BÀI III
THƠ MỚI :
TIẾNG LÒNG CỦA
THẾ HỆ TRẺ
TRONG XÃ HỘI
MỚI .
Hoài Việt
Văn chương không chỉ
có văn xuôi, mà còn có cả văn vần mà ta thường gọi là thơ, là thi ca với nhạc
điệu, tính trữ tình, ngôn ngữ thi vị, và hồn dân tộc. Thi ca Việt Nam vào đầu
thế kỷ XX cũng có sự chuyển hướng quan trọng, hoà nhịp với văn xuôi để diễn tả
sinh hoạt, lối suy nghĩ, nỗi lòng của dân chúng cũng như của thi nhân. Thi ca
phát sinh từ đời sống; và tới phiên mình, thi ca cũng mang lại cho đời sống
hương vị mới mẻ, linh hoạt, những nhận định về cái đẹp, cảm hứng của tâm hồn,
và nhất là giá trị văn hoá nhân bản của dân tộc. Với quy luật" phát sinh
và đào thải" của thời gian, cũng có l sự tranh luận rộn ràng giữa cái mới
và cái cũ trong thi ca, giữa dòng thơ mới vừa thành hình và dòng thơ cổ mang nặng
dấu ấn Hán Nôm của cả ngàn năm văn học.
I. "TÌNH GIÀ" , MỘT MỞ ĐẦU CHO DÒNG THƠ MỚI TRẺ TRUNG.
Thật ra, thơ mới đã có mầm mống từ năm 1914 với bài thơ" Con
ve và con kiến" của La Fontaine mà Nguyễn văn Vĩnh đã dịch
trên ĐDTC số 40. Mầm mống này cũng đã được Phạm Quỳnh gían tiếp hoan
nghênh khi phê bình sự gò bó của thơ cũ . Nhưng phải đợi tới năm 1932, mới có
Phan Khôi là l nhà nho theo Tân học, viết bài thơ mới đầu tiên "Tình
Già"ø, bài thơ được coi là "Tên lính xung phong vào thành trì thơ cũ"
. Sau đó, thơ mới được sự ủng hộ tham gia của những nhà thơ trẻ : Lưu trọng
Lư, Thế Lữ, Nguyễn thị Manh Manh, Vũ đình Liên. Chúng ta có thể nói sự khác
biệt của thơ mới trên hai phương diện : âm luật và thi hứng.
1. Về âm luật :
Các nhà thơ mới cho rằng : thơ cũ chịu ảnh hưởng của thơ Đường
(Trung Quốc) với niêm luật, âm vận, số chữ và số câu giới hạn, đã trói buộc thi
nhân trong khuôn sáo giả tạo, đâm ra" không phải không muốn làm thơ, nhưng
là làm không được" . Nay họ bắt chước lối thơ của Pháp, với cách gieo vần,
hiệp vần khoáng đạt, không có niêm luật và phép đối, để sáng tạo ra thơ mới ;
làm cho lời thơ được tự nhiên và dễ nghe hơn với những âm thanh phù hợp tình ý
(hoặc mạnh mẽ, hoặc dịu dàng ), tiết tấu nhịp nhàng hơn nhờ cách ngắt câu linh
hoạt. Ví dụ như Thế Lữ diễn tả sự oai hùng của hổ và rừng núi :
Nhớ
cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với
tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với
khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta
bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng. (Hổ
nhớ rừng )
Hoặc sự êm đềm, mẫn cảm của mùa thu, với nỗi lòng người vợ nhớ chồng
trong bài ''Tiếng Thu'' . Hay hình ảnh nhẹ nhàng của bài" Sương rơi",
làm ta có cảm tưởng như có cái gì bâng khuâng, rơi hoài :
Em không nghe mùa thu .Rơi
sương
Dưới trăng mờ thổn thức ?
Cành dương.
Em không nghe rạo rực
Liễu ngã
Hình ảnh kẻ chinh phu
Gió mưa
Trong lòng người cô phụ ?
tơi tả
(Tiếng thu; Lưu trọng Lư ) Từng giọt
Thánh thót. (Sương rơi; Nguyễn Vỹ)
2. Về thi hứng :
Nói chung, từ bao thế hệ, những nhà thơ đều lấy thi hứng từ 3 nguồn
:Cảnh vật trong trời đất, những trạng huống trong cuộc sống, và tình cảm của
con người. Nếu có khác, chỉ là ở đối tượng và phong cách diễn tả .
a)Cảnh vật :Những nhà thơ xưa thường thích tả Gió,Trăng,Hoa,Tuyết.Hoặc núi
sông hùng vĩ, danh lam thắng cảnh . Còn những nhà thơ mới thì cho rằng cảnh gì
cũng có thể đưa vào thơ được : ruộng lúa, ao rau, luỹ tre, ngọn cỏ. Cảnh vật
càng bình dân thì càng trung thực.
b)Trạng huống xã hội : Các nhà thơ xưa thường tả cuộc sống và tâm tư của những bậc
phong lưu quyền quý, với những lời thơ quý phái, bệ vệ, lề lối. Ngược lại, những
nhà thơ mới thì để ý đến lối sống bình thường với những khó khăn vất vả của
dân. Những hình ảnh bình dân trong cảnh" Chợ Tết" của nhà thơ Đoàn
văn Cừ thật đẹp
.Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha
Thúng gạo nếp đong dầy như núi tuyết. (Chợï Tết,
Đoàn văn Cừ)
Và với những bài thơ như" Lời con đường quê" của Tế
Hanh," Xuân về" của Nguyễn Bính," Trưa hè" của Bàng
bá Lân.Chúng ta thấy thơ ca thật gần gũi với sự cần cù của người lao động
nghèo hèn, lối sống bình dân của cả l dân tộc.
c)Tình cảm lòng người : Các nhà thơ xưa hay ca tụng Trung, Hiếu, Tiết, nghĩa.Còn
về ái tình thì rất kín đáo nhẹ nhàng. Mãi tới thế kỷ XIX mới đề cao nhiều hơn tới
tình bạn như Nguyễn Khuyến trong bài" Khóc Dương Khuê"â, hay
tình gia đình như Tú Xương trong bài" Thương vợ"ï. Ngược lại,
những nhà thơ mới thì cho rằng mọi tình cảm của con người đều là trung thực,
đáng diễn tả : từ những khát vọng thầm kín, nồng nàn, tê tái.đến những cảm xúc
tự nhiên trước Thượng Đế, tình bạn, tình yêu, cái đẹp. đều là đối tượng tự
nhiên của thi ca .
Nói chung, thơ mới muốn phá bỏ những lề lối khuôn sáo, cũng như những
thi hứng hạn hẹp của thơ cũ. Thơ mới có khát vọng," cái khát vọng cởi trói
cho thi ca chỉ là cái khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u uất, cái khát
vọng được thành thực "với mình và với người.
II." NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ".
Ai trong chúng ta đã đọc qua bài thơ" Ông đồ" của nhà thơ
Vũ đình Liên, chắc hẳn đã từng ngậm ngùi với hai câu cuối : Những người muôn năm cũ
Hồn
ở đâu bây giờ ? (Ông đồ, Vũ đình Liên)
Quả thực đau buồn cho những nhà thơ xưa, trong giai đoạn suy tàn của
thi ca cũ . Tuy nhiên, vì thi ca là tiếng nói của tâm hồn, nên nó có sự phản ứng
mạnh mẽ khi bước sang l bước ngoặt, chứ không đến nỗi buồn tẻ như Khổng học lúc
suy tàn, khi mà Phan Khôi viết 21 bài chỉ trích Khổng giáo (năm
1930), mà các nhà nho vẫn nguội lạnh, dửng dưng .
1. Những phản kháng .
Sau những bài thơ mới
của Phan Khôi, Lưu trọng Lư (1932), và những bài diễn thuyết sôi nổi ca
ngợi thơ mới. Cũng có những bài diễn thuyết và bài viết, đả kích thơ mới, bênh
vực thơ cũ ,ở cả ba miền như của các ông Tân Việt, Tường Vân, Nguyễn văn
Hanh, Thái Phỉ. Khi thơ mới cho rằng niêm luật của thơ cũ thật gò bó, rắc rối;
Ông Tùng Lâm đã phản đối : đã là nghệ thuật thì phải là công trình đòi hỏi
nhiều công sức; và cái công phu đẽo gọt, tô điểm là việc làm cần thiết của người
nghệ sĩ, không thể nói là gò bó được; Chỉ có "bọn thơ mới là dốt, không biết
làm thơ"; Ông còn đòi "căng nọc, đánh đòn" những nhà thơ trẻ.
Đáp lại, nhà văn Lê Ta (tức thi sĩ Thế Lữ) chê lớp người cũ
là" nhai lại", "giỏi nghề xào nấu" thơ của cổ nhân.
Ông Thiết Diện
cũng cực lực chê trách những nhà thơ mới, cho họ là "bọn du đảng ăn mặc rằn
ri", "bọn lẳng lơ đi giày cao gót" . Chẳng có gì là mới cả khi
chính họ cũng như những nhà thơ cũ: dù không khóc tiếng khóc cũ, nhưng cũng lại
rên rỉ cho duyên phận, biệt ly, đau khổ. Chê thơ cũ "thương mây khóc
gió" nhưng chính họ lại khép mình trong buồn thảm, sầu bi. Ông Huỳnh
thúc Kháng còn quả quyết rằng thơ cũ sắp đến hồi mạt vận.
2. Chấp nhận sự thực
Sự thắng bại không ở những cãi cọ trên diễn đàn, nhưng là ở bình diện
sáng tác. Cái nguy của thơ cũ là không sáng tác được thêm những bài thơ giá trị,
trong khi thơ mới cứ có thêm những bài thơ hay. Với l đội ngũ hùng hậu, có tâm
hồn mở rộng như Thế Lưõ, hùng tráng như Huy Thông,trong sáng như Nguyễn
nhược Pháp, mơ màng như Lưu trọng Lư, kỳ dị như Chế Lan Viên,
siêu thực như Hàn mạc Tử, mộc mạc quê mùa như Nguyễn Bính.Thơ mới
dần dần chiếm lãnh Thi đàn. Trong vòng l0 năm, cuộc chiến đã ngã ngũ với phần
thắng nghiêng về thơ mới. Và thơ cũ bắt đầu thỏa hiệp : không có thơ mới và thơ
cũ, chỉ có con người mới làm thơ. Và nói như Hoài Thanh : "Chỉ có
tuyệt tác thời gian, chứ không có vấn đề cũ mới". Ông còn chia thơ thời bấy
giờ thành ba dòng ảnh hưởng : Dòng thơ Pháp với Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận,
Thanh Tịnh. Dòng thơ Đường với Jean Leiba,Vân Đài, Thái Can, Quách Tấn.
Và dòng thơ Việt với Lưu trọng Lư, Nguyễn nhược Pháp, Nguyễn Bính, Vũ hoàng
Chương. Nhưng dù cho thơ mới có ba dòng; Hay coi thi cảm "như l dòng
sông bị nước tràn thành những dòng sông khác, nhưng nước sông vẫn là l";
Thì thơ cũ cũng dần dần rút lui vào các thi xã và những thi tập, truyền lại cho
con cháu hoặc trao tay giữa các bạn hữu với nhau. Những thi nhân không làm thơ
Đường nữa mà lui về ẩn dật. Và vào năm 1938, l dòng chữ quảng cáo trên báo Ngày
Nay số 140, đã cho thấy hoàn cảnh của những nhà thơ cũ và làm ta xúc động
sâu sa :" Nhận làm thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội",
dưới ký tên l người không xa lạ gì với Văn học sử Việt Nam: Tản Đà Nguyễn khắc
Hiếu.
III. THI SĨ TẢN ĐÀ , GẠCH NỐI CỦA HAI THẾ HỆ
"Tiên sinh gần chúng tôi lắm. Tiên sinh không mang lốt y phục,
lốt tư tưởng của chúng tôi. Nhưng có làm gì những cái lốt. Tiên sinh đã cùng
chúng tôi chia sẻ l nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát ly ra ngoài
cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo. Đôi bài thơ của tiên sinh
ra đời từ hơn hai mươi năm trước đã có l giọng phóng túng riêng. Tiên sinh đã dạo
những bản đàn cho l cuộc hoà nhạc tân kỳ đang sắp sửa."
Lời cảm động của Hội Tao Đàn đã nói lên vị trí Tản Đà trong thi ca
hiện đại. Nhớ khi dòng thơ mới ra đời, Tản Đà là người bị tấn công nhiều nhất,
vì ông đang là nhà thơ nổi danh của làng thơ cũ. Nhưng chỉ hai năm sau, những
người công kích ông đã đổi thái độ; và tới năm ông mất (1939), ông đã được coi
là "Vị thánh sống của làng thơ" với bao lời ca ngợi của các nhà thơ mới,
cũng như của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và nhóm Tân Dân.
Sở dĩ Tản Đà được quý mến và ca ngợi, không chỉ vì ông là nhà thơ
có tài với những thể thơ phong phú, giàu nhạc điệu; hình ảnh và ngôn từ giản dị,
gợi cảm; phong cách thơ uyển chuyển, tinh vi. Nhưng còn vì ông là người có tư
tưởng khoáng đạt, cảm thông sâu sắc với người đời và đời người. Ông là" l
hồn thơ cũ đã sớm cảm thông hồn thơ mới của lớp người trẻ"là" thi
nhân đã đóng vai trò nhịp cầu nối liền hai thế hệ Tân và Cựu" . Trong suốt
2 năm đầu của cuộc tranh luận giữa thơ cũ và thơ mới, Tản Đà tự đứng ngoài vòng
dù có bị châm chọc Ông đã dùng lời lẽ ôn tồn cảnh tỉnh giới trẻ, với những kinh
nghiệm thơ mà ông đã trải qua. Qua những bài viết,ông thật sự cảm thông với sự
cuồng nhiệt của họ, của những người chỉ thấy nội tâm mà quên đi ngoại giới, có
thể vì chủ quan mà tự đánh lừa mình. Theo nhà thơ, không có gì thiêng liêng bằng
tình quê hương dân tộc, ông đã hô hào sự yêu thương đoàn kết, không phài để
đánh đổ Thực dân Pháp và chắp lại "Bức dư đồ rách" ,mà là tình đồng
bào yêu thương đùm bọc lẫn nhau trước những tai ương của cuộc đời. Ông còn nghĩ
tới thuyết Thiên Lương để cứu đời, cứu người; Tuy là l thuyết quá lý tưởng dựa
trên luân lý Nho gia, nhưng là tấm lòng của người yêu đồng bào, tổ quốc. Từ chối
những hình thức cũ, không có nghĩa là xa rời nguồn sống dân tộc, quên đi di sản
quá khứ. Và chính thơ văn của ông đã làm chứng cho ý hướng của ông: Lãng mạn
nhưng sâu sắc, tình cảm trong đạo đức, phóng khoáng trong nề nếp. Ông là đại diện
cuối cùng của những nhà thơ cũ và cũng là bậc đàn anh mở đường cho những nhà
thơ mới :
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề . (
Thề non nước ; Tản Đà )
IV. VẤN ĐỀ HÔM NAY
Nguyễn tấn Long và
Nguyễn hữu Trọng, hai tác giả bộ "Việt Nam Thi nhân tiền chiến"
đã coi thơ cũ như l lâu đài cổ kính mấy ngàn năm, nơi mà lớp trẻ đã có lần coi
là ngôi mộ cổ.å. Nay tuy họ đã nhìn lại với thái độ kính yêu, nhưng vẫn không
muốn trở về . Lớp người Cựu học thì nhìn khác, họ thấy trong lâu đài sắp sụp đổ
kia còn có những trân châu bảo ngọc qúy giá, không thể để gia tài văn học cả
ngàn năm bị chôn vùi. Hơn nữa, họ cũng lo lắng cho thế hệ sau: dù mục nát thì cũng
còn là ngôi nhà để ở, còn hơn là dấn thân vào nơi vô định, không chốn nương
thân .
Hôm nay cũng vậy, chúng ta lo lắng cho thế hệ
tương lai là đúng. Nhưng sự ra đi khỏi những khuôn sáo cũ và đã thành công của
những nhà thơ trẻ thời tiền chiến , cũng là l suy nghĩ cho chúng ta. Biết đâu
con em chúng ta có lý, nếu chúng ta có l sự nhắc nhở của "Tản Đà"ø. Đừng
cản trở những bước tiến của giới trẻ và quy luật xã hội, nhưng phải nhắc cho
chúng hiểu rằng : Có những điều vượt trên những thay đổi bề ngoài, vượt trên cả
những suy nghĩ chủ quan của chúng, đó là tình cảm chân thật với quê hương, dân
tộc, và với chính mình . Có thể chúng sẽ có những bước đi sai, như những câu
thơ tới 27 chữ của Nguyễn thị Kiêm; Hay thơ "12 chân" của
Nguyễn Vỹ, nhưng chúng ta hãy tin rằng :"Những cái ngông cuồng trái
với tinh thần tiếng Việt đều mất. Hồn thiêng của cha ông còn nương trong tiếng
nói đã giữ con cháu không cho làm loạn. Như thế càng hay. Chỉ sợ cùng với cái
ngông cuồng, ta mất luôn cả tinh thần sáng tạo" . Hãy cho chúng biết rằng
: nếu chúng đủ chân thành tìm đến di sản xưa, quý trọng và đào sâu nền móng cũ
với tấm lòng mới, chúng sẽ tìm được những điều chân thực, quý báu, và đẹp đẽ nhất
của giống nòi; Để tô điểm cho đời sống của mình, của gia đình, và xã hội ngày
thêm tươi đẹp. Nói như Cụ học giả Đào duy Anh :" Cái văn hoá
của Tổ Tiên ta đã gây dựng trong mấy nghìn năm để sinh trưởng giữa những điều
kiện tự nhiên ác liệt ở xứ này, tất phải có sinh khí mạnh mẽ lắm" . Cái
sinh khí ấy nhất định sẽ giúp chúng ta và con cháu chúng ta vượt qua những trở
ngại khó khăn để xây dựng tiền đồ dân tộc. Di sản văn hoá của nòi giống Việt đã
tồn tại cả nghìn năm, và sẽ tồn tại mãi theo thời gian với những tâm hồn đầy
thiện chí .