Thánh Mechthilđê, Nữ
Đan Sĩ
Thánh Mechthilđê Nữ Đan
Sĩ hay còn gọi là Thánh Mechthilđê Hackeborn, sinh năm 1241 (có tài liệu nói
năm 1242) trong một lâu đài tại Halberstadt, Thüringen, Đức Quốc. Vì là người
Đức, nên Thánh Nữ có tên theo tiếng Đức là Mechthild von Hakeborn. Tên gọi Mechthild
của Thánh Nữ có nghĩa là Nữ Chiến Binh Đầy Sức Mạnh. Vào năm lên bảy tuổi,
Mechthilđê đã theo mẹ mình đến thăm người chị ruột của cô là Thánh Nữ
Giéc-tru-đê lúc ấy đang là một Nữ Đan Sĩ trong Nữ Đan Viện Xi-tô tại Rodersdorf.
Khi đến Đan Viện nêu trên,
Mechthilđê đã bị lôi cuốn bởi bầu khí Đan Tu tại đó, nên đã thầm ước ao trở
thành thành viên của Đan Viện này. Nhưng trước tiên, cô còn phải tới trường. Và
rồi, cô được đào tạo ngay trong trường học của Nữ Đan Viện Rodersdorf. Sau đó,
vào năm 1258, khi đã hoàn tất các chương trình học vấn, và sau khi đã trải qua
các thời kỳ huấn luyện tại Thỉnh Viện và Tập Viện, Mechthilđê đã được khấn Dòng
và chính thức trở thành Nữ Đan Sĩ. Lúc Sơ Mechthilđê trở thành Đan Sĩ cũng là
lúc Đan Viện của Sơ được chuyển từ Rodersdorf tới Helfta, cụ thể là tới trang
trại của gia đình Sơ tại Hackeborn. Sơ nổi bật lên nhờ vào sự khiêm nhượng,
lòng nhiệt thành, sự đáng mến, sự thuần khiết, sự trinh trong, cũng như nhờ vào
sự thân mật và chiều sâu, mà với chúng Sơ đã sống mối tương quan với
Thiên Chúa, với Đức Trinh Nữ Maria và với các Thánh. Sơ được trang bị với những
phẩm chất cả về tự nhiên lẫn tinh thần: “Sự
hiểu biết, trí thông minh, kiến thức về ngôn ngữ và văn chương, một giọng nói
tuyệt vời trìu mến: trong số tất cả những điều kiện tiên quyết, sơ đã có thể
trở thành kho tàng đích thực của Đan Viện trong bất cứ mối liên hệ nào”
(Mechthild von Hackeborn, Liber specialis gratiae – Sách về hồng ân thiêng
liêng -, Lời mở). Và vì thế “Họa Mi của
Thiên Chúa” – như Sơ được gọi – đã đồng lúc trở thành hiệu trưởng của
trường học do Đan Viện Sơ quản trị, Ca Trưởng và Giáo tập khi Sơ còn rất trẻ.
Sơ đã thực hiện những sứ vụ đó với tài năng to lớn và với lòng nhiệt thành
không biết mệt mỏi, không chỉ vì niềm hạnh phúc của các Nữ Đan Sĩ, nhưng còn vì
niềm hạnh phúc của tất cả những người muốn đến kín múc sự khôn ngoan và sự tốt
lành từ Sơ.
Được chiếu sáng bởi ơn
thần bí của Thiên Chúa, Thánh Mechtilđê đã biên soạn vô vàn những lời kinh và
lời nguyện. Thánh Nữ là một Nữ Giáo Viên luôn trung thành với Giáo Huấn của
Giáo hội qua sự khiêm nhượng thẳm sâu. Thánh Nữ là một chuyên viên tư vấn, là
một người ủi an, và là người giúp đưa ra những quyết định. Về Thánh Nữ, người
ta có thể đọc được những lời sau đây: “Thánh
Nữ phân phối những lời chỉ dậy trong sự viên mãn mà có thể nói được rằng, người
ta chưa bao giờ thấy điều đó trong Đan Viện, và thật tiếc – chúng ta sợ thế -
cũng sẽ không bao giờ được thấy nữa. Các Nữ Tu đã quây quần lại chung quanh
Thánh Nữ, để lắng nghe Lời Chúa, như xúm lại chung quanh một vị giảng thuyết.
Thánh Nữ trở thành nơi nương tựa cũng như là niềm an ủi đối với tất cả, và nhờ
ơn Thiên Chúa, Thánh Nữ thủ đắc một hồng ân đặc biệt trong việc giải thích một
cách rõ ràng những điều bí nhiệm của một tâm hồn. Nhiều người – không chỉ trong
Đan Viện, nhưng còn cả những Tu Sĩ và những Giáo dân khác, có cả những người
đến từ rất xa – làm chứng rằng, vị Thánh Trinh Nữ này đã giải thoát họ khỏi
những nỗi cùng khốn của họ, và họ không bao giờ cảm thấy có được một niềm an ủi
ở bất cứ nơi nào khác giống như khi họ ở bên Thánh Nữ. Ngoài ra, Thánh Nữ còn
biên soạn và dậy cho người khác biết rất nhiều lời Kinh. Người ta muốn tóm tắt
tất cả những lời Kinh ấy khi nói rằng, chúng còn nhiều hơn cả cuốn Thánh Vịnh”
(Liber specialis gratiae, VI,1).
Vào năm 1261, một cô bé
mới lên năm tên là Giê-tru-đê bước vào Đan Viện của Thánh Nữ. Thánh Mechthilđê
lúc đó chưa tròn 20 tuổi, đã được trao nhiệm vụ để trông nom cô bé ấy. Thánh Nữ
đã giáo dục cũng như đã hướng dẫn cô bé ấy trong đời sống thiêng liêng, và sau
cùng, không chỉ biến cô bé ấy thành một nữ sinh xuất chúng, nhưng Thánh Nữ còn
làm cho cô ấy trở thành người tín cậy của mình nữa. Vào khoảng năm 1271,
Mechthilđê Magdeburg cũng gia nhập Đan Viện. Và như thế, Nữ Đan Viện đã đón
nhận bốn người phụ nữ tuyệt vời, hai vị mang tên là Giê-tru-đê và hai vị mang
tên là Mechthilđê. Đây quả là một đại vinh dự cho đời sống Đan Tu tại Đức.
Trong suốt cuộc đời mà Thánh Nữ đã trải qua nơi Đan Viện, Thánh Mechthilđê đã
bị tấn công thường xuyên bởi những nỗi đau khổ to lớn. Nhưng Thánh Nữ đã bổ
sung những nỗi đau khổ ấy vào với sự hy sinh hãm mình nghiêm khắc mà Thánh Nữ
đã thực hiện nhằm cầu cho các tội nhân được ơn hoán cải. Với cách thức đó,
Thánh Nữ đã tham dự vào nỗi khổ đau của Chúa Giê-su cho tới khi kết thúc cuộc
đời (Liber specialis gratiae, VI,2).
Đời sống cầu nguyện và
chiêm niệm chính là “môi trường” sống
quan trọng đối với cuộc hiện sinh của Thánh Nữ: Những mạc khải, những Giáo huấn
và sự phục vụ tha nhân cũng như con đường của Thánh Nữ trong Đức Tin và trong
Đức Ái, tất cả đều có gốc rễ và môi trường sống của chúng ở đó. Trong cuốn đầu
tiên của tác phẩm Liber specialis gratiae (Sách về hồng ân thiêng liêng), các
nữ soạn giả đã tóm tắt lại điều mà Thánh Mechthilđê đã ủy thác cho họ, được sắp
xếp theo các ngày Lễ kính Chúa, kính các Thánh và đặc biệt là kính Đức Trinh Nữ
Maria. Khả năng của Thánh Mechthilđê trong việc sống những phần khác nhau của
Phụng Vụ, ngay cả nơi những phần đơn giản nhất, và việc hiểu về Ngài trong đời
sống Đan Viện thường ngày, thật là ấn tượng. Một số những hình ảnh, những cách
diễn tả và những cách vận dụng mà Thánh Nữ đã sử dụng, có thể khá xa lạ đối với
quan điểm của chúng ta, nhưng nếu người ta lưu tâm một cách nghiêm túc tới đời
sống Đan Viện cũng như tới sứ mạng của Thánh Nữ với tư cách là Nữ Giáo Tập và
Nữ Ca Trưởng, thì người ta sẽ ngay lập tức nhận ra tài năng có một không hai
của Thánh Nữ với tư cách là một nhà Giáo dục, một nữ giáo viên, mà nhờ tài năng
đó Thánh Nữ đã giúp những người chị em trong Đan Viện của mình chìm đắm trong
đời sống Phụng Vụ thuộc bất cứ khoảnh khắc nào của đời sống Đan Viện.
Trong khi thực hành đời
sống Phụng Vụ, Thánh Mechthilđê rất đề cao Kinh Nhật Tụng, kể cả việc cử hành
các Thánh Lễ, và đặc biệt là việc Rước Lễ. Và khi thực hành đời sống Phụng Vụ,
Thánh Nữ thường tỏ ra ngất ngây trong sự gần gũi thân mật với Thiên Chúa, trong
con tim bừng cháy vày đầy ắp tình mến đối với Ngài, trong một cuộc đàm đạo
tuyệt vời mà trong đó Thánh Nữ đã cầu xin cho được ơn soi sáng nội tâm cũng như
dâng lên những lời nguyện giúp cầu thay đặc biệt cho cộng đoàn và cho những chị
em của mình. Đứng ở nơi trung tâm điểm luôn là các mầu nhiệm về Chúa Ki-tô mà
Đức Trinh Nữ Maria thường xuyên chỉ dẫn cho Thánh Nữ để Thánh Nữ bước đi trên
con đường thánh thiện: “Nếu con ước ao
nên thánh thực sự, thì con hãy lưu lại bên Con của Mẹ; chính Ngài là sự thánh
thiện, mà sự thánh thiện ấy có khả năng thánh hóa tất cả” (Liber specialis
gratiae, I,40). Toàn bộ thế giới, lẫn Giáo hội, cả những người tốt lẫn các tội
nhân đều được bao hàm trong sự gần gũi thân mật nội tâm của Thánh Nữ đối với
Thiên Chúa.
Các thị kiến, các Giáo
huấn và những biến cố trong đời sống Thánh Nữ đều được mô tả bằng những cách
diễn tả mà chúng có những âm hưởng trong Phụng Vụ và Kinh Thánh. Nhờ thế, người
ta hiểu được kiến thức sâu xa của Thánh Nữ về Kinh Thánh, vì Kinh Thánh chính
là lương thực hằng ngày của Thánh Nữ. Thánh Nữ thường xuyên liên hệ tới điều đó
trong lúc Thánh Nữ đề cao những bản văn Kinh Thánh được đọc trong Phụng Vụ, và
rút ra từ những bản văn ấy những biểu tượng, những thuật ngữ, những phong cảnh,
những hình ảnh và những con người. Thánh Nữ yêu mến Tin Mừng cách đặc biệt: “Đối với Thánh Nữ, những lời trong Tin Mừng
là một món ăn tuyệt vời, và khơi lên trong lòng Thánh Nữ những cảm xúc ngọt
ngào, đến độ Thánh Nữ thường xuyên không thể dứt ra khỏi niềm say mê trước việc
đọc Tin Mừng… Thánh Nữ đã đọc những lời này một cách hết lòng hết dạ, đến độ
trong tất cả mọi giờ chầu, Thánh Nữ đều đọc hết. Ngay cả trong lúc hát kinh tại
Ca Tòa, Thánh Nữ cũng hoàn toàn chìm đắm trong Thiên Chúa, và bị xâm chiếm hoàn
toàn bởi sự tận hiến đó, đến mức đôi khi Thánh Nữ đã diễn tả những cảm xúc của
mình qua các cử chỉ và hành động… Rất nhiều lần trong các giờ Kinh Phụng Vụ,
Thánh Nữ trở nên ngất ngây đến nỗi Thánh Nữ đã không nhận ra được việc người ta
gọi hay đụng tới Thánh Nữ, và người ta phải đụng rất mạnh vào Thánh Nữ thì
Thánh Nữ mới lấy lại được sự nhận thức đối với thế giới bên ngoài” (Liber
specialis gratiae, VI,1). Trong một thị kiến, chính Chúa Giê-su đã khuyên Thánh
Nữ hãy đọc Tin Mừng; Ngài mở vết thương nơi Thánh Tâm đầy yêu thương của Ngài
ra và nói với Thánh Nữ: “Con thử nghĩ
xem, Tình Yêu của Ta lớn lao biết chừng nào: nếu con muốn học biết Tình Yêu ấy,
con sẽ không thấy nó được diễn tả ở bất cứ nơi đâu khác tốt cho bằng trong Tin
Mừng. Không có bất cứ nơi nào có thể nghe thấy được những lời mạnh mẽ và đầy
tình mến cho bằng những lời này: ´Như Chúa Cha đã yêu thương Thầy thế nào, thì
Thầy cũng yêu thương anh em như thế`(Ga 15,9)” (Liber specialis gratiae,
I,22).
Những kinh nghiệm thiêng
liêng của Thánh Mechthilđê Hackeborn có gốc rễ từ những giờ nguyện cầu mang
tính cá nhân cũng như Phụng Vụ, đặc biệt là từ các giờ Kinh Nhật Tụng và Thánh
Lễ. Trong khi Thánh Nữ để cho mình được dẫn dắt bởi Lời Chúa và bởi Bí Tích Thánh
Thể, Thánh Nữ đã đi trên con đường hiệp nhất nội tâm với Thiên Chúa, luôn luôn
trong sự trung tín hoàn toàn với Giáo hội. Đó cũng là một lời mời gọi tha thiết
dành cho chúng ta để đào sâu thêm tình bằng hữu đối với Thiên Chúa, đặc biệt là
qua kinh nguyện hằng ngày và qua sự tham dự Thánh Lễ cách chu đáo, trung tín và
sống động.
Phụng Vụ chính là ngôi
trường lớn về đời sống thiêng liêng. Điều này được thể hiện qua sự mô tả đầy ấn
tượng của Thánh Giê-tru-đê – Nữ môn đệ của Thánh Mechthilđê - về những khoảnh
khắc sau cùng trong đời sống của Thánh Nữ. Thánh Nữ rất khắt khe, nhưng được
soi sáng bởi sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, bởi chính Chúa
Giê-su, bởi Đức Trinh Nữ Maria, bởi tất cả các Thánh, và bởi người chị ruột là
Thánh Giê-tru-đê Viện Mẫu. Khi đến giờ Thiên Chúa muốn đón Thánh Nữ về với
mình, Thánh Nữ đã xin Ngài cho phép được tiếp tục sống trong sự đau khổ vì ơn
cứu độ của các Linh hồn, và Chúa Giê-su đã tỏ ra rất vui vì dấu chỉ cuối cùng
này của đức mến.
Thánh Mechthilđê đã qua
đời vào ngày 19 tháng 11 năm 1299, lúc 58 tuổi đời. Giai đoạn cuối cùng trên
con đường của Thánh Nữ được đánh dấu bởi tám năm mang trọng bệnh. Các tác phẩm
và danh thơm thánh thiện của Thánh Nữ đã nhanh chóng được phổ biến khắp nơi.
Khi giờ của Thánh Nữ đến, “Thiên Chúa
quyền năng, Đấng là niềm an ủi duy nhất đối với tâm hồn yêu mến Ngài, đã nói
với Thánh Nữ rằng: ›Venite vos, benedicti Patris mei… Hỡi kẻ được Cha ta chúc
phúc, hãy đến thừa hưởng Nước Trời`, và đón Thánh Nữ vào trong vinh quang của
Ngài” (Liber specialis gratiae, VI,8).
Thánh Mechthilđê đã trao
phó chúng ta cho Rất Thánh Trái Tim Chúa Giê-su cũng như cho Đức Trinh Nữ
Maria. Thánh Nữ mời gọi chúng ta hãy ngợi khen Chúa Con thông qua con tim của
Đức Mẹ, và ngợi khen Đức Maria thông qua trái tim của Chúa Con: “Con xin kính chào Chúa Giê-su và Mẹ, ôi lạy
Đức Trinh Nữ đáng kính, trong hạt sương mai lan rộng từ con tim của Thiên Chúa
Ba Ngôi Chí Thánh sang Chúa và Mẹ; con xin kính chào Chúa Giê-su và Mẹ trong
vinh quang và trong niềm vui, mà giờ đây Mẹ và Chúa Giê-su đang sống sự vĩnh
cửu tại đó. Chúa Giê-su và Mẹ đã được tuyển chọn trước muôn vàn các thụ tạo
khác, của cả trái đất lẫn Thiên Đàng, trước cả khi tạo dựng thế giới! Amen”
(Liber specialis gratiae, I,45).
Không lâu sau khi qua
đời, Thánh Mechthilđê đã được tôn kính với tư cách là một vị Thánh. Tuy
nhiên, chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào nói về vụ án Phong Thánh của Thánh
Mechthilđê Hackeborn, nên không biết Thánh Nữ được chính thức phong Thánh vào
ngày tháng năm nào. Dẫu vậy, danh tính của Thánh Nữ đã được ghi trong
Martyrologium Romanum, tức Danh Mục các Thánh của Giáo hội Rô-ma. Vào ngày 29
tháng 09 năm 1010, qua Bài Giáo Lý nhân buổi tiếp kiến chung vào mỗi sáng thứ
Tư hàng tuần, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI đã trình bày cách đặc biệt về
Thánh Nữ Mechthilđê Hackeborn. Bài viết này được trình bày dựa trên bài Giáo Lý
vừa nêu của Đức Bê-nê-đíc-tô XVI. Giáo hội Công giáo kính nhớ Thánh Nữ
Mechthilđê Hackeborn vào ngày 19 tháng 11, tức ngày qua đời của Thánh Nữ, với
bậc Lễ nhớ tự do, tức Lễ bậc VI.
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist