy hoàn
toàn, những cuộc chính phạt người Dothái của Assyrie và Roma. Ngài tiên báo
cuộc hồi hương từ Babylon và ngày tàn của đế quốc Babylon. Ngài tiên báo những
biến cố liên quan tới Aicập, Tyr, Damas và cả những người Moab, Ammon, Idumée
và ngài còn tiên báo nhiều điều khác nữa. Thế nhưng, điều ngài than khóc trước
hết đó là sự tàn vong mà người Dothái phải chịu để trả giá cho sự điên rồ của
họ đối với Thầy Chí Thánh.
Nhìn chung
toàn bộ các sách của ngài, có những cuốn sáng sủa, ý nghĩa rõ ràng, có những
cuốn được trình bày cách bóng bảy và đòi phải giải thích. Vì thế, tôi sẽ cố
gắng nói vắn tắt những cuốn đã có ý nghĩa rõ ràng và cắt nghĩa dài hơn những
cuốn được viết cách bóng bảy ; nhưng ngay cả trong trường hợp này, tôi sẽ cố
gắng vắn gọn bao nhiêu có thể.
Commentaire sur Isaie, projet.
SC no. 267,
pp. 143 - 145. Trad. J. N.
Guinot.
MỘT NHÀ CHÚ GIẢI ANTIOCHE ÔN HÒA : LỊCH SỬ VÀ HÌNH BÓNG.
Mong đừng ai
nghĩ rằng, tôi khó nhọc luống công vì cớ có những tác giả trước tôi đã giải
thích như thế rồi. Tôi quả có gặp thấy nhiều sách chú giải khác nhau, và tôi
nhận thấy một số tác giả sa vào lối giải thích ẩn dụ thái quá, và một số khác
lại giản lược lời tiên tri vào các sự kiện lịch sử, đến độ lời cắt nghĩa hợp
với người Dothái hơn là với con cái đức tin. Vì thế tôi thiết nghĩ cần phải
tránh sự thái quá của cả hai hạng người đó. Tất cả những gì hợp với lịch sử
thời xưa (Cựu Ước) thì cả bây giờ cũng phải áp dụng cho lịch sử đó, nhưng những
lời tiên báo liên quan tới Ðức Kitô, Giáo Hội nảy sinh từ dân ngoại, cộng đoàn
Tin Mừng, lời rao giảng của các Tông Ðồ, thì không được áp dụng cho các sự kiện
khác, đó là điều mà những người Dothái thích làm, do sự xảo trá của họ, nhằm
bênh vực chính mình.
Sur les psaumes, préf. PG 80,
86 CD.
Thánh Tông
Ðồ viết : (có lắm điều) "ngụ ý" có nghĩa là "hiểu cách
khác". Vì ngài đã không loại bỏ lịch sử, nhưng ngài giảng dạy điều đã được
biểu thị trước trong lịch sử.
(Sur Gal. 4, 21 - 24, PG 82,
489D).
Thánh Phaolô
rất mực khôn ngoan đã dạy chúng ta rằng Cựu Ước là hình bóng của Tân Ước. Ngài
nói : "Tất cả những điều đó đã xảy ra cho họ trong hình bóng" (1Cor
10, 11)
(Sur Josué, PG 80, 457A)
VỊ GIÁM MỤC
NHỎ BÉ THÀNH CYR.
MỘT NHÂN VẬT
VĨ ÐẠI CỦA GIÁO PHỤ HỌC.
Vị Giám Mục nhỏ bé thành Cyr
đã xuất hiện như một nhân vật vĩ đại nhất của phía Antioche. Là người có tài về
mọi thể loại văn chương Kitô giáo nhưng lại khiêm tốn nói lên những giới hạn
của mình : Nơi rất nhiều tác giả đạo đức,
tôi đã ăn xin được một chút xíu hiểu biết". Là một mục tử hết
sức tận tâm, vừa lo lắng cho đời sống đức tin hàng ngày, vừa lưu tâm đến cách
diễn đạt đức tin đó trên bình diện thần học, nhưng không bao giờ cố chấp, khăng
khăng với các công thức riêng của mình. Ngài biết nghĩ ra hoặc đón nhận các bản
văn hòa giải, là những bản văn vừa bảo toàn được chân lý vừa duy trì sự hiệp
nhất, dù có làm cho các bạn bè, các đồng minh hơn một lần phải bực tức, khó
chịu. Từ năm 430 đến 450, tư tưởng của ngài có tiến triển, sửa đổi lại quan
niệm quá bình quân (égalitariste) về hai bản tính của Ðức Kitô, làm nổi bật hơn
vị trí của Ngôi Lời. Qua toàn bộ tác phẩm của mình, ngài đã góp phần loại bỏ
hiểm họa của thuyết nhất tính, cho dù Kitô học của ngài vẫn còn có sự lờ mờ nào
đó xung quanh các thuật ngữ prosôpon và hypostasis. Ngài đã giữ cho khoa chú
giải Kinh Thánh của Antioche khỏi những thái quá mà các vị đi trước cũng như
các đồng nghiệp của ngài đã rơi vào. Ý muốn đứng trong đức tin chính thống, óc
mực thước và sự độc lập tinh thần, đã làm cho Théodoret trở thành một trong
những khuôn mặt thanh cao nhất, dễ mến nhất của Giáo Phụ học Hylạp.
SÁCH ÐỌC
THÊM.
Autour de Cyrille
J. LIÉBAERT, Saint Cyrille d
Alexandrie et l arianisme. Les sources et la doctrine christologique du
"Thesaurus" et des "Dialogues sur la Trinité", Lille, 1948.
Étude prolongée dans "L évolution de la christologie de saint Cyrille à
partir de la controverse nestorienne". Mél. Sc. Rel., 27, 1970, pp. 27 -
48.
P. Thần học. CAMELOT, Éphèse
et Chalcédoine, Paris, 1962.
Dans la coll. Sources chrétiennes : Deux dialogues
christologiques (n. 97) ; Sur la sainte et consubstantielle Trinité (n. 231, 237
et 246) ; Contre Julien I (n. 322). Le Trésor n est pas traduit en francais.
J. LIÉBAERT. L Ancarnation, I. Des origines au concile de
Chalcédoine, Paris, 1966 ; ou (plus difficile) A. GRILIMELER, Le Christ dans la
Tradition chrétienne. De l âge apostolique à Chalcédoine (451), Paris, 1973 ;
A. GRILIMELER et H. BACHT, Das zil von von Chakedon. Geschichte und genwart. 3
vol,. Wurzburg, 1951 - 1953 - 1954, tient d importants articles en francais.
Y, "Théodoret",
D.T.D. 91943), col. 299 - 325.
Dans la coll. Sources chrétiennes : Commentaire sur Isaie
(n. 276, 295 et 315) ; Correspondance (n. 40, 98 et 111) ; Histoire des moines
de Syrie (n. 234 et 257) ; Thérapeutique des maladies helléniques (n. 57, 2
vol.) Cette dernière édition (de P. CANIVET) est doublée d une excellente
étude, Histoire d une entreprise apologétique au Vè siècle, Paris, 1957.
Siscours sur Providence, Trad.
Avec introd. Et notes par Y. AZÉMA, Paris, 1954.