TRƯỚC CƠN GIÓ BÁCH HẠI VÀ NHỮNG TRANH CHẤP
TRONG GIÁO HỘI CYPRIEN
Cho tới
phần tư đầu thế kỷ IV, vẫn chính Bắc Phi cống hiến cho chúng ta những chứng
nhân nổi bật nhất của Kitô giáo Latinh : Luật sư Minucius Felix, dù người ta
công nhận ông đã lập cư ở Roma, nhưng ông là người Phi Châu. Ít ra là theo
nguyên quán, là người đồng thời với Tertullien và có thể đã bắt chước theo
Tertullien, ông để lại cho chúng ta một cuốn đối thoại hộ giáo thật cao nhã
mang tựa đề Octavius, tên của người bạn mà ông lấy làm người đối thoại chính ;
rồi thánh Giám Mục Cyprien thành Carthage và nhà thần học giáo dân Lactance,
ngoài ra còn phải kể đến nhà tu từ Arnobe de Sicca, tác giả của một tác phẩm
biện hộ cho Kitô giáo khá xoàng xĩnh vào đầu thế kỷ IV. Tại Roma, ngôn ngữ Latinh
trong Kitô giáo phát triển chậm hơn, ít ra phải đợi tới khoảng 250 mới thấy
xuất hiện tác phẩm thần học quan trọng đầu tiên bằng tiếng Latinh : Khảo luận "về Ba Ngôi" của linh mục
Novatien cũng quan tâm tới các vấn đề luân lý trong ba tác phẩm khác. Trong các
cuộc tranh luận của nội bộ Giáo Hội thời đó, hoạt động của ông đụng chạm với
hoạt động của thánh Cyprien. Trong phần này, chúng ta chỉ bàn tới Cyprien và
Lactance.
CYPRIEN, GIÁM MỤC CARTHAGE.
Ðối với
chúng ta, Caecilius Cyprianus đi vào lịch sự khi ngài trở thánh Giám Mục
Carthage năm 248 hoặc 249. Xuất thân từ một gia đình giàu có, và, theo thánh
Jérome, ông là bậc thầy về khoa tu từ, dù mới chỉ trở lại đạo (246?), ít lâu
sau ngài đã trở thành một người của Giáo Hội mà vẫn thuộc vào xã hội có học thức
và tầng lớp lãnh đạo. Tuy nhiên, việc ngài trở lại vẫn thực sự là một trang đời
lật qua : ngài đã phân phát gia tài cho người nghèo, và tuy không từ bỏ học
thức của mình, từ nay ngài sẽ không trích dẫn tác giả nào khác ngoài các tác
giả của Thánh Kinh, vì như ngài viết : "Có
một sự khác biệt lớn lao giữa các Kitô hữu và các triết gia" (Thư 16,
55). Ít lâu sau khi trở lại, ngài viết một huấn dụ khuyên gắn bó với đức tin
Kitô giáo (Ad Donatum). Ngài còn soạn một sưu tập các "chứng từ" về Thánh Kinh, rất quý giá vì cho chúng ta
biết về những bản dịch Thánh Kinh đầu tiên bằng tiếng Latinh ; nhưng một số nhà
phê bình không công nhận ngài là tác giả của công trình này.
Chúng ta
biết Cyprien hầu như chỉ qua di sản văn chương của ngài, chủ yếu xuất hiện
trong thời kỳ ngài làm Giám Mục. Di sản này đặc biệt bao gồm một tuyển tập thư
tín rất quý giá (tổng cộng 81 thư, trong đó có 16 thư trao đổi) : đây thật sự
là một bản "tường trình" về
đời sống của Giáo Hội đương thời. Ðiều này có nghĩa là, nơi Cyprien, chúng ta gặp
thấy một Kitô hữu và nhất là một Giám Mục đương đầu với những vấn đề của một
cộng đoàn Kitô hữu đang sống giữa cơn biển động : sau cuộc bách hại ngặt nghèo
dưới thời hoàng đế Dèce từ năm 250 đến 251, gây hậu quả nặng nề cho Giáo Hội,
thì Giáo Hội lại tự xâu xé trong những cuộc bút chiến kịch liệt trước khi gặp
phải cuộc bách hại dữ dội của hoàng đế Valérien (257-258). Bị đầy khỏi Carthage
năm 257 và bị trảm quyết tại đó năm 258. Với khoảng trên 10 năm thi hành tác vụ
cũng đủ làm cho ngài trở thành một trong những Giám Mục lớn của Giáo Hội cổ
thời mà ảnh hưởng và danh tiếng không ai chối cãi vượt xa ngoài Bắc Phi và Tây
Phương.
CYPRIEN VÀ VẤN ÐỀ NHỮNG NGƯỜI "SA NGÃ"
("LAPSI").
Năm 250,
hoàng đế Dèce tung ra một chiến dịch nhằm tạo nên khối thống nhất dân tộc và
tôn giáo chung quanh ông : mọi công dân trong đế quốc phải tham dự vào một nghi
thức tôn thờ các thần minh để ủng hộ ông. Tất cả các Kitô hữu đều bị đặt trước
một nố lương tâm bi đát. Họ buộc phải lựa chọn hoặc một hành vi thờ ngẫu tượng,
hoặc phải chịu tù ngục, ta tấn, ngay cả chịu chết.
Chỉ còn
một con đường, đó là trốn tránh, và chính Cyprien đã chọn con đường đó khi rời
bỏ Carthage và tiếp tục điều khiển Giáo Hội bằng thư từ (các thư từ số 5 đến
43). Thái độ này đã bị một vài giới chỉ trích dữ dội, nhất là hàng giáo sĩ
Rôma, nơi Giáo Hoàng Fabim chịu tử đạo, nhưng Cyprien đã biết tự biện hộ và tái
lập mối quan hệ tin cậy với Giáo Hội Rôma.
Việc áp
dụng những biện pháp bách hại không kéo dài lâu sau năm 250. Tuy nhiên, nó cũng
làm cho nhiều người tử đạo và kéo theo số Kitô hữu bỏ đạo còn đông hơn. Khắp
nơi, Giáo Hội đứng trước vấn đề phải cư xử thế nào đối với những tín hữu "sa ngã" này (tiếng Latinh là
lapsi) : vì không thể tránh khỏi pháp luật, họ đã tìm lối thoát bằng cách, hoặc
thực hiện hành vi thờ ngẫu tượng bắt buộc, hoặc chỉ làm một cử chỉ mơ hồ hơn
(ném vài hạt hương lên bàn thờ), hoặc lo liệu kiếm giấy chứng nhận đã làm hành
vi trên. Sau khi hành động như thế, những người bội giáo do yếu đuối này thật
lòng muốn được nhận lại vào Giáo Hội. Vấn đề đã từng được đặt ra trong các cuộc
bách hại trước đây, nhưng bây giờ nó mang một tầm mức khác. Ở Carthage, lúc
Cyprien vắng mặt, một số người trong hàng giáo sĩ và những người "tuyên tín" (các Kitô hữu đã
bị giam cầm vì đức tin) không hỏi ý ngài và cũng không lý gì đến những lời phản
đối của ngài, đã bắt đầu rộng tay ban giấy xá tội cho các người "sa ngã". Ngược lại, ở Roma,
Alexandrie, Antioche, những ngướ chủ trương nghiêm ngặt đã phản đối thái độ của
hàng Giám Mục, vì nói chung, các ngài nghêng về việc giải hòa các "lapsi" có kèm theo một việc
đền tội thích hợp. Ðó là căn nguyên đã đưa đến sự ly khai của phái chủ trương
nghiêm ngặt của Novatien tại Roma, và sau đó có điều nghịch lý là những kẻ
chống đối ở Carthage lại gia nhập phái này.
KHÔNG CÓ
CHUYỆN ÐỀN TỘI VỘI VÀNG.
Trong vấn đề người "lapsi", Cyprien đứng
giữa hai lằn đạn. Ngài chống lại những người chủ trương nghiêm ngặt không chấp
nhận cho Giáo Hội tha thứ, nhưng đồng thời cũng chống lại những người, linh mục
hoặc những người "tuyên tín", đã tự động tha thứ và "với giá
rẻ" :
"Anh em thân mến, có một thứ tai ương mới đã
xuất hiện và, như thể bão tố bách hại hoành hành chưa đủ, nó còn đưa tới chỗ
tàn phá hoàn toàn, lấy cớ là do lòng thương xót, lòng trắc ẩn giả hiệu và một
tai hoạ ẩn núp dưới cái vẻ dịu dàng, tốt đẹp. Nghịch lại sự nghiêm khắc của
Phúc Âm, nghịch lại luật của chúa và Thiên Chúa, do sự táo tợn của một số kẻ,
này đây sự hiệp thông đã được ban một cách bất cẩn - một thứ bình an hão huyền
và gạt gẫm, nguy hiểm đối với người ban và chẳng có tác dụng gì đối với người
nhận. Một số người không kiên tâm chờ đợi được chữa lành, cũng chẳng tìm kiếm
phương thuốc đích thực mà việc đền tội mang lại : niềm thống hối không cư ngụ
trong tâm hồn họ, thậm chí ký ức về tội ác nặng nề nhất, khủng khiếp nhất (bội
giáo) cũng biến tan".
Tất cả những giáo huấn này đều đã bị khinh thường
và vứt bỏ. Trước khi đền bồi tội kỗi, trước khi xưng thú tội ác, trước khi
lương tâm và bàn tay được thừa tác vụ của Giám Mục thanh tẩy, trước khi làm
nguôi ngoai sự xúc phạm đối với Chúa đang giận dữ, đe dọa, thì họ đã xúc phạm
đến Mình và Máu Ðức Kitô và họ phạm đến Thiên Chúa, với đôi tay và với miệng
của họ còn hơn là khi họ chối bỏ Chúa. Họ tưởng, điều mà một số kẻ bán cách gạt
gẫm là bình an. Ðó chẳng phải là bình an mà là xung đột, vì chưng kẻ nào xa với
Phúc Âm thì không thể hợp nhất với Giáo Hội.
Sur les
apostats (Về những kẻ bội giáo) 15.
Dịch từ
Vogel, Le pécheur et la pénitence
Dans
lEglise ancienne, Paris 1982, p. 84-85
Mùa xuân
năm 251, khi trở lại thành của mình, Cyprien đã quy tụ được ở đây một Công Ðồng
các Giám Mục Phi Châu, Công Ðồng này đưa ra những quyết định liên quan đến việc
tái hội nhập một số hạng lapsi ; năm 252, để phòng trước một cuộc bách hại mới,
các Giáo Hội ở Roma và Alexandrie cũng đưa ra những biện pháp về xã hội. Cuộc
tranh luận về kỷ luật đền tội này và những ly khai phát xuất từ đó, đã khiến
Cyprien viết hai tác phẩm quan trọng : "Về
các lapsi" và "Về sự duy
nhất của Giáo Hội Công Giáo". Tác phẩm thứ hai khai triển hai ý tưởng
chính : Giáo Hội là duy nhất và Giám Mục đoàn là "đoàn thể" phục vụ sự duy nhất này. Theo Cyprien, Giáo
Hội tự nền tảng là "Mầu nhiệm hiệp
nhất". Giáo Hội có ơn gọi hiệp nhất, Giáo Hội phải thực là sự hiệp
nhất các tâm hồn ("một lòng"),
các tâm trí ("một dạ") : "một dân được hợp nhất bằng chính sự
hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Ly giáo không
chỉ là một trọng tội, nó là chính sự phủ nhận Giáo Hội. Vì là duy nhất mà Giáo
Hội là "Công giáo, nghỉa là phổ
quát", và "Giáo Hội Công
Giáo" là giáo Hội đích thực duy nhất : kiểu nói đó đã có một nghĩa gần
với nghĩa chúng ta dùng. Cyprien không ngần ngại kết luận rằng, ngoài Giáo Hội
không có các Bí Tích thành sự, cũng không có ân sủng hay ơn cứu độ : "Không ai có thể có Thiên Chúa làm Cha
nếu không có Giáo Hội làm Mẹ". Cần phải thấy rõ là những khẳng định
dứt khoát trên đây nhắm vào những kẻ xúi giục ly khai trong thời kỳ này, những
kẻ chịu những trách nhiệm về những tuyệt giao cố ý với "Mẹ Giáo Hội" và từ Ignace thành Antioche cho tới
Origène, Lactance họ đều bị coi là những kẻ tự cắt đứt với nguồn sự sống. Tuy
nhiên, ở đây đã đặt ra những vấn đề thuộc Giáo Hội học và Bí Tích mà tương lai
sẽ phải phân giải và soi sáng dần dần.
CHỐNG LY
GIÁO, VỀ VẤN ÐỀ NOVATIEN.
"Vì lẽ chỉ Giáo Hội mới có nước tái sinh, có
quyền rửa tội và thanh tẩy, kẻ nào nói rằng người ta có thể chịu phép rửa và
được thánh hóa nơi Novatien, kẻ ấy trước tiên phải xác định và chứng minh rằng
Novatien đang ở trong Giáo Hội hay đang điều khiển Giáo Hội. Quả vậy, Giáo Hội
là một, và vì là một Giáo Hội không thể vừa ở trong vừa ở ngoài. Nếu Giáo Hội ở
nơi Novatien thì Giáo Hội không ở nơi Corneille (Giám Mục hợp pháp của Rome) ;
nhưng nếu Giáo Hội ở nơi Corneille, người kế vị Giám Mục Fabianus do sự phong
chức hợp pháp, và là người, ngoài vinh dự Giám Mục, Chúa còn đoái ban vinh
quang tử đạo, thì Novatien, kẻ khinh thường truyền thống Phúc Âm, truyền thống
Tông Ðồ, đã tự mình mà đến và chẳng kế vị ai cả, ông ta không ở trong Giáo Hội
và cũng không thể được coi như một Giám Mục. Thực vậy, một kẻ không được phong
chức trong Giáo Hội thì không thể điều khiển Giáo Hội.
Chớ gì các tâm hồn Kitô hữu kết hiệp với nhau bằng
mối dây vững chắc và bất khả phân ly của đức ái, đó chính là điều mà các hy tế
của Chúa chứng tỏ. Quả vậy, khi Chúa gọi tấm bánh do bao hạt lúa hợp lại là
Mình Ngài, Ngài chỉ đến sự duy nhất của dân chúng ta và Ngài sẽ là dấu chỉ sự
duy nhất đó. Và khi Ngài gọi rượu ép ra từ bao chùm nho, trái nho và làm thành
chất rượu duy nhất là Máu Ngài, Ngài chỉ ra rằng đoàn chúng ta được tạo nên là
từ bao người được dẫn về một mối. Nếu Novatien đã được kết hiệp với tấm bánh
của Chúa, nếu ông ta đã được hòa vào thức uống của Ðức Kitô, người ta sẽ có thể
tin rằng ông ta có thể có ân sủng của phép Rửa duy nhất của Giáo Hội, nếu như
thực sự chứng minh được rằng ông ta giữ gìn sự duy nhất của giáo Hội".
Cyprien,
Thư 69. 3. 1. 5. 2.
Dịch từ
L. Bayard. Les Belles Lettres, p. 241 - 243
SỰ DUY
NHẤT CỦA GIÁO HỘI.
Hai bài dịch bản văn liên quan đến vai trò của
Phêrô và Giáo Hội ở Roma :
"Chúa nói với Phêrô : và Ta, Ta bảo ngươi :
ngươi là Ðá và trên Ðá ấy Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta".
Sau khi Phục Sinh, cũng với chính Phêrô, Ngài nói :
"Hãy chăn dắt chiên của Ta". Ngài xây dựng Giáo Hội chỉ trên một
người duy nhất ; và Ngài trao phó các chiên của Ngài cho ông chăn dắt, và mặc
dầu Ngài trao cho mọi Tông Ðồ
một quyền bính ngang nhau song lại chỉ lập một ngai
tòa duy nhất và bằng uy quyền của Lời Ngài. Ngài đã sắp đặt nguồn gốc và hình
thái của sự duy nhất. Dù sao đi nữa, Phêrô (là) thế nào thì những người khác
(các Tông Ðồ) cũng như vậy, nhưng quyền tối thượng đã được trao cho Phêrô, và
một Giáo Hội duy nhất, một ngai tòa duy nhất đã được chứng tỏ (cho chúng ta).
Tất cả đều là mục tử, nhưng chúng ta được biết rằng chỉ có một đàn chiên duy
nhất mà tất cả các Tông Ðồ đồng tâm hiệp ý với nhau chăn dắt. Kẻ không gắn bó
với sự duy nhất mà thánh Phaolô khuyên dạy đó, lại tưởng mình vẫn gắn bó với
đức tin sao ? Kẻ ruồng bỏ ngai tòa của Phêrô mà Giáo Hội đặt nền trên đó, lại
có thể vênh vang là mình đang ở trong Giáo Hội sao ?
Ngài xây dựng Giáo Hội chỉ trên một người duy nhất.
Và mặc dầu sau khi Phục Sinh, Ngài trao cho mọi Tông Ðồ quyền bính ngang nhau
và nói với họ : "Như cha đã sai Ta, Ta cũng sai các ngươi".
Song để biểu lộ sự duy nhất, bằng uy uyền của Lời
Ngài, Ngài đã sắp đặt nguồn gốc của chính sự duy nhất đó (để nó) bắt đầu bằng
một người duy nhất. Dầu sao đi nữa, Phêrô là thế nào thì các Tông Ðồ khác cũng
như vậy : họ được hưởng một sự tham dự ngang nhau vào danh dự và quyền bính,
nhưng bước đầu có khởi điểm trong sự duy nhất. Sự duy nhất của giáo Hội Chúa
Kitô được nhấn mạnh là như vậy . Kẻ không gắn bó với sự duy nhất này của Giáo
Hội, lại tưởng mình đang gắn bó với đức tin sao ? Tông Ðố Phaolô vinh phúc lại
không dạy cùng một điều đó, Ngài lại không làm nổi bật dấu chỉ sự duy nhất khi
Ngài nói : "Chỉ có một thân mình" sao ? .
Về tính
duy nhất của Giáo Hội Công Giáo.
P. de
Laberiolle, Paris, 1942, p. 9 - 11
Sự duy
nhất của Giáo Hội, tuy nhiên, không chỉ thuộc bình diện thiêng liêng, nó còn
dựa trên sự kết hợp chặc chẽ, hữu hình của hàng Giám Mục ; và như Cyprien lập
lại, hàng Giám Mục này tạo nên một "đoàn
thể", một "đoàn"
(collège) mà các thành viên phải gìn giữ sự hiệp nhất với nhau. Giám Mục chỉ có
quyền với tư cách là thành viên của đoàn này ; Ngài là dấu chỉ và là trung tâm
hiệp nhất của mỗi giáo Hội địa phương.
Có một
đoạn trong khảo luận khẳng định quyền tối thượng mà Tông Ðồ Phêrô đã truyền lại
cho các vị kế nhiệm Ngài tại tòa Roma, nhưng chúng ta chỉ còn giữ được hai bản
dịch đoạn văn này, tuy cả hai có lẽ đều xác thực cả, nhưng lại nhìn tầm quan
trọng của quyền tối thượng không hoàn toàn như nhau và chúng ta cũng không rõ
thứ tự thời gian soạn thảo ra chúng. Ý tưởng cơ bản là : sự hiệp nhất của Giáo
Hội có nguồn gốc duy nhất được cụ thể hóa nơi con người Phêrô, rồi nơi Giáo Hội
do Ngài "thiết lập" và nơi
vị thủ lãnh Giáo Hội. Như vậy Giáo Hội ở Roma là nguồn hiệp nhất cho mọi Giáo
Hội : "Giáo Hội đứng đầu mà từ đó
phát xuất sự hiệp nhất tư tế ( = hiệp nhất của hàng Giám Mục)". Nhưng
dầu vậy, về sau Cyprien cho thấy Ngài không sẵn sàng công nhận Giám Mục Roma có
một quyền theo nghĩa mạnh của từ ngữ, trên các Giáo Hội địa phương khác.
Giữa
những bận bịu lo toan của một Giám Mục, Cyprien vẫn có thời giờ để viết những
lá thư dài về các đề tài ít nóng bỏng hơn (về việc rửa tội trẻ em : Thư 64 ; về
Phép Thánh Thể : Thư 63 .) hoặc những tập sách nhỏ chủ yếu là về tu đức, trong
đó Ngài chú tâm đến việc dạy các nhân đức của đời sống Kitô hữu : trước hết là
tình huynh đệ bác ái, thể hiện bằng sự nhẫn nại, tinh thần bất bạo động, và hòa
bình (De bono patientioe), bằng sự khiêm hạ nhún nhường (De zelo et lovore),
bằng việc thực thi các việc bác ái từ thiện (De opere et eleemosynis). Ngài ca
ngợi sự siêu thoát đối với thế gian (De mortalitate), ơn gọi của các trinh nữ
được thánh hiến cho Chúa (De habituvirginum), mẫu gương cao vời của các vị tử
đạo (Ad fortunatum). Ngài muốn dạy người ta cầu nguyện khi chú giải Kinh Lạy
Cha (De oratione, dominicae). Cũng như nơi Tertullien, mà đôi khi Cyprien rõ
ràng dựa vào, Ðức Kitô là tâm điểm của linh đạo, chính nơi Ngài mà cuộc sống
chung của các Kitô hữu bén rễ sâu trong những cảnh ngộ của đời sống hàng ngày.
CYPRIEN VÀ CÁC CUỘC TRANH LUẬN VỀ PHÉP RỬA.
Sự hòa
hợp giữa Cyprien và Giáo Hoàng Corneille (251 - 153) trong vấn đề những ngưòi
lapsi vẫn còn là một sự kiện nổi tiếng ; tên các ngài được gắn liền với nhau
trong Kinh Nguyện Thánh Thể truyền thống và trong niên lịch phụng vụ Roma. Sự
hòa hợp này giữa Roma và Carthage đã bị tổn hại ít lâu sau dưới triều Giáo
Hoàng Stephane (254 - 257). Các mối quan hệ giữa Stephne và Cyprien khởi đầu
không tốt đẹp gì : trong các vấn đề liên quan đến các Giáo Hội ở Espagne và
Proven, các ngài có những ý kiến trái ngược nhau. Tiếp đến là cuộc tranh chấp
nổ ra về tính thành sự của phép Rửa Tội ban trong các cộng đồng lạc giáo hoặc
ly giáo.
Cả ở
đây, vấn đề đã đặt ra từ lâu và các thực hành vốn đã không đồng nhất. Ðối với
một số Giáo Hội, mọi phép Rửa ban ra ngoài Giáo Hội Công Giáo bị coi là bất
thành ; vì vậy người ta rửa tội, có khi là rửa tội lại, tất cả những người trở
lại từ các nhóm ly khai. Ðó là cách thực hành bên Tiểu Á, Syrie và Phi Châu :
khảo luận về Phép Rửa của Tertullien và khảo luận về tính duy nhất của Giáo Hội
Công Giáo của Cyprien làm chứng điều đó. Ngược lại, ở Roma và Alexandie, người
ta chỉ đặt tay trên những người trở lại vì Phép Rửa đã được ban theo thể thức
và ý hướng của Giáo Hội.
Với thời
gian, những cách thực hành khác nhau này đã gây ra những cuộc tranh luận, đáng
kể nhất là ở Bắc Phi. Tại công đồng Phi Châu mùa thu năm 255, một nhóm Giám Mục
đòi phải đưa ra lập trường chính thức. Công đồng tuyên bố cách thực hành thông
thường ở Phi Châu là cách duy nhất hợp pháp, và Cyprien soạn thảo nhiều lá thư theo
chiều hướng này. Năm sau, ngài viết cho Giáo Hoàng Stephane để thông đạt quyết
định đó, và đưa ra lời mời khá rõ mong Giáo Hoàng thuận theo. Cuộc tiếp đón các
sứ giả của Cyprien diễn ra lạnh nhạt, và câu trả lời của Ðức Stephane thật
thẳng thắn : nại tới truyền thống của Giáo Hội mình, ngài duy trì cách thực
hành của Roma. Quá phật ý, Cyprien tìm kiếm và gặp được chỗ dựa bên Ðông
Phương, cách riêng nơi Giám Mục Firmilien thành Césarée ở Cappadoce. Dựa vào
lời lẽ phát biểu trong một lá thư của Giám Mục này, được lưu giữ trong số thư
từ của Cyprien, chúng ta có thể thấy được sự dữ dội, kịch liệt của cuộc tranh
luận lên tới mức độ nào. Qua thư, chúng ta biết được rằng Ðức Giáo Hoàng đã đe
dọa cắt đứt sự hiệp thông với người Phi Châu, và cả với Ðông Phương. Denys
thành Alexandrie cũng xác nhận điều này, ông cũng đã nhiều lần can thiệp để làm
bầu khí lắng dịu, nhưng vô hiệu, Firmilien còn nói đến việc vạ tuyệt thông đã
được đưa ra, nhưng điều này không chắc chắn lắm.
Tháng 9
năm 256, Công Ðồng Phi Châu tái nhóm, người ta còn giữ lại được biên bản của
Công Ðồng này. Các Giám Mục hiện diện, tuy không chính thức phản đối lại Ðức
Stephane, đã y chuẩn quyết định trước đây, cùng với Cyprien, các ngài cho rằng
mỗi giám Mục thi hành quyền lãnh đạo Giáo Hội mình cách tự do và có trách
nhiệm, không phải tường trình với một quyền bính cao hơn. Làm sao Cyprien dung
hợp đòi hỏi được tự trị này với quan niệm của ngài về Giám Mục đoàn và vai trò
của nó ? Ở đây, không thể chối cãi là Giáo Hội học của ngài có một khe hở và
xem ra nó không bảo đảm một nền tảng đủ chặt chẽ cho việc bảo toàn sự hiệp
nhất.
Sự thể
như vậy kéo dài gần một năm. Tháng 8 năm 257, Giáo Hoàng Stephane chịu tử đạo
trong cơn bách hại do hoàng đế Valérien phát động nhắm vào các thủ lãnh Giáo
Hội. Cùng lúc ấy, Cyprien bị bắt giữ và lưu đầy. Một năm sau, ngày 14 tháng 9
năm 258, ngài hoàn tất cuộc tử đạo của mình, chung quanh có hàng giáo sĩ và
giáo dân của ngài với một lễ an táng được tổ chức thật trọng thể. Tranh luận về
Phép Rửa tự nó lụi tàn. Những cách thực thi khác nhau tiếp tục cùng tồn tại,
nhưng dần dần, trong thế kỷ VI, cách thực hành của Roma và Alexandrie chiếm ưu
thế và cuối cùng trở thành bắt buộc. Thánh Augustin biện minh cho cách thực
hành này trên bình diện thần học. Việc các Giáo Hội ly khai ngày nay công nhận
Phép Rửa của nhau là nằm trong đường lối giải quyết vấn đề mà người xưa đã làm.
MỐI HÒA
HỢP GIỮA CORNEILLE VÀ CYPRIEN.
Cyprien nói lên lòng quý trọng của mình đối với Ðức
Giáo Hoàng, và chứng tỏ mối hòa hợp sâu xa giữa các ngài trong những tình huống
khó khăn :
Tôn huynh rất quý mến, chúng tôi đã lãnh nhận được
những chứng từ đức tin hiển hách của ngài, chứng tỏ lòng quả cảm của ngài và
việc tuyên xưng cao cả của ngài khiến chúng tôi hết sức vui mừng, như thể chúng
tôi được tham dự vào các công phúc và vinh quang của ngài vậy. Bởi lẽ giữa
chúng ta chỉ có một Giáo Hội, một tâm hồn và một trái tim, có Giám Mục nào mà
lại không vinh quang về vinh quang của một Giám Mục khác, như thể đó là vinh
quang của chính mình, và có nhóm huynh đệ nào mà lại không vui mừng khi thấy
các anh em đang ở trong niềm vui ? Không thể nói hết được tất cả niềm sung
sướng, tất cả niềm vui thoả bộc lộ ở đây, khi chúng tôi được biết những tin vui
về lòng can trường của ngài khi chúng tôi biết rằng ngài đã phục vụ như một thủ
lãnh đối với anh em trong việc tuyên xưng, và còn được biết, nhờ sự đồng tâm
hiệp ý của anh em mà việc tuyên xưng của vị thủ lãnh đã được nêu cao. Như vậy,
khi cầm đầu tiến bước tới vinh quang, ngài đã có được rất nhiều bạn đồng hành
về vinh quang : ngài đã thuyết phục các tín hữu trở nên những người tuyên tín
bằng cách cho thấy mình là người đi đầu, sẵn sàng tuyên xưng cho tất cả. Chúng
tôi không biết phải ca ngợi ngài điều gì nhất, đức tin mau mắn và kiên vững của
ngài hay là tình thương mến anh em không đành chia ly của ngài. Sự can trường
của vị Giám Mục tiên phong tiến bước ai cũng thấy được, và sự hiệp nhất của
đoàn anh em bước theo vị Giám Mục cũng hiện rõ như thế. Nơi ngài chỉ có một
trái tim, một tiến nói và tất cả Giáo Hội Roma đã tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô.
Xin hãy nhớ đến nhau trong sự hiệp nhất một lòng
một dạ. Mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau ; những lúc bị bách hại,
những khi gặp khó khăn. Hãy nâng đỡ nhau bằng một đức ái hỗ tương và nếu người
nào trong chúng ta được Chúa ban ơn không bao lâu nữa sẽ chết, đi trước người
kia, thì chớ gì tình bằng hữu của chúng ta tiếp tục bên Chúa, chớ gì lời cầu
nguyện cho anh em, chị em chúng ta sẽ không ngừng dâng lên lòng thương xót của
Cha.
Tôn huynh rất quý mến, tôi cầu chúc ngài luôn được
khang an.
Thư 60
gửi Corneille, I : V, 2
Dịch từ
L. Bayard. Les Belles Lettres, p. 190 - 193
SỰ THẲNG
THẮN CỨNG CỎI CỦA MỘT GIÁM MỤC.
Bằng lời lẽ cương quyết, Cyprien thông báo cho Giáo
Hoàng Stephane quyết định của các Giám Mục Phi Châu liên quan đến Phép Rửa ban
ngoài Giáo Hội Công Giáo :
Tôn huynh rất kính mến, nhằm giải quyết một số vấn
đề bằng cách đem ra cho một hội đồng cứu xét, chúng tôi buộc phải họp lại với
nhiều Giám Mục khác và điều khiển một Công Ðồng. Nhưng chúng tôi phải viết cho
ngài và bàn với sự khôn ngoan và cẩn trọng của ngài đặc biệt về vấn đề liên hệ
tới quyền bính Giám Mục, sự duy nhất và phẩm giá của Giáo Hội Công Giáo, là
những điều thuộc định chế của Thiên Chúa. Vậy chúng tôi đã quyết định rằng
những kẻ đã được dìm trong nước bên ngoài Giáo Hội và đã bị ô uế bởi thứ nước
phàm tục, khi họ đến với chúng tôi và đến với Giáo Hội, là Giáo Hội duy nhất,
những người đó phải được rửa tội, vì nếu họ không lãnh nhận cả Phép Rửa của
Giáo Hội mà chỉ đặt tay trên họ để họ nhận lãnh Thánh Thần thì quá ít.
Còn về những gì các kẻ lạc giáo làm, mới đấy chúng
tôi đã xác chứng cách kỹ lưỡng rằng đó không phải lả một phép rửa, và rằng
người ta không thể đạt được gì nhờ ân sủng Ðức Kitô nơi những kẻ chống lại Ðức
Kitô .
Tôn huynh kính mến, đấy là những gì mà, vì sự tôn
trọng và kính nể chúng ta có đối với nhau và vì tình bạn chân thành của chúng
ta, chúng tôi nghĩ cần phải thông tri cho ngài, biết rõ rằng lòng nhiệt thành
của ngài đối với đạo và sự chân thành trong đức tin của ngài sẽ khiến ngài chấp
nhận những tuyên bố chân thành và nhằm tới thiện ích của đạo chúng ta. Vả lại,
chúng tôi không phải là không biết có một số kẻ chẳng bao giờ từ bỏ ý tưởng một
khi họ đã thấm nhiễm và không dễ dàng gì thay đổi ý kiến, nhưng, họ vừa giữ mối
dây hòa bình, hòa hiệp với các đồng sự, vừa giữ lại một số thực hành đặc thù
một khi đã thông dụng nơi họ. Trong điều này, cả chúng tôi nữa, chúng tôi cũng
không có ý định cưỡng bách hay ra luật cho ai cả, mỗi Giám Mục vẫn có tất cả tự
do trong việc quản trị Giáo Hội mình, ngoại trừ việc phải trả lẽ cho Thiên Chúa
về cách hành xử của mình.
Tôn huynh rất quý mến, chúng tôi chúc ngài luôn
được khang an.
Thư 72,
I, 1 ; III - Dịch từ L. Bayard,
Les
Belles Lettres, p. 259 - 262
KÝ SỰ VỀ
CUỘC TỬ ÐẠO CỦA THÁNH CYPRIEN (14.9.258).
"Tổng đốc Galère Maxime truyền đem Cyprien ra
khi ông ngồi xử tại Trụ Lang hành quyết. Lúc Giám Mục Cyprien được dẫn tới,
viên Tổng đốc hỏi ngài : Ngươi là Cyprien ?
- Chính tôi.
Có phải ngươi cho mình là thủ lãnh những kẻ theo
các giáo thuyết phạm thượng ?
- Chính tôi.
Các thánh hoàng đế truyền cho ngươi phải cúng tế
các thần minh.
- Tôi sẽ không làm điều đó.
Viên tổng đốc sau khi bàn thảo với hội đồng, cuối
cùng đã quyết định tuyên bố bản án. Ông nói như sau :
. Vì ngươi đã nhận mình là tác giả và là kẻ truyền
bá những tội ác bỉ ổi, ngươi sẽ làm bài học cho những kẻ liên kết với tội ác
của ngươi : trật tự công cộng sẽ được thừa nhận bởi máu ngươi.
Sau những lời đó, ông đọc quyết định của mình trên
tấm bảng nhỏ : Chúng tôi hạ lệnh Thascius Cyprien phải bị trừng phạt bằng gươm.
Cyprien nói : Tạ ơn Chúa.
Sau phán quyết đó, đám đông anh em nói : Cả chúng
ta nữa, chớ gì họ trãm quyết chúng ta cùng với ngài. Vì thế anh em tụ tập lại
và một đoàn người đông đảo đi theo ngài. Thế rồi, Cyprien bị dẫn tới sân
Sextus. Khi đao phủ tới, Cyprien bảo những người hiện diện đem cho ngài 25 đồng
vàng. Anh em trải vải và khăn tay ra đàng trước ngài. Tiếp đó, Cyprien vinh
phúc tự tay bịt mắt. Vì ngài không thể tự cột tay, linh mục Julien và phụ phó
tế Julien cột tay cho ngài.
Cyprien vinh phúc đã chịu tử đạo như thế. Ðể tránh
sự tò mò của dân ngoại, người ta đã đặt xác ngài cách đó không xa, và rồi khi
đêm về, với đuốc và nến, người ta chuyển ngài tới nghĩa trang của quan Macrobe
Candidien, trên đường Mappala, gần các bể nước. Việc chuyển xác ngài đã diễn ra
trong niềm vui của một cuộc khải hoàn đích thực".
Dịch từ
La Liturgie des heures 4, p. 1003 - 1005
Con
người Cyprien là như thế, con người thuộc Giáo Hội, và đúng hơn, con người của
Giáo Hội, cho dù suy tư của ngài về Giáo Hội chưa hoàn tất. Vì phải công nhận
rằng - như hậu thế đã công nhận - trong hoạt động Giám Mục của ngài, chính Giáo
Hội, vừa là cộng đồng thiêng liêng của đức tin và đức ái, vừa là định chế do
hàng Giám Mục hướng dẫn, là đối tượng mà ngài muốn phục vụ và bảo vệ.
Sự tồn
tại dai dẳng trong nhiều thế kỷ của ly giáo Novatien song song với cuộc ly khai
của bè Donato ở Bắc Phi bắt đầu từ thế kỷ IV đã khiến cho công trình của
Cyprien về Giáo Hội học và về Bí Tích mang tính thời sự trong một thời gian
dài. Với tham vọng thiết lập một Giáo Hội chân thật duy nhất, những người theo
bè Donato đã coi các tác phẩm thiên về việc "rửa tội lại" của ngài
gần như là Thánh Kinh của họ. Trong suốt cuộc đấu tranh chống lại những kẻ đó,
thánh Augustin rơi vào một tình huống khó xử vì phải bác bẻ những luận đề của
một bậc thầy mà ngài, cũng như mọi người đương thời rất kính trọng ; hơn nữa,
đó là vị thầy mà ngài cũng như thánh Jérome vẫn thích nại tới. Cyprien có vinh
dự là một trong số Giáo PhụLatinh hiếm hoi được biết đến ở Ðông phương. Việc
tôn kính ngài như một Giám Mục tử đạo lan rộng, vượt ra ngoài Phi Châu. Ngài
vẫn còn là một trong những trụ cột của Giáo Hội Tây Phương.
SÁCH NGHIÊN CỨU THÊM.
M.
JOURJON, Cyprien de Carthage, Paris, Editions Ouvrieres 1957.
J.
COLSON, lEvêque, lien dunité et de charité chez saint Cyprien de Carthage,
Paris S.O.S. 1961
M.
SPANNEUT, Tertullien et les premiers moralistes africains, p. 65 - 113
Các bản dịch :
Saint
Cyprien, Correspondance : coll "Les
Belles Lettres" Association Guillaume Budé, 2 vol. 1945
P. de
Labriolle, Saint Cyprien, De lunité de lEglise Catholique, coll. "Unam Sanctam" no.
9, Paris, Le Cerf 1942
À Donat,
La vertu de Patience : "Sources
Chrétiennes" no. 291