Như Ðóa Hoa HỒng
Pierre Charles, S.J. - Phạm Minh Thiện
chuyển dịch
Lạy
Chúa, sáng nay con dạo quanh trong một vườn hoa nhỏ, một vườn hoa rất tầm thường,
và như thể cả vũ trụ vạn vật đang đến với con; như thể mọi nước muốn liên hoan
con. Vì có trong đó những hoa thược dược, hoa zinnia, hoa cúc vạn thọ: và con
biết chúng đến từ Mêhicô. Có những hoa thùy cúc và những hoa tử dương, là những
cô bé gái Trung quốc. Chúng con biết rõ chúng đã đến từ miền Viễn Ðông từ lúc
nào. Có những hoa sen cạn (capucines) và những hoa hướng dương (héliotropes).
Chúng đến từ xứ Pêru. Những hoa lai-dơn (glaieuls) đến từ vùng Mũi (Cap) cùng
với hoa lộ biên hai màu (lobélias). Những hoa bê-gô-ni-a (bégonia) đến từ xứ
Bôlivia; những hoa bóng nước (balsamines) đến từ miền Ðông Ấn độ; những hoa cúc
màu đỏ tía (cinéraires pourpres) đến từ Tênêrip (Ténérife) thuộc vùng Canaries,
Ðại tây dương; và ngay cả trong những bụi rậm dọc theo tường, nhưng hoa
xanhphôrin (symphorines) họ kim ngân với trái hình cầu trắng, đến từ Canađa, và
những hoa tử đinh hương (lilas), sẽ nở vào mùa xuân và đến từ xứ Ba Tư vào cuối
thế kỷ thứ XVI... Còn nhiều thứ khác nữa, nếu con đến thưởng thức những hoa
ngoại lai trồng trong các nhà kiếng; nhưng có những hoa mọc ngoài trời đã quen
với thủy thổ của xứ chúng con, như hoa đậu Trung quốc (glycine) và hoa dã yên
thảo của xứ Braxin (pétunia). Chúa đã mời chúng con dừng lại trước những bông
huệ ngoài đồng để ngắm vẻ sặc sỡ của chúng còn rạng ngời hơn cả tủ áo huy hoàng
của vua Salômôn.
Hôm
nay con muốn đi dạo quanh các cây hoa này, không phải với mắt của một nhà thẩm
mỹ cũng chẳng phải với tư cách một người bán dược thảo, nhưng ngắm nhìn chúng
với tư cách một Kitô hữu, vì con cảm thấy trước chúng có những điều huyền bí
cao quý đối với con. Con sẽ không sử dụng chúng như là những bằng chứng để
khẳng định về sự Quan Phòng đầy khôn ngoan của Chúa, Con sẽ không phân loại
chúng thành họ thành chi như: loại cây có một lá mầm (cotylédones), loại có hai
lá mầm (dicotylédones), hoa loại bầu trên (ovaires supères) hay hoa loại bầu dưới
(ovaires infères); hoa chùm tán (obelles), hoa chùm cụm (grappes), hoa cụm hình
chùy (panicules); rồi những lá đối nhau hay xếp thành vòng, tràng hoa hợp cánh
(gamopétales) hay phân cánh (dialypétales), tất cả những thứ ấy đều tuyệt vời,
nhưng trong giờ phút này, con chẳng quan tâm gì đến những thứ ấy. Con ngắm hình
các hoa, cách tự nhiên vậy thôi, như Ngài đã gắn bó chúng vào đời con, và con
thử tìm hiểu chúng muốn nói với con điều gì.
Chúng
đều chóng tàn, và chúng đều mỏng manh. Cho nên con người đã tìm cách chế tạo ra
những hoa nhân tạo, và ôi thôi, với những tiến bộ kỹ thuật, con người đôi khi đã
thành công cách tuyệt vời. Con biết những bó hoa mà đôi khi người ta đã đặt lên
bàn thờ chúng con. Chúng bền thật, chúng cứng cáp thật. Nhưng hoa ấy không cần
người ta tưới nước cho nó. Chúng không khát nước. Mỗi lần buổi lễ kết thúc, người
ta đem nó cất vào tủ cùng với những “dụng cụ thờ phượng” khác. Rồi người ta đem
chưng nó lại, sau khi đã phủi sạch bụi.. Vào lễ Hiện Xuống hay vào lễ Giáng
Sinh, vào lễ Ðức Mẹ hồn xác về trời hoặc là vào lễ kính tổng thiên thần Micae;
dù là để kính các thiên thần hay các thánh tử đạo, hay cả để đón mừng đức giám
mục, những hoa ấy được dọn ra tức thì, mùa đông cũng như mùa hè, ở dưới trời
nóng của Xích Ðạo hay ở tại các xứ có khi hậu chúng con, mà người ta thường nói
theo uyển ngữ, là khí hậu ôn đới. Ôi các cánh hoa nhân tạo ngoan ngoãn! Chúng
làm các chú lo việc thờ phượng hoan hỉ thích thú, và nói cho cùng, chúng có
tính kinh tế. Ðó là những lợi ích đúng đắn có thật.
Thế
nhưng, khi bị thu hút vì dáng đẹp bên ngoài của chúng, và tưởng là hoa thật,
con đến gần và phát hiện là cọng của chùng làm bằng sợi kẽm và các cánh hoa là
bằng giấy lụa, thì con thất vọng. Tất cả cảm hứng của con bốc hơi bay mất. Tại
sao như thế ?
Hoa tự nhiên hơn hoa nhân tạo ở chỗ nào? Người
ta nói với con là vì hoa tự nhiên thì sống động, và vì thế mà có vẻ quý phái hơn,
thanh cao hơn. Nhưng con biết đó không phải là câu trả lời chính xác. Ðiểm trổi
vượt của các hoa tư nhiên là vì chúng phải chết, và như thế nó gây xúc động
thống thiết vô cùng.
Những
cánh hoa không bao giờ tàn có thể dùng để người ta liên hoan, nhưng những hoa
sẽ tàn tạ thì có thể tự hiến tặng không thôi. Người ta đã cắt hoa để làm nó
thành bó hoa, tức là hiến tặng giờ hấp hối của nó, mà không bao giờ có thể trả
lại nó nguyên hình nguyên dạng được. Vì nó tàn, nên nó được đồng nhất với ban
ngày, cũng qua di như nó, cùng với các nhân sinh phải chết. Nơi cánh hoa, chúng
ta gặp lại nhau. Chúng kể cho chúng ta nghe lịch sử riêng của chúng ta bằng
những ngôn ngữ mỹ thuật.
Cái
gì tỏ là sự yếu đuối và lỗi tỳ nơi chúng thì thật ra chính là nét huy hoàng và
giá trị của chúng, Bó hoa này không thể được sử dụng hai lần, và trao tay này
qua tay kia. Nó là hình ảnh nói lên sự trung tín tuyệt đối, như tình yêu giữa
hai người đôi bạn hoặc như tình bằng hữu.
Lạy Chúa, khi Chúa nói với chúng con là hãy
ngắm các hoa huệ ngoài đồng, Chúa còn thêm rằng chúng con không thể nào, cho dù
có lao lung suy nghĩ đến đâu, cũng không thêm được một gang tay vào chiều cao
của chúng con. Chúng con cũng không làm cho thời gian đang lôi kéo chúng con đi
ngừng lại được, cũng chẳng trở về lại những ngày đã qua đi rồi. Trong đồng hồ
cát mà Chúa đã ấn định số giờ con được sống, con không thể nào đút ngón tay con
vào đó được. Cát cứ chảy mà không chút động lòng, và khi hạt cát cuối cùng đã
qua rồi, thì dời con sẽ khép lại trên trái đất này, và sự bất động sẽ chụp lấy
con. Biết bao nhà thơ đã rên siết về thời gian đang chạy trốn này ! Nhưng khi
con nhìn các cánh hoa, con có thể hòa hợp với thân phận chúng. Con cũng vậy, vì
con đang đi đến cái chết, nên mỗi ngày con có thể hiến dâng những kho tàng vô
giá. Ðiều gì con cho đi, không ai sẽ trả lại cái đó cho con. Không phải là một
vay mượn, nhưng là một sự hiến tặng dứt khoát, không thể rút lại được.
Khi
một em bé chấp hai tay và đọc một kinh Kính Mừng, là em đã làm cả thiên đàng rì
rào khâm phục, không chỉ vì em đã đọc kinh sốt sắng, nhưng vì em đã dâng cho
Chúa một phút của thời gian em sống. Phút ấy, em sẽ không bao tìm lại nó được.
Khi
tôi hiến cả một giờ để lắng nghe những lời than phiền làm tôi bực bội; hoặc để
khơi dậy lại niềm trông cậy trong một tấm lòng đang buồn phiền, hoặc để cho vài
lời khuyên, hay để giúp đỡ, để săn sóc, để dạy dỗ, đó không phải là một cuộc
trao đổi mà tôi thanh toán, hay một cuộc vay mươn mà tôi bằng lòng làm; nhưng,
như bà góa nói trong sách Tin Mừng, là tôi cho đi sự thiếu thốn của tôi, cho
phần vốn dự trữ rất giới hạn của tôi, tôi cho di thời gian mà tôi phải sống, và
như thế là còn cho nhiều hơn ông thánh lão thành Máctinô. Dù sao, cắt dôi chiếc
áo choàng nhà binh của mình, là một nghĩa cử chắc chắn rất đẹp mắt và tỏ lòng
bác ái rất mạnh; nhưng áo đó còn có thể thay thế lại được, trong kho của tổng
cục hậu cần.
Thông
chia kiến thức của chúng ta, là điều đáng khâm phục; cũng như khi tôi ban phát
những lời khuyên tốt lành, thì kho dự trữ sự khôn ngoan của tôi không vì thế mà
giảm bớt đi. Không, điều đáng kể thật sự, điều được xem là lòng bác ái hoàn hảo
để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, chính là ban tặng thời giờ của mình. Còn mọi
sự khác, cuối cùng, đều là phụ thuộc. Và khi chúng ta cảm thấy như bị thôi miên
bởi những đau khổ nơi các vị tử đạo về phần thể xác, mà có thể chúng ta cũng dễ
quên rằng lòng dũng cảm của các ngài có giá trị trước hết là ở chỗ các ngài
chấp nhận chết sớm hơn lẽ thường; là hy sinh những tháng năm các ngài có thể có
được để tôn vinh Thiên Chúa.
Lạy Chúa, có lẽ con chỉ có thời giờ của con để hiến dâng lên Ngài. Con không biết rõ con đã lấp đầy nó với những cái gì. Con không phải là một cánh hoa lộng lẫy, nhưng giống như tất cả mọi hoa khác, ngay cả những hoa mà người ta gọi cách sai lầm là cúc bất tử (les immortelles), vì nó có cánh hoa khô cằn, còn con thì đang tàn tạ đang lúc còn sống. Mọi kẻ nhân sinh, đang là thành viên của Hội Thánh, tất cả những ai biết rõ rằng ngày tháng của họ đều được đếm cả rồi, và biết ngày kết thúc đang đến gần, thế nhưng mọi người đều muốn phụng sự Ngài và nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa của họ : Và trải rộng khắp nơi trần thế, Hội Thánh Ngài hoan hỉ tuyên xưng (te per orber terrarum sancta confitetur Ecclesia). Xin Chúa nhận lấy thời giờ và ngày tháng của con. Khi lời cầu nguyện của con khô khan và đầu óc con trống rỗng, con không nên buồn phiền và chao động; và như một thành ngữ xưa thường nói, con chỉ cần hiến dâng kho tàng này của con là thời giờ của con cho Chúa●
“La prière de toutes les choses” (trang 120-124). “Cầu nguyện từ mọi sự
vật”
trích từ báo điện tử Maranatha, số 93