NGÀY 14 THÁNG 05
Thánh Mát-thi-a Tông
Đồ
Thánh Mát-thi-a Tông Đồ là môn đệ “thứ 13“ của Chúa Giê-su. Chữ
Mát-thi-a thực ra chỉ là hình thức viết tắt của chữ Mattathias trong tiếng
Hýp-ri: tên đầy đủ của Ngài phải là Mát-ta-thi-a. Không có nhiều thông tin về
Ngài xét về khía cạnh sử học. Và vì thế, những gì người ta biết được về Ngài hầu
hết đến từ những truyền thuyết. Theo sách Tông Đồ Công Vụ thì sau khi Chúa
Giê-su về Trời, nhóm Mười Một môn đệ của Ngài đã họp nhau lại để bầu chọn một
người thế chỗ cho Giu-đa Iscariot – kẻ đã phản bội Chúa và đã tự sát. Hai ứng cử
viên cho vị trí đó là ông Giu-se Ba-sa-ba và ông Mát-thi-a.
Sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại cuộc bầu chọn trên với những lời
như sau: „Trong những ngày ấy, ông Phê-rô
đứng lên giữa các anh em – có khoảng một trăm hai mươi người đang họp mặt –.
Ông nói: “Thưa anh em, lời Kinh Thánh phải ứng nghiệm, lời mà Thánh Thần đã
dùng miệng vua Đa-vít để nói trước về Giu-đa, kẻ đã trở thành tên dẫn đường cho
những người bắt Đức Giê-su. Y đã là một người trong số chúng tôi và được tham dự
vào công việc phục vụ của chúng tôi. Vậy, con người ấy đã dùng tiền công của tội
ác mà tậu một thửa đất; y đã ngã lộn đầu xuống, vỡ bụng, lòi cả ruột gan ra. Điều
đó, mọi người ở Giê-ru-sa-lem đều biết, khiến họ đặt tên cho thửa đất ấy là
Kha-ken-đơ-ma, theo tiếng của họ nghĩa là Đất Máu. Thật thế, trong sách Thánh vịnh
có chép rằng:
Ước gì lều
trại nó phải tan hoang,
không còn
ai trú ngụ.
Và ước gì
người khác nhận lấy chức vụ của nó.
Vậy phải
làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời
gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa cho
đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó
phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh.”
Họ đề cử
hai người: ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô và ông
Mát-thi-a. Họ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người;
giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai, để nhận chỗ trong sứ vụ Tông
Đồ, chỗ Giu-đa đã bỏ để đi về nơi dành cho y.” Họ rút thăm, thăm trúng ông
Mát-thi-a: ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ“ (Cv 1,15-26).
Theo bản tường thuật trên thì Mát-thi-a chính là người đã cùng
Nhóm Mười Một đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người sống giữa họ, kể từ khi
Người được ông Gio-an làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ họ và được rước về
trời. Ông là người phải cùng với Nhóm Mười Một làm chứng rằng, Chúa Giê-su đã
phục sinh.
Theo sử gia Êusêbiô – Giám mục Thành Cesarea -, thì Thánh
Mát-thi-a là người xuất thân từ một gia đình giầu có tại Bê-lem. Ngài biết Chúa
Giê-su ngay từ lúc còn là một thanh niên, và là một trong nhóm 70 Môn Đệ của
Ngài. Khi còn sinh thời, đích thân Chúa Giê-su cũng đã từng sai nhóm này đi
loan báo Triều Đại Thiên Chúa (xc. Lc 10,1).
Theo một số truyền thuyết thì Thánh Mát-thi-a chỉ hoạt động Tông
Đồ tại vùng Giu-đê-a mà thôi. Và vì Ngài đã thực hiện quá nhiều phép lạ, đã có
những bài giảng hết sức hấp dẫn cũng như đã làm cho rất nhiều người trở lại
Ki-tô giáo, nên đã bị tố cáo trước Thượng Hội Đồng của người Do-thái, và cuối
cùng đã bị Thượng Hội Đồng này kết án tử hình bằng cách bị ném đá. Nhưng do
Ngài vẫn sống sót sau cuộc ném đá, nên theo phong tục của người Rô-ma, người ta
đã dùng một chiếc rìu để chém đầu Ngài.
Theo một số truyền thuyết khác thì trước tiên, Thánh Mát-thi-a
đã loan báo Tin Mừng tại Hy-lạp, rồi tại vùng Cáp-ca và tại vùng Biển Đen của
Êthiopia. Vào năm 63, Ngài đã bị dân ngoại ném đá nhưng vẫn sống sót. Cuối
cùng, người ta đã phải dùng rìu để chặt đầu Ngài.
Có truyền thuyết kể rằng, Ngài đã bị những kẻ chuyên ăn thịt người
bắt trói. Trong lúc chúng định ăn thịt Ngài thì Thánh An-rê Tông Đồ đã hiện ra
với ánh sáng chói lòa để cứu Ngài thoát khỏi tay bọn ác nhân đó. Và rồi Ngài đã
được thanh thản ra đi với cái chết bình an.
Ngay từ thế kỷ thứ II đã xuất hiện một cuốn Ngụy Phúc Âm với tên
gọi là: „Tin Mừng Theo Thánh Mát-thi-a“.
Phần lớn các Thánh Cốt của Thánh Mát-thi-a hiện đang được bảo quản
và tôn kính tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả ở Rô-ma. Vào thế kỷ thứ IV, với
sự trợ giúp của Đức Giám Mục Agritius, Thánh Helena, tức hoàng thái hậu của
hoàng đế Constantin, đã chuyển một phần Thánh Cốt của Thánh Mát-thi-a về Trier
(một thành phố cổ nằm ở phía Tây nước Đức, và là cố đô của Đế quốc Rô-ma). Phải
mãi tới thế kỷ thứ IX trở đi mới xuất hiện những văn bản nói về nơi bảo quản và
tôn kính các Thánh Cốt của Thánh Mát-thi-a. Và mãi tới năm 1050 người ta mới lần
đầu tiên thấy được các Thánh Cốt của Thánh Nhân tại Trier. Kể từ đó, các Thánh
Cốt của Ngài mới được đặt lên trên bàn thờ của nhà thờ St. Eucharius.
Mộ của thánh Mát-thi-a tại Trier là ngôi mộ duy nhất của các
Thánh Tông Đồ nằm ở phía Bắc dẫy núi Alpe. Có truyền thuyết cho rằng, một phần
thánh Cốt của Thánh Mát-thi-a đã được chuyển từ Trier tới Goslar (thuộc bang
Niedersachsen của Đức ngày nay). Một phần Thánh Cốt khác của Ngài thì lại được
mang từ Trier tới Padua (một thành phố nằm ở phía Bắc nước Ý), và được bảo quản
và tôn kính trong nhà thờ Thánh Giustina.
Vào thế kỷ XII, Đức Giám Mục Lambert de Liège đã biên soạn một
cuốn hạnh Thánh Mát-thi-a. Đây là một bộ sưu tập về các phép lạ, các thị kiến
vào mỗi dịp dân chúng tổ chức mừng kính Ngài, cũng như những bài tường thuật về
các biến cố phát hiện ra các Thánh Cốt của Ngài, kể cả những lần di chuyển các
Thánh Cốt đó. Vào thời Trung Cổ, rất nhiều tín hữu đã muốn hành hương tới mộ của
Thánh Mát-thi-a. Cũng trong thời gian ấy, nhiều Huynh Đoàn mang tên Mát-thi-a
đã được thành lập. Ngày nay, việc hành hương để viếng mộ Thánh Mát-thi-a cũng vẫn
đang còn là điều mong ước đối với nhiều tín hữu.
Trong hội họa và điêu khắc, Mát-thi-a luôn có mặt trong các bức
tranh hay các bức phù điêu về các biến Cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, biến cố Đức
Maria qua đời và được rước về trời, đặc biệt là biến cố nhóm Mười Một bầu chọn
Ngài làm Tông Đồ. Tuy nhiên, trong các bức họa về nhóm 12 Tông Đồ thì Ngài lại
thường bị lu mờ bởi sự hiện diện của Thánh Phao-lô. Cũng trong nghệ thuật hội họa,
Thánh Mát-thi-a luôn được trình bày với một cuốn sách trên tay để tượng trưng
cho phẩm vị Tông Đồ, và một chiếc rìu hay một chiếc kích (một loại vũ khí thời
cổ) để tượng trưng cho phúc Tử Đạo của Ngài.
Người ta cho rằng, câu cuối cùng trong Kinh Tin Kính các Tông Đồ
là do Ngài thêm vào: „et vitam aeternam –
và sự sống đời đời“.
Vô vàn những phong tục về Thánh Mát-thi-a đã phát sinh từ lòng đạo
đức bình dân, thậm chí có cả những điều dị đoan nữa. Theo đó, tại Bô-hê-mi-a, cứ
vào ngày 24 tháng 02 (trước đây, Lễ kính Thánh Mát-thi-a được cử hành vào ngày
này), người ta sẽ rung những cây ăn trái để cầu mong cho chúng được bội thu.
Trong đêm mừng kính Thánh Nhân, người ta sẽ lấy những chiếc lá của cây Thường
Xuân đem đặt trên mặt nước để cầu mong cho được khỏe mạnh khỏi phải ốm đau. Thậm
chí, trong đêm mừng kính Thánh Mát-thi-a người ta còn gieo những lá quẻ để thăm
dò tương lai nữa.
Trước đây, Giáo hội Công giáo mừng kính Thánh Mát-thi-a vào ngày
24 tháng 02. Tuy nhiên, kể từ khi có cuộc cải tổ Lịch Phụng Vụ (1969) tới nay,
Lễ của Thánh Mát-thi-a đã được Giáo hội Công giáo cử hành vào ngày 14 tháng 05
với bậc Lễ kính. Nhưng riêng các Giáo phận thuộc khối tiếng Đức thì vẫn mừng
kính Thánh Mát-thi-a vào ngày 24 tháng 02.
Giáo hội Tin Lành cũng vẫn giữ nguyên ngày mừng kính Thánh
Mát-thi-a là ngày 24 tháng 02.
Giáo hội Anh giáo thì mừng kính Thánh Mát-thi-a vào cả hai ngày:
24 tháng 02 và 14 tháng 05.
Giáo hội Chính Thống giáo mừng kính Thánh Mát-thi-a vào ngày mồng
09 tháng 08.
Còn Giáo hội Cốp-tít thì lại mừng kính Thánh Nhân vào ngày mồng
04 tháng 03.
Lm. Đa-minh Trần Tiến
Thiệu, O.Cist.