BÀI I
SỰ ĐỐI KHÁNG
GIỮA CŨ VÀ MỚI
TRONG
GIÒNGVĂN HỌC VIỆT NAM TIỀN BÁN THẾ KỶ XX ( 1907 - 1945 )
Hoài Việt
Xã hội hôm nay đã có
nhiều thay đổi. Ở xứ người, chúng ta lạ lẫm với người ngoại quốc; đôi khi lạ lẫm
với cả gia đình, con cái; từ đó có lúc lạ lẫm với chính mình: Phải chăng mình
đã già nua nên không hiểu nổi con cái? Phải chăng mình thật cổ hủ nên không chấp
nhận được những mới mẻ của giới trẻ hôm nay? Cái mà chúng cho là hợp thời, hiện
đại, thì mình thấy như lố bịch, quái đản. Và ngược lại, những gì mình quý trọng,
bảo tồn thì chúng lại cho là cũ kỹ, đáng bỏ đi...Đâu là cái đúng, cái sai? Đâu
là cái phải giữ gìn, còn đâu là cái cần loại bỏ ?
Thật ra, những gì chúng
ta đang gặp hôm nay cũng là những cái làm khó thế hệ cha ông chúng ta vào nửa đầu
thế kỷ trước. Trong một loạt sáu bài khảo luận nhỏ, người viết không dám giải
quyết hết các vấn đề xung đột giữa cũ và mới, chỉ xin cùng các bạn ôn cố để tri
tân, cùng nhìn lại giòng văn học Việt Nam tiền bán thế kỷ XX để tìm hiểu những
nguyên nhân, và những hướng giải quyết cho sự xung đột giữa cũ và mới
này .
HOÀN CẢNH VÀ NHỮNG ĐỒI MỚI
I. THẾ MẠNH CỦA CHỮ
QUỐC NGỮ
Như chúng ta đã biết, từ
ngàn xưa nước Việt không có văn tự riêng. Chúng ta đã phải vay mượn chữ Hán để
truyền bá học thuật Trung Hoa, qua đó sáng tạo và củng cố thêm học thuật của
mình. Văn học chữ Hán đi song song với nền văn học bình dân (qua ca dao,tục ngữ...)
để xây nên nền văn học Việt. Mãi tới thế kỷ XIII, đời nhà Trần, mới có Hàn
Thuyên sắp đặt lại và sáng tác thêm chữ Nôm1 (tựa như chữ
Hán) . Và sau này, Vua Quang Trung của nhà Tây Sơn muốn đưa thứ chữ này
lên địa vị độc tôn để duy trì tinh thần độc lập 2 và tự cường của
dân tộc. Mặc dù hai vị có hoài bão và được tiếp nối bởi những thiên tài văn
chương qua các thời đại như Nguyễn Trãi, Chu văn An, Nguyễn bỉnh Khiêm, Bà
Huyện Thanh Quan, Đoàn thị Điểm, Nguyễn công Trứ, Hồ xuân Hương... và đặc
biệt là Nguyễn Du với truyện Kiều. Nhưng mùa xuân không được làm
nên bởi vài cánh én, chữ Hán vẫn chiếm ưu thế và tồn tại tới đầu thế kỷ
XX.
Trong khi đó, chữ quốc
ngữ dù sinh sau đẻ muộn hơn chữ Nôm (chỉ đến Việt Nam vào thế kỷ XVII ) , nhưng
nhờ sự giản dị của mẫu tự La tinh, và tài hệ thống hoá cũng như thích nghi l
cách khoa học của các thừa sai ngoại quốc, đặc biệt là cha Đắc Lộ, nên
đã phát triển mau lẹ và phổ biến trong dân. Chữ quốc ngữ với cách đọc và cách
viết đơn giản, dễ học, đã dần dần thay thế chữ Nôm, chữ Hán ; Để đưa giòng
văn học Việt Nam đến một bến bờ khác: Hợp với trào lưu hiện đại, gặp gỡ những
tư tưởng Âu Tây, qua đó phong phú hoá đời sống văn hoá của dân tộc mình.
Cũng cần phải nói đến
chiến thắng của sức mạnh phương Tây trên đế quốc Trung Hoa già nua bệnh hoạn. Từ
ngàn xưa, các sĩ phu Việt Nam vẫn coi Trung Quốc là Thiên triều, mẫu mực của
văn minh, không ai sánh bằng. Cho đến khi xảy ra trận chiến tranh Nha Phiến
(1840 -1842 ), sau đó là chiến tranh Trung - Nhật ( 1894 - 1895 ), và Nga- Nhật;
Giới sĩ phu Việt Nam mới chợt tỉnh ngộ : Cái thực dụng đã thắng cái từ
chương, khoa học và tư tưởng Aâu Tây đã chiếm thượng phong so với học thuật Á
Đông lạc hậu cổ điển . Điều gì đã khiến Trung Hoa phải chào thua trước sự xâm
lăng của Tây phương? Đã làm cho nước Nhật nhỏ bé đánh thắng được hai đại cường
là Nga và Tầu trong một thời gian ngắn ? Phải chăng khoa học và văn hoá
Aâu Tây không xấu xa và dở như mình vẫn nghĩ ?... Phong trào Đông du ra đời
với Phan bội Châu, Cường Để... đổ xô đi học cái hay ở nước ngoài, những
ai không đi du học được thì mua, mượn sách báo xứ người về học hỏi thêm. Học
thuật nước Tầu nhường chỗ cho học thuật Aâu Tây, chân lýmạnh được yếu thua được
nhận thức rõ ràng đưa đến Phong trào Duy Tân sau này và thổi luồng gió mới vào
văn học Việt Nam.
Nhưng hoàn cảnh quan trọng
hơn cả là sự mở mang nền Pháp học của người Pháp. Ở đâu cũng vậy, kẻ thống trị
luôn lợi dụng thế mạnh của mình. Người Pháp muốn khai hoá dân Việt, đào tạo 1 lớp
người mới để cộng tác với chế độ thực dân, phổ biến cái hay cái đẹp của Aâu
Tây, củng cố sự thống trị bằng tư tưởng và văn hoá, thay ảnh hưởng của Tầu bằng
ảnh hưởng của mình, thuộc địa hoá và sát nhập Việt Nam vào nước Đại Pháp... Tất
cả những lý do mà lịch sử nói tới, đều hợp lý ít nhiều với sự mở mang văn hoá của
người Pháp ở Việt Nam . Năm 1907, họ lập hội đồng cải cách giáo dục, chính
thưcù đem tân học, chữ Pháp và chữ quốc ngữ vào khoa cử Hán học, mở trường sư
phạm đầu tiên để đào tạo giáo viên tiểu học, cho mở trường đại học Hà Nội (sau
1 tháng thì bị đóng cửa vì lý do chính trị) rồi được mở lại vào năm 1918 , cho
những sinh viên và giới trí thức sang Pháp du học... Chính những điều này đã thổi
lên hai luồng gió canh tân cho văn học Việt Nam, đợt 1 vào năm 1907, và đợt 2
vào năm 1932 .
II. VIỆC ĐỒI MỚI:
NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI
Tuy chữ quốc ngữ đang ở
thế mạnh, thế giới đổi thay với chiều hướng nghiêng về Aâu Tây, được người Pháp
ủng hộ... Sự thay đổi cả 1 nền học thuật đã có gốc rễ tự ngàn xưa thật không dễ
dàng . Trong thời gian này, chúng ta nói tới việc đổi mới trong hình thức, nội
dung, sinh hoạt, và ý thức.
III. VẤN ĐỀ HÔM NAY
Sau biến cố 1975, chúng
ta và con cái chúng ta cũng được tiếp xúc với luồng gió mới. Tuy không quá lạ lẫm
như đối với cha ông chúng ta vào đầu thế kỷ trước, nhưng lối sống văn hoá Aâu Mỹ
với những sinh hoạt mới lạ và khác lạ có lúc cũng làm lung lay những thành trì
kiên vữngï đôi khi bất khả xâm phạm trong tư tưởng và tâm hồn chúng ta. Những
khái niệm về danh dự, tình cảm, truyền thống gia đình, tinh thần dân tộc... đã
bị làn sóng tư bản, thuyết thực dụng, chủ nghĩa cá nhân... lấn át. Chẳng những
giới trẻ mà ngay cả chúng ta, có những người say sưa với hào nhoáng bề ngoài của
nền văn minh mới, thấy cái gì của Tây của Mỹ cũng hay, đua đòi bắt chước và
khinh rẻ những gì của dân tộc mình: cho rằng người mình lạc hậu cổ hủ, phải bỏ
hết đi để làm lại từ đầu. Như năm xưa có 1 số người muốn dẹp bỏ chữ Hán và cái
học từ chương của cả 20 thế kỷ. Bỏ chữ Hán thì được, nhưng còn cái học của tiền
nhân? Họ quên rằng chữ Hán không là tất cả văn học Việt, rằng cái học từ chương
chỉ là cái vỏ bề ngoài bọc lấy những tinh tuý của dân tộc bên trong. Ngay chữ
Nôm tuy đáng bỏ đi, nhưng vẫn là Giọng Hàn Thuyên của Hồn Đại Việt, 1 người câm
tuy không nói được hay 1 người không biết 1 chữ nào cũng vẫn là người Việt với
lòng yêu quốc gia dân tộc, với nhân hiếu lễ nghĩa của truyền thống Việt đầy ắp
trong lòng. Chối bỏ quá khứ dân tộc là chối bỏ chính mình. Dù chúng ta hay con
cái chúng ta có mang quốc tịch Aâu Mỹ, có nói tiếng của họ hay thích nghi cuộc
sống của họ đến đâu chăng nữa, bản chất Việt vẫn và sẽ phải ở trong chúng ta, để
chúng ta khỏi là những người mất gốc, xa lạ với chính mình.
Ngược lại, lại có những
người vẫn tự hào với quá khứ: cho rằng lịch sử, văn học, và truyền thống của chúng
ta là trác tuyệt . Chúng ta đã lệ thuộc phương Bắc cả ngàn năm, chịu ách thống
trị Thực dân Pháp cả trăm năm, thế mà không bị đồng hoá, vẫn giữ được ngôn ngữ
văn tự, biết sống lễ nghĩa gia giáo hơn bọn tây phương nông cạn, bề ngoài....Từ
đó bảo thủ không chịu học cái hay của người, luôn khư khư cho mình làgiỏi, là
nhất; không chấp nhận cho con cái hoà mình vào sinh hoạt văn hoá và xã hội Aâu
Tây. Họ giống như các cụ đồ nho xưa không chịu cắt đi búi tóù, để mãi nặng đầu
với những thành kiến hẹp hòi. Tiếng súng đầu tiên của Thực dân Pháp vào năm
1859 đã không làm triều đình Huế tỉnh ngộ, làm nước nhà chìm đắm trong ách thực
dân gần 100 năm. Mãi tới tiếng súng của chiến tranh Nha phiến làm Trung Hoa đại
bại, Nhật thắng Nga và Tầu, mới khuyến khích được các cụ đi theo cái mới của đầu
thế kỷ trước. Chẳng lẽ hơn 100 năm sau, vào năm 2000 này, chúng ta lại trở lùi
lại cái mốc mất nước năm xưa. Aáy là chưa kể về kinh tế, khoa học, kỹ thuật,
thương mại... các nước Tây phương đã phát triển tới đâu nhờ sự đổi mới không ngừng
cuả họ ; trong khi các nước Á Phi, nhất là những nước bảo thủ, vẫn còn lạc
hậu, nghèo nàn.
Cho rằng cái gì của
mình cũng hay rồi không cần phải học ai, theo ai. Hoặc cho rằng cái gì của mình
cũng dở rồi vọng ngoại, chán nản, xa dần dân tộc, quê hương. Thái độ tự tôn hay
tự ti, đềøu là không đúng !